Tập 1
CHƯƠNG 1
TƯỚNG SỐ - MỘT NGHỀ CỔ XƯA

     hẩu quyết tướng số bí truyền
Tham giả tất bần, quân tử dĩ vi đại giới, Phật môn diệc vi ngũ giới chi thủ, cố tố “A Bảo”, cữu bất tại “tướng”, nhi tại “nhất”
— A Bảo Thiên —
Câu nói này trích từ thiên A Bảo trong cuốn Mật quyết giang hồ, nghĩa là bản chất con người vốn tham lam, tham lam ắt phạm vào đại Ngũ giới, do đó kẻ tham lam tất sẽ bần tiện, nên làm A Bảo là để đi lừa những kẻ tham lam đó, điều này không hề sai. Nói cách khác chính là đáng đời bọn chúng!
A Bảo là một từ tiếng lóng, nghĩa đầy đủ là kẻ dựa vào tướng số để đi lừa bịp. Tướng chỉ kẻ đi lừa bịp. Nhất chỉ người bị lừa.
Năm 1948, tôi tròn 20 tuổi, vì kế sinh nhai mà phải đi theo Tổ Gia. Tổ Gia là ông trùm lừa đảo, một kẻ lão luyện giang hồ, thủ đoạn tàn độc, người nào muốn bước vào địa bàn của ông ta, đều phải bái ông ta làm thầy, nếu không sẽ bị “cắt cổ” (giết). Giống như băng nhóm xã hội đen thời nay vậy.
Đi theo Tổ Gia sẽ được ô dù bảo vệ, nhưng tiền kiếm được phải giao nộp tất cả, không được bớt xén dù chỉ một đồng, sau đó trích phần trăm lại bao nhiêu, hoàn toàn do Tổ Gia quyết định. Đối với kẻ nào ỉm đi, Tổ Gia tất có cách trừng phạt riêng, nếu không ông không phải là Tổ Gia nữa. Tâm lý chiến của ông vô cùng lợi hại, hơn nữa còn phái người “kết thòng lọng” (giám sát), chỉ cần phát hiện kẻ nào đó ỉm tiền đi, lập tức chặt một ngón tay, tái diễn lần thứ hai sẽ “cắt cổ”.
Một khi đã bước vào nghề này rồi sẽ không bao giờ rút chân ra được, vì anh biết quá nhiều, nên anh chỉ có hai con đường hoặc là tiếp tục, hoặc là bị “cắt cổ”.
Thông thường không kẻ nào bước chân vào rồi lại muốn rút ra cả, vì thu nhập của nghề này rất cao, không bao giờ gặp mùa thất bát.
Đi theo Tổ Gia, trước tiên phải học âm dương Ngũ hành. Đây gọi là xây nền móng, tức muốn lừa đảo được, tất phải có một chút nền tảng, bằng không nếu sa chân, uy tín của Tổ Gia cũng sẽ bị ảnh hưởng. Kiến thức cơ bản được đào tạo trong vòng một tháng, trước tiên học Anh Diệu, tức tâm lý học trong thuật lừa đảo. Khẩu quyết trọng tâm của Anh Diệu đến nay tôi vẫn nhớ rõ mồn một:
Nhập môn quan lai ý, xuất ngôn mạc trù trừ;
Thiên lai vấn truy dục truy quý, truy lai vấn thiên vi thiên ưu;
Bát vấn thất, hỷ giả dục bằng thất quý, oán giả thực vi thất sầu;
Thất vấn bát, phi bát hữu sự, tất nhiên tử tức gian nan;
Sĩ tử vấn tiền đồ, sinh tôn vi cận cổ;
Điệp điệp vấn thử sự, định nhiên thử sự khuyết; Tần tần vấn nguyên nhân, kỳ trung định hữu nhân;
Tăng đạo tòng thanh cao, bất vong lợi dục;
Miếu lang đạt sĩ, chí tại sơn lâm;
Nhất ca yêu ngận đao, nhị ca yêu phao đao, tam táo yêu khiêu tảo.
Đây đều là tiếng lóng, tôi sẽ giải nghĩa từng từ, từng câu một.
Câu thứ nhất: Nhập môn quan lai ý, xuất ngôn mạc trù trừ.
Ý là khi có người đến xem tướng số cho chính mình, hoặc giả xem cho người khác, ta không nên nói gì, phải nghe họ trình bày trước đã, họ nói càng nhiều, sẽ càng để lộ ra nhiều thông tin quý báu. Khi đó ta phải nắm đúng thời cơ, đột nhiên phán một câu lạnh lùng, đánh đúng chỗ hiểm. Nhất thiết không được chần chừ ngập ngừng, chớ úp mở không rõ ràng, nếu không đối phương sẽ cho rằng trình độ của ta còn non kém. Vậy làm thế nào để bắt được chỗ hiểm, hãy nghiền ngẫm kỹ những câu tiếp theo dưới đây.
Câu thứ hai: Thiên lai vấn truy dục truy quý, truy lai vấn thiên vi thiên ưu.
Thiên chỉ người cha, truy chỉ người con. Câu này nghĩa là: chỉ cần cha đến xem tướng số cho con, về cơ bản đều muốn biết tiền đồ của con cái mình thế nào, sau này có thể phát phú phát quý không. Phàm là bậc làm cha mẹ trong thiên hạ, ai mà chẳng hy vọng con cái thành tài, trai thành rồng, gái thành phượng, cho dù bản thân mình chỉ là con gà trụi lông. Dạng người này đến xem tướng số, một khi đã hỏi đến những vấn đề đó, hầu hết con trai hoặc con gái họ đều không có chí tiến thủ, hoặc không hề có một chút biểu hiện gì của phún ám sát thì chỉ dựa vào một tên thổ phỉ lưu manh đó, làm sao có thể lấy được tin tình báo quân sự của; quý, hoặc ngỗ ngược càn quấy. Cứ bám theo mạch này để phán đoán, đảm bảo không bao giờ sai. Nửa câu sau chính là nói hễ con cái xem tướng số cho cha mẹ, chắc chắn cha hoặc mẹ của họ sức khỏe không tốt, hoặc đang bệnh nặng, hoặc sắp quy tiên. Ngoài những điều đó ra, con cái chẳng còn vấn đề gì để hỏi liên quan đến cha mẹ mình cả. Do đó ta cứ trực tiếp phán đoán cha hoặc mẹ của họ sức khỏe có vấn đề, khẳng định không đúng không lấy tiền.
Câu thứ ba: Bát vấn thất, hỷ giả dục bằng thất quý, oán giả thực vi thất sầu.
Bát là chỉ người vợ, thất là chỉ người chồng, tức chỉ cần là vợ đến xem tiền đồ và vận thế cho chồng. Nếu người phụ nữ đến với niềm hân hoan vui mừng hiện rõ trên từng cử chỉ nét mặt, điều này chứng tỏ người chồng thời gian gần đây có thể sắp có vận quan chức hoặc vận tài lộc. Tóm lại là việc tốt. Chỉ có điều, việc tốt vẫn chưa đến, hoặc mới chỉ manh nha nảy mầm, người này thường mang tâm lý đón đầu, muốn đến xem một quẻ bói trước. Vậy ta có thể trực tiếp phán đoán rằng chồng của bà (cô) ta có phúc có lộc, sắp hành đại vận đến nơi rồi. Khỏi cần quan tâm kết quả ra sao, khi đó các bà các cô chắc chắn sẽ chớp chớp đôi mắt, mỉm cười như một chú nai ngơ ngác, vung tay thưởng hậu hĩnh cho thầy tướng số. Ngược lại, nếu người phụ nữ này đến với gương mặt lo âu, phiền muộn, chắc chắn chồng của họ gần đây hành vận kém, gặp ny vào, chiếm hết ch&i sắp bị mất chức, hoặc sắp phá sản, hoặc ày diện tích không đáng là bao, nhưng có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, kẻ nào chiếm lĩnh được, kẻ đó sẽ trấn giữ được cả eo biển Malacca, từ đây có thể khống chế được cả con đường vận tải biển ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương…”
“Từ năm 1911 đến nay, người Nhật đã bắt đầu tiến hành công việc khảo sát trên những hòn đảo này, người Pháp đổ bộ đến sau, lại đuổi hết người của chúng tôi ra khỏi đảo, chúng tôi không thể để yên được. Thiên Hoàng bệ hạ đã cho triệu kiến lãnh sự Pháp ngay lập tức, bọn họ đưa ra một vài điều kiện. Trong đó, có một điều kiện là, kiều bào Nhật có thể tự do ra vào tô giới Pháp, chỉ trừ phi xảy ra xung đột giữa kiều bào Nhật với người Pháp, còn lại tất cả đều được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. Hành động lần này, chúng tôi sắp đặt ở tô giới Ph&aaccó hai từ tiếng lóng, một l& lý đề phòng của Tổ Gia, thứ hai muốn xem xem người Pháp có làm theo điều họ cam kết hay không…”
Tổ Gia gật đầu, không khỏi thở dài trước sự xảo quyệt của người Nhật: “Đã dụ được tôi, sao không phái thêm nhiều người đến, chỉ một đòn giết tôi chết có phải hay không?”
Nghe thấy thế, Tây Điền Mỹ Tử bật cười khanh khách: “Tổ Gia tưởng những sát thủ đó là người Nhật thật sao? Chúng tôi làm sao có thể sai phái người của mình đi chết được chứ? Mạng của người Nhật đáng đồng tiền lắm đấy. Chúng tôi đã bỏ tiền ra thuê mấy thằng bạt mạng ở Thượng Hải, làm cho chúng mấy tờ chứng minh là kiều bào Nhật rồi nhét vào túi, chúng chết như vậy ở tô giới Pháp, người Pháp sẽ phải bồi thường cho chúng tôi. Nếu chúng tôi thật sự muốn giết ông, liệu có để cho ông chạy thoát không?”
“Không giết tôi, vậy các người muốn thế nào?” Tổ Gia không hiểu.
“Tổ Gia không cần phải n& cao, bất vong lợi dục.
Người xuất gia chân chính không bao giờ ýt đem tin này đến báo cho Vương Á Tiều, chúng tôi có thể lần theo dây dưa mà ngắt quả, nhưng đây chẳng phải chuyện quan trọng lắm, quan trọng là, chúng tôi cần Tổ Gia…”
“Cần tôi?”
“Mai Huyền Tử là kẻ khôn ngoan, hôm đó chúng tôi sắp xếp cho ông ta gặp ông, chính là muốn để ông ta bàn chuyện cùng hợp tác với ông.”
“Thì ra chính các người đứng sau lưng giật dây? Bàn chuyện hợp tác?”
“Đúng thế. Nếu không phải tên Tăng Kính Võ lao đến sớm, Mai Huyền Tử đã nói hết ra rồi. Bây giờ, tôi đành phải thay Mai Huyền Tử nói nốt đoạn còn lại vậy. Trung Quốc và Nhật Bản, văn hoá cùng chung nguồn cội, những lý luận và học thuyết mà tổ tiên các ông đã sáng tạo ra, lần lượt được truyền tới đất nước chúng tôi, trong đó có Kịnh Dịch và Huyền học ngũ thuật59. Ngoài bản thân các ông ra, Nhật Bản là đất nước kế thừa văn hóa Trung Hoa tốt nhất. Nay, các dòng tôn giáo phương Tây theo chân các cường quốc ùa vào Trung Quốc như ong vỡ tổ, giáo học truyền thống Trung Hoa bị bóp nghẹt. Người Trung Quốc các ông đã không thể tự mình bảo vệ được mặt trận văn hóa, người được hưởng chung một dòng văn hóa như người Nhật chúng tôi đây không thể bàng quan, chỉ biết ngồi trơ mắt ếcnhân vật vô cùng ghê gớm. Đúng vậy! Ông là người đặc biệt hào hoa, kinh luân một bụng, tướng mạo đường đường, nét mặt hiền hòa. N cho vòng thi chọn ra ba trong số mười người của ngày hôm sau. Cuộc thi biện luận lần này, Tổ Gia chỉ nói cho các Bá đầu của Đường khẩu, đồng thời ra lệnh: “Kẻ nào tiết lộ chuyện cơ mật sẽ phải chết!“
Việc tham gia cuộc thi hùng biện Dịch học do người Nhật tổ chức lần này khiến các Bá đầu đều cảm thấy khó hiểu, Nhị Bá đầu không nhịn được tò mò hỏi một câu: “Tổ Gia, thầy định làm gì vậy?”
Chuyện Tổ Gia “nương nhờ” người Nhật, trong nội bộ phái Giang Tướng, ngoài Giang Phi Yến ra, những người khác hoàn toàn không biết gì. Tổ Gia cũng không muốn để cho bọn họ biết quá nhiều.
“Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực giành cho được danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học là được, những việc khác không cần nghĩ đến.” Tổ Gia trả lời.
Đại Bá đầu lúc lắc cái đầu hỏi: “Tổ Gia… Không phải Tổ Gia đã nương nhờ… nương nhờ…”
Tổ Gia trợn mắt lườm, Đại Bá đầu sợ hãi không dám ho he nữa.
Nhị Bá đầu thấy bầu không khí có phần căng thẳng, liền nói: “Tổ Gia có sắp đặt riêng của thầy rồi, kinh nghiệm bao nhiêu năm nay cho chúng ta thấy, chỉ cần theo Tổ Gia, sẽ không đi lạc đường.”
Trương Tự Triêm há miệng định nói gì đó thì bị Hoàng Pháp Dung đứng sau lưng kéo áo, nên lại im bặt.
Ngũ Bá đầu Trương Kỳ Lĩnh hắng giọng ho lên một tiếng, nói: “Con tin theo Tổ Gia, Tổ Gia đi đâu con đi đấy.”
Nhị Bá đầu lườm anh ta một cái, nói: “Lẽ nào là Hán gian thì không xứng đáng?!”
Bầu không khí trong Đường khẩu bỗng trở nên căng thẳng.
Hoàng Pháp Dung là tay chân được Tổ Gia đặc cách cho tham gia vào cuộc họp, lúc này đã phát huy được uy lực: “Bùn nhiều thì đắp Phật to, nước lên thuyền lên, Tô Tần dùng thuyết hợp tung theo giúp Sở Vương, Trương Nghi lấy thuyết liên hoành phò trợ Tần Đế, lấy được danh hiệu Thái Sơn Bắc Đầu Dịch học chính là gián tiếp góp sức cứu nước, đối với phái Giang Tướng, đối với sức mạnh kết tụ của các hội đạo môn Trung Hoa, đều mang lại lợi ích lớn. Sư bá ra lệnh một tiếng, núi rung đất chuyển, kim vàng trích máu cùng thề, các huynh đệ cùng đồng tâm hiệp lực. Lẽ nào các vị đã quên lời thề khi bước vào phái Giang Tướng rồi sao?”
Tổ Gia ngước mắt nhìn bà ta, nói với tất cả mọi người: “Còn nghi ngại điều gì nữa không?”
Lời này của Tổ Gia đồng nghĩa với câu: “Giải tán cuộc họp.” Kỳ thực mọi người nghe mà vẫn còn lơ mơ, cái hiểu cái không. Cứ thế, mỗi người đều rời khỏi Đường hội mà lòng vẫn còn phảng phất nỗi ngờ vực.
ĐẠI SƯ CỐT TƯỚNG CỦA THIÊN THÁNH ĐẠO
Giờ Thìn ngày hôm sau, cuộc thi hùng biện chọn ra ba người xuất sắc trong số mười người bắt đầu. Mười người được đề cử lần lượt bốc thăm, họ sẽ tham gia phần thi thách đấu theo số thứ tự đó.
Cuộc thi biện luận, hùng biện đã có từ thời xưa, mỗi cuộc thi giống như một trận chiến, không dao súng kiếm kích mà chủ tâm giết người bủa vây bốn phía, không thấy máu chảy, chỉ bằng lời nói mà có thể bịt miệng người ta. Trước khi lên hùng biện, cần phải chuẩn bị chu đáo, biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng; trong lúc hùng biện, môi như mang gươm, lưỡi như mang kiếm, anh chém tôi đỡ, tránh mạnh đánh yếu, tránh thật đánh hư; sau cuộc hùng biện, vẻ mặt phải vui vẻ hoà nhã, thua hay thắng cũng không được làm ảnh hưởng đến mọi người.
Tổ Gia chưa bao giờ chơi trận nào mà không có sự chuẩn bị. Trước đó vài tháng, ông đã phái các Bá đầu đi điều tra tình tình của từng hội đạo môn.
Người đầu tiên lên bục diễn thuyết chính là “Kim cương” Lưu Hạt Tử thuộc phân đà Bắc Kinh của Thiên Thánh Đạo.
Sở dĩ bị gọi là Lưu Hạt Tử (Lưu mù) bởi khi còn bé, mắt trái của ông ta đã bị hỏng vì chơi đốt pháo, mắt phải cũng chỉ có thể nhìn được đồ vật mờ mờ.
Sau khi Lưu bị mù một mắt, cha mẹ ông ta lo lắng khống biết đứa con này về sau sẽ sống thế nào. Nhưng ông trời không tuyệt đường của người ta, ở U Châu gần Bắc Kinh có bậc thầy Cốt tướng (sờ xương) mù lòa, nghe nói đám trợ tá của Trương Tác Lâm cũng từng đến nhờ vị đại sư này, mẹ của Lưu mù đã nhờ người nói hộ, xin đại sư thu nhận con trai mình làm đồ đệ, mong về sau nó cũng có miếng cơm ăn.
Pháp Cốt tướng có từ thời tiên Tần, cũng thuộc phạm trù xem tướng, kỳ thực chính là kiểu xem tướng xương. Người tinh có thể vừa xem vừa sờ, còn người mù loà chỉ có thể dùng tay sờ, nhưng người mù không bị ảnh hưởng bởi thị giác, thường đưa ra phán đoán chuẩn xác hơn.
Khi Lưu Hạt Tử vừa ngồi xuống đã có người đầu tiên nhảy tót lên hỏi. Mọi người cùng đưa mắt nhìn, thì ra chính là chưởng môn mới nhậm chức của tổng đà Thiên Thánh Đạo – Tả Vịnh Thiền. Tả Vịnh Thiền vốn nghĩ rằng, lần chia nhóm tranh luận này một chưởng môn như mình sẽ lọt được vào tốp mười, không ngờ người lọt vào chỉ là một kẻ ở cấp Kim cương của một phân đà, trong lòng hắn căm tức vô cùng. Hắn đâu biết rằng, tất cả đều do bọn người Nhật giở trò. Tả Vịnh Thiền là kẻ quá nham hiểm, thâm độc, cứ có sữa là gọi mẹ, nếu để hắn lên làm Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học, thứ nhất hắn sẽ không phục tùng. thứ nữa, một khi có biến, kẻ khác hứa hẹn lợi ích lớn hơn, chắc chắn hắn sẽ trở mặt. Tìm Hán gian cũng cần phải tìm kẻ có phẩm chất, bởi vậy hắn đã bị loại ngay từ vòng sơ tuyển.
“Lưu sư gia thường ngày bói tướng xương không ít, đã từng xem cho mình chưa?” Câu đầu tiên Tả Vịnh Thiền hỏi đã nhồi đầy thuốc nổ.
Lưu Hạt Tử ngước con mắt phải lên, cũng không rõ ông ta có nhìn thấy Tả Vịnh Thiền hay không, chỉ cười khà rồi đáp: “Chúng ta từ khi lọt lòng đến nay, thân này, da tóc này đều là của cha mẹ cho ta. Cốt tướng là thuật tiết lộ thiên cơ, mặc dù bỉ nhân hiểu được thuật này, nhưng không dám tuỳ tiện đem nó ra làm trò vui, cho dù người ta đến cửa nhờ xem giúp, tôi cũng phải thắp ba nén nhang, bảo họ phải thành tâm, mới có thể tiết lộ. Còn về bản thân tôi, từ khi bái sư, chính tay sư phụ đã xem tướng đầu, cốt tướng của tôi chỉ có thầy tôi xem cho, tôi chưa xem thêm lần nữa.”
Lưu Hạt Tử rất nhạy bén, ông ta đã liệu trước, nếu trả lời chưa từng xem cho mình thì Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ công kích: Đại sư Cốt tướng mà lại chưa từng xem cho mình, nghe không thấy tức cười sao? Nếu ông ta đáp mình đã từng xem cho mình thì Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ vặn vẹo: “Đã làm rồi thì vận khí năm nay thế nào? Trong hội thi hùng biện lần này, ông có nhòm ngó ngôi đầu không?” Đến lúc này, dù Lưu Hạt Tử trả lời có hay không cũng đều bị dồn vào thế bất lợi.
Chiêu đầu tiên của Tả Vịnh Thiền đã bị đối phương dùng chiêu binh đến tướng chặn, hắn liền túm lấy một tên thanh y tép riu, đẩy hắn lên trước bục diễn thuyết: “Nghe danh thầy Lưu xem tướng xương chuẩn xác từ lâu, nhưng trong giới xem tướng, cũng có rất nhiều người hoài nghi về Cốt tướng này. Hay là hôm nay thầy Lưu đích thân xem cho đồ đệ của ta xem sao. Lưu sư gia không cần nói sau này nó thế nào, chỉ cần nói về những việc lớn đã xảy ra trước đây của nó là được!”
Đây là nước cờ chết – dự đoán tại chỗ, thầy tướng số sợ nhất việc này. Bất kể là xem Bát tự, lục hào, phong thủy, hay xem tướng mặt… bị kê tại chỗ thế này, ai chẳng hoang mang, loạng choạng. Có bản lĩnh thật sự hay không tạm thời không cần nói đến, cho dù có bản lĩnh thật sự, trước trăm con mắt dõi nhìn chòng chọc, khó mà tránh khỏi sai sót. Hơn nữa, Tả Vịnh Thiền lại chặt đứt đường lui của Lưu Hạt Tử, chỉ cho ông ta nói những chuyện đã xảy ra trước đây, không để cho ông ta nói đến những chuyện sau này, vì những việc chưa xảy ra cần phải có thời gian kiểm chứng, còn những việc trước đây có thể kiểm chứng ngay tại chỗ.
Lưu Hạt Tử cười ha hả: “Tả Chưởng môn làm khó tại hạ rồi! Tôi có thể thực hiện thuật Cốt tướng ngay tại đây, nhưng không thể xem cho đệ tử của Thiên Thánh Đạo được, anh và tôi thuộc cùng môn phái, cho dù tôi có nói đúng, các vị có mặt ở đây cũng sẽ cho rằng chúng ta thông đồng với nhau, nghi ngờ chúng ta gian lận.”
Lưu Hạt Tử đã lấy gậy của hắn mà đập lưng hắn, ông ta biết rõ, cho dù mình có phán trúng thì đệ tử của Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ phủ nhận tất cả, nếu không lúc quay về hắn sẽ phải chết, một thanh y mà lại không hiểu được “luật chơi” này sao?! Nhưng Lưu Hạt Tử cũng hơi run, ngộ nhỡ người Nhật lại tìm một người đưa lên, xem chuẩn hay không, trong lòng ông cũng không dám chắc.
Tổ Gia nhìn ra huyền cơ trong việc này, ông bắt đầu thi triển thuật hợp ngang chia dọc, kẻ thù của kẻ thù là bạn của mình, cách để giành được thắng lợi trong cuộc chiến chính là đoàn kết tất cả các sức mạnh có thể đoàn kết được lại với nhau, loại dần từng tên một.
“Nếu đã như vậy, tôi làm người đứng giữa vậy. Để thử nghiệm, Lưu sư gia hãy xem tướng xương cho tôi với thân phận là Chưởng môn đời thứ mười bốn của phái Giang Tướng, Tả chưởng môn có ý kiến gì không?” Tổ Gia nói.
Mai Huyền Tử ngồi bên cười thầm vì ông ta nhìn rõ dụng ý của Tổ Gia.
Tả Vịnh Thiền nhìn Tổ Gia, rồi lại nhìn Tây Điền Mỹ Tử, Tây Điền Mỹ Tử gật đầu, Tả Vịnh Thiền thầm nghĩ: Xong rồi! Hắn đành phải gật gù cái đầu.
Tổ Gia đứng dậy bước lên, Lưu Hạt Tử lúc này vẫn chưa biết Tổ Gia có ý gì, không biết Tổ Gia nhảy ra là muốn giúp mình hay muốn hại mình đây?!
“Lưu sư gia, mời!” Tổ Gia mỉm cười nói.
Lưu Hạt Tử hấp háy con mắt phải, giơ hai tay ra, bắt đầu sờ từ tay đến cánh tay, từ cổ đến đầu. Sau đó dõng dạc nói: “Tổ Gia xương cốt lạ thường, là hậu duệ của hàng môn tướng, tổ tiên từng có người làm quan trong triều, huynh đệ tỷ muội không quá ba người, cha mẹ mất sớm…”
Tổ Gia gật đầu, nói: “Đúng cả! Nhưng những chuyện này, bạn bè đồng đạo đều biết, Lưu sư gia hãy nói những chuyện khác xem!” Ý Tổ Gia muốn bảo ông ta: “Ông diễn kịch cũng phải diễn sao cho ra trò, chứ nói những chuyện ấy lừa gạt đám quân Nhật, ông coi người Nhật là lũ ngu sao?”
Lưu Hạt Tử hiểu ngay, liền nói: “Năm tuổi, Tổ Gia phạm Thủy ách, bị ngã sông, suýt nữa chết đuối. Mười hai tuổi, bị hung tinh Hồng loan chiếu, một phụ nữ lớn tuổi có hành vi dâm loạn với ông.”
Tổ Gia nghe thấy thế, suýt chút nữa phì cười, nhưng ông nghiêm mặt nói: “Lưu sư gia thật lợi hại! Đều đúng cả!”
Tiếng vỗ tay như sấm dậy vang lên bên dưới khán đài.
Lúc này, lẽ ra Lưu Hạt Tử phải biết chừng mực mà dừng lại, không ngờ ông ta lại hăng hái hơn, vừa sờ vừa phán: “Xương ngọc chẩm phía sau đầu Tổ Gia nổi lên, đây là tướng đại phú đại quý, phàm việc gì cũng gặp hung hoá cát, gặp tai lại may mắn tốt lành…”
Tổ Gia nghĩ thầm: Để ông đùa chút vậy là đủ rồi, ông còn không biết dừng lại. Liền nói: “Tôi nghe nói nếu xương ngọc chẩm quá to sẽ bị coi là phản cốt (một thuật ngữ trong Cốt tướng). Đại tướng Ngụy Diên nước Thục thời Tam Quốc có cái xương hơi to quá sau ót, Gia Cát Khổng Minh nhìn ra đó là phản cốt. Trên từ Lưu Bị, dưới từ đám binh lính đều cho rằng Ngụy Diên dũng mãnh thiện chiến, trung nghĩa can đảm, nhưng Gia Cát Lượng lại sinh lòng nghi ngờ ông ta. Về sau, quả không ngoài dự đoán, Gia Cát Khổng Minh vừa chết, Ngụy Diên liền làm phản, cũng may Khổng Minh đã có sự đề phòng từ trước, sắp xếp Mã Đại làm nội ứng bên cạnh Ngụy Diên, sau Mã Đại chém tên tướng làm phản đó ngã xuống ngựa. Lưu sư gia nói tôi xương ngọc chẩm nổi rõ, là đang muốn khen hay chê tại hạ vậy? Khà khà!”
Những người ngồi dưới khán đài đều bật cười. Mặt Lưu Hạt Tử đỏ lên, cả cục thịt bên mắt trái cũng đỏ au.
Tổ Gia dùng cách đùa cợt để bảo Lưu Hạt Tử đừng có đùa bỡn quá đà. Cho một quả táo ăn, rồi lại tát cho một cái, vừa mua chuộc lòng người, vừa khiến đối phương phải biết chừa mặt mình ra, Tổ Gia đã đạt được mục đích.
Cuộc tranh luận lại tiếp tục, một vài người dưới khán đài thay nhau hỏi thêm một số kiến thức về Cốt tướng, Lưu Hạt Tử đáp lại từng câu một, cuối cùng hạ cánh an toàn.
BÓI TỨ TRỤ
Người thứ hai ra sân chính là Trịnh Bán Tiên ở Giao Đông. Người này chiếm cứ vùng Giao Đông đã lâu, nghe nói trình độ bói bát tự cao thâm, được người ta ca tụng là thần tiên sống, chỉ cần nói cho ông ta biết Bát tự, ông ta sẽ bói ra tình hình sức khoẻ, tài vận, đường quan lộ, lục thân của người đó.
Lục thân là một thuật ngữ chỉ mối quan hệ xã hội do bát tự của một người sinh ra.
Những người hay đi xem tướng số đều biết rằng, thầy tướng số có thể nhìn ra được các sự việc của cha mẹ, anh chị em, bạn đời, thậm chí cả ông bà mình, đều bởi căn cứ vào Lục thân mà suy đoán ra.
Lục thân chỉ: cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ, quan sát tinh, con cái. Qua Bát tự, căn cứ vào mối quan hệ sinh khắc trong ngũ hành mà có được Lục thân.
Bát tự phân chia thành tứ trụ: năm sinh là một trụ, tháng sinh là một trụ, ngày sinh là một trụ, giờ sinh là một trụ, mỗi trụ lại do một thiên can và một địa chi kết hợp tạo thành, tất cả gồm tám chữ, cho nên được gọi là Bát tự.
Khi suy đoán, dùng nhật trụ để biểu thị cho mình, đặc biệt phải dùng thuộc tính ngũ hành thiên can của nhật trụ để đoán ra Lục thân, đây là bước thứ nhất khi đoán mệnh. Ví dụ, nếu một người sinh vào ngày Canh Thìn, vậy thì lấy chữ Canh biểu thị cho mình, đồng thời coi chữ Canh là trung tâm, từ đó đoán ra lục thân của anh ta.
Canh là một trong mười can, ngũ hành thuộc Kim, cách suy đoán lục thân như sau:
Sinh ra ta là cha mẹ. Canh là Kim, Thổ sinh Kim, bởi vậy, cha mẹ của Kim chính là Thổ, nếu trong ba trụ còn lại xuất hiện ngũ hành thuộc Thổ, như Mậu Thổ hoặc Kỷ Thổ, chữ đó sẽ tượng trưng cho người mẹ.
Ta sinh ra là con cái. Canh là Kim, Kim sinh Thủy, cho nên, con cái của Kim chính là Thủy, nếu trong ba trụ còn lại xuất hiện ngũ hành thuộc Thủy, như Nhâm Thủy hoặc Quý Thủy, chữ đó sẽ tượng trưng cho con cái.
Ta khắc là Thê tài. Canh là Kim, Kim khắc Mộc, cho nên Mộc là thê tài của Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Mộc, như Giáp Mộc hoặc Ất Mộc, vậy thì chữ đó tượng trưng cho vợ. Đương nhiên, người xưa có năm thê bảy thiếp, nên chia thành Chính tài và Thiên tài, nhưng trong chế độ xã hội ngày nay, thực chất cũng không thay đổi, nếu trong bát tự của một người đàn ông Tài tinh quá nhiều cho thấy anh ta dễ có tình nhân.
Khắc ta là Quan sát. Canh thuộc Kim, Hoả khắc Kim, Hoả chính là Quan sát của Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Hoả, như Bính Hoả hoặc Đinh Hoả, vậy chữ đó tượng trưng cho cấp trên. Đối với nữ giới, vì địa vị xã hội thấp kém, bị nam giới khắc chế, nên quan sát trong bát tự của nữ giới chính là chồng, phụ nữ thời xưa vì thế gọi chồng là “quan nhân”.
Ngoài bốn mối quan hệ sinh ta, ta sinh, ta khắc, khắc ta này ra, còn có tình trạng không sinh không khắc, đó chính là Tỷ kiếp. Canh là Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Kim, như Canh Kim hoặc Tân Kim, vậy thì những chữ này được gọi là Tỷ kiếp, tượng trưng cho anh em trai và chị em gái.
Đoán Bát tự, đầu tiên là phải phân tích sự mạnh yếu của nhật can, rồi mới xem đến mối quan hệ sinh khắc của nhật can với can chi khác, sau đó kết hợp với Đại vận và Lưu niên để suy đoán cát hung.
Tổ Gia đã phái Hoàng Pháp Dung đi điều tra nội tình bên phía Trịnh Bán Tiên. Lão này tuổi đã ngoài ngũ tuần, dáng người không cao, hơi gày gò, râu dài, dáng vẻ quắc thước, tạo cho người ta cảm giác ông ta thật sự mang dáng vẻ của thần tiên. Người này chiếm cứ ở Giao Đông nhiều năm, bản lĩnh xem Bát tự khá cứng. Tổ Gia sợ nhất là loại người này, có bản lĩnh thật sự mà lại đi lừa đảo, khác gì như hổ thêm cánh. Phường lừa đảo đầu óc ngu dốt không đáng sợ, loại có thể vượt nóc băng tường mới đáng sợ, Tổ Gia thề sẽ bắt Trịnh Bán Tiên hiện nguyên hình.
Sau khi Trịnh Bán Tiên yên vị, dưới khán đài, người đầu tiên vọt lên hỏi: “Trịnh sư gia nghiên cứu Bát tự đã nhiều năm, có thể nói cho tại hạ hay, rốt cuộc mệnh quan trọng hay vận quan trọng? Nguyên lý nằm ở đâu?”
Mọi người cùng nhìn về phía người phát ra câu hỏi ấy, đó là một phụ nữ dáng vẻ xuất chúng, thoát tục, cặp mắt to, sáng ngời – không ai khác ngoài “quỷ muội” Hoàng Pháp Dung. Việc này Tổ Gia đã dàn xếp.
Trịnh Bán Tiên gật đầu, điềm đạm nói: “Vận mệnh thực ra là hai từ, một là mệnh, một vận. Mệnh chính là Bát tự, sinh ra sẽ không thể đổi khác được cho đến tận lúc chết; còn vận, cứ mười năm lại thay đổi một lần, bởi vậy mới có câu ’thập niên nhất Đại vận’, đời người tất cả có bát bộ Đại vận (tám Đại vận). Trong hai chữ vận mệnh, lão hủ cho rằng, mệnh là căn bản, là gốc rễ, vận là phụ trợ, là phần ngọn. Mệnh được tạo ra từ tiên thiên (bẩm sinh), thuộc về số trời, không thể thay đổi, còn vận là khí hậu thiên sau này, có thể dùng các phương pháp phong thủy, bùa chú để điều chỉnh. Tiên Ẩn Môn của tôi sừng sững ở Giao Đông 50 năm chưa từng bị quật đổ, đều nhờ vào sự ứng nghiệm trong việc hoá giải tai ương hậu thiên cho bách tính…” Lúc này, Trịnh Bán Tiên vẫn không quên quảng cáo về mình.
“Trịnh sư gia nói sai rồi!” Tổ Gia đứng dậy lớn tiếng: “Mệnh thư viết: Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ. Phần lớn những nhân vật làm mưa làm gió, trong mệnh đều mang bệnh. Trong Bát tự, hoặc Thương quan quá vượng, hoặc Ấn tinh suy nhược, hoặc Quan sát hợp thân, lúc còn nhỏ đa nạn đa tai, rơi vào cảnh ngộ nguy hiểm, một khi Đại vận đến, được vận thế tương trợ, vực dậy như cơn lốc, vận mệnh của người này sẽ có sự biến đổi hoàn toàn. Xa xôi thì có Chu Nguyên Chương, mới gần đây có Hồ Tuyết Nham, bọn họ đều là những minh chứng sống.”
Trịnh Bán Tiên sững người: “Khà khà, thì ra Tổ Gia của phái Giang Tướng. Thất kính! Thất kính! Vậy ý Tổ Gia là đại vận còn quan trọng hơn cả Bát tự? Mệnh của một người như một cái cây, Bát tự là gốc rễ, là căn bản, rễ ăn sâu cành lá mới xum xuê, những người nghèo trước giàu sau, cho dù phất lên như diều gặp gió, cũng bởi nhờ trong mệnh có sự báo hiệu giàu có, chẳng qua đến đại vận mới diễn ra.”
Tổ Gia cười khà khà, nói: “Nếu giàu nghèo hay phú quý đều được ghi hết trong Bát tự, vậy thì phương pháp cải mệnh hậu thiên của Trịnh sư gia là căn cứ vào đâu?”
Trịnh Bán Tiên vừa nghe xong thì thấy như thể mình bị dây quấn cổ, vội vàng nói: “Phương pháp giải nạn hậu thiên đã có từ xưa rồi, lẽ nào Tổ Gia lại chê cười các bậc tiên thánh thời xưa hay sao?”
Tổ Gia nói chắc nịch: “Dịch sinh ra từ thuật bốc phệ, bất kể là Bát tự, lục hào hay các thuật số khác, vạn pháp cũng không tách rời khỏi quy luật biện chứng âm dương. Mối quan hệ giữa mệnh và vận, chính là mối quan hệ giữa trứng gà và gà con, không có trứng gà thì không kcirc;n nhận thấy tất cả mọi thứ đều không quan trọng đến vậy, tôi muốn được sống những ngày tháng của một người bình thường. Chúng ta có thể giao lại Đường khẩu cho người khác, bao nhiêu người muốn tranh giành vị trí này còn không được. Chúng ta cùng ra nước ngoài, đến một nơi không ai có thể tìm được mình, mai danh ẩn tính, sống quãng đời còn lại trong yên bình.”
Khi xúc động, Giang Phi Yến bất giác đặt tay bà lên tay Tổ Gia.
Không phải Tổ Gia không muốn sống những ngày tháng như vậy, chỉ cần ông bỏ đi là xong, bọn người Nhật không thể tìm được, người Trung Quốc cũng không thể tìm được, ông cũng không cần phải ngày nào cũng vắt óc nghĩ cách dàn cục, không cần phải hao tổn tâm sức lo nghĩ kế sinh nhai cho Đường khẩu, nào là Trát phi, nào là đoán mệnh, nào là phong thủy, gạt bỏ hết ra khỏi đầu óc, chỉ còn lại hạnh phúc đời thường. Ông có thể nắm tay Giang Phi Yến, cùng bà đi dạo trên bờ biển trong ánh hoàng hôn óng ánh sắc vàng của nước Pháp, dạo chơi trên đại lộ rợp bóng mát ở nước Anh, hay tay trong tay với bà trong một giáo đường tráng lệ ở Mỹ.
Nhưng các huynh đệ của Đường khẩu sẽ thế nào? Sau khi ông bỏ đi, ai sẽ cầm lái, các huynh đệ kéo đến đầu hàng giặc Nhật bán nước cầu vinh, hay sẽ liều mạng vật lộn với chúng? Tất cả sẽ bị người Nhật giết chết, hay sẽ như chim vỡ tổ, tan tác muôn nơi? Bộ dạng sẵn sàng xả thân bảo vệ chủ của Đại Bá đầu, ánh mắt thề chết mãi trung thành của Nhị Bá đầu, những giọt nước mắt phó thác cho đến hết đời của Trương Tự Triêm, tiếng ai thán trước tình cảnh lẻ loi không nơi nương tựa của Hoàng Pháp Dung… Tất cả đã trói buộc con tim Tổ Gia.
Giang Phi Yến thấy Tổ Gia vẫn không nói gì, bèn rụt tay lại, cõi lòng trào dâng nỗi niềm thê thiết. Mãi lâu sau, bà nói: “Tổ Gia, có phải thân này của Giang Phi Yến không trong sạch, Tổ Gia mới không thương yêu?”
Tổ Gia ngẩng đầu nhìn bà, ánh mắt chất chứa nỗi niềm: “Yến tỷ hiểu lầm rồi, Yến tỷ đã vì phái Giang Tướng mà đánh đổi mọi thứ, tôi chỉ một lòng kính phục, đâu dám có ý ghét bỏ… Tôi… Tôi không thể bỏ mặc các huynh đệ. Tôi đã lên một kế hoạch…”
Giang Phi Yến không nói nữa, chỉ ngồi bên cạnh lắng nghe.
Ngày hôm sau, Tổ Gia tiễn Giang Phi Yến. Bà mang theo chuyện cơ mật đã bàn bạc với Tổ Gia, lặng lẽ trở về Nam Việt.
Giang Phi Yến rời đi chưa được bao lâu, Tổ Gia liền cho gọi Hoàng Pháp Dung đến.
“Ta hỏi ngươi một việc, ngươi nói ta nghe xem thế nào?”
Cặp mắt to tròn của Hoàng Pháp Dung chớp chớp liên tục, hỏi: “Tổ Gia có gì cần căn dặn?”
Tổ Gia hỏi: “Nếu một ngày nào đó ta không may gặp nạn, Mộc Tử Liên sẽ do ngươi lèo lái, ngươi thấy thế nào?”
Hoàng Pháp Dung vừa nghe thấy thế, khuôn mặt nhỏ bé tái mét, quỳ sụp xuống thưa: “Tổ gia, con không dám, con không dám!”
Tổ Gia vẫn điềm tĩnh nói: “Kẻ dám ngông cuồng bàn tính đến chuyện nếu Đại sư bá có mệnh hệ gì, chết; kẻ dám chia rẽ Đường khẩu, chết. Hẳn ngươi phải biết phép tắc này chứ?”
Hoàng Pháp Dung sợ hãi bật khóc, run cầm cập nói: “Xin Tổ Gia tha tội, xin Tổ Gia tha tội!”
Tổ Gia lườm bà ta một cái, nói: “Niệm tình ngươi phạm tội lần đầu, nếu còn có lần sau, ta tuyệt đối không tha!” Tổ Gia gằn giọng nhấn mạnh từng từ.
Hoàng Pháp Dung dập đầu côm cốp xuống đất, luôn miệng nói: “Tạ ơn Tổ Gia, tạ ơn Tổ Gia!” Nhưng trong lòng thầm nghĩ, sao ông ấy lại biết những điều mình nói với mẹ nuôi? Lẽ nào mẹ nuôi đã bán đứng mình ư?
“Đừng đoán già đoán non nữa, ta tuy không có ở Đường khẩu, nhưng tất cả mọi chuyện đều không thể giấu được ta.” Tổ Gia nói.
Hoàng Pháp Dung run bắn người, đây khác nào cơ quan đặc vụ, hay bọn hoạn quan nhà Thanh?
“Ngươi đứng lên!” Tổ Gia thở dài.
Hoàng Pháp Dung run lẩy bẩy đứng dậy.
“Ngươi là con nhóc thông minh, nhưng người ta bảo rồi, hết khôn dồn đến dại, ngươi không hiểu được đạo lý này sao?!” Tổ Gia nói.
Hoàng Pháp Dung vội nói: “Tổ Gia, con không dám nữa, con không dám như vậy nữa!”
Tổ Gia gật đầu: “Ta giao cho ngươi một nhiệm vụ.”
“Xin Tổ Gia cứ sai bảo.”
“Ta muốn ngươi về quê nhà Sơn Đông một chuyến.”
“Làm gì ạ? Con không muốn về nhà, cha mẹ con sẽ ép con lấy chồng.”
“Ta không bảo ngươi về nhà mình, mà bảo ngươi đi Giao Châu, nắm bắt tình hình của Trịnh Bán Tiên, xem xem quy mô Đường khẩu của hắn, số đệ tử, cả thủ đoạn Trát phi gần đây của hắn…”
Hoà đợi, nhìn thấy Nhị Bá đầu mồ hôi đầm đìa trở về liền hỏi: “Quần áo đâu?”
Nhị Bá đầu thở hổn hển nói: “Hỏng rồi, hỏng rồi… Quả đúng thật… ăn rồi… ăn thật rồi…”
Tổ Gia cười lớn, nói: “Nó ăn được thì ngươi bón cho nó ăn. Tên ăn mày đó chết vì đói, ngươi cho nó ăn cũng là tích chút công đức.”
Nhị Bá đầu nói: “Quái lạ! Con thấy nó há mồm ăn, con liền đập cái bát vào mặt nó thì nó lại ngồi bật dậy…”
Tổ Gia sững người: “Ngươi đánh vào mặt nó sao?”
Nhị Bá đầu trả lời: “Vâng, đánh xong là chạy.”
Tổ Gia nói: “Ngươi đợi ở đây.”
Nhị Bá đầu hỏi lại: “Đợi cái gì?”
Tổ Gia trả lời: “Một lát nữa ngươi sẽ biết.”
Khoảng nửa canh giờ sau, Đại Bá đầu từ ngoài bước vào, mặt mũi đầy máu, Nhị Bá đầu kinh ngạc hỏi: “Đại sư huynh, huynh làm sao thế?”
Đại Bá đầu đùng đùng nổi giận: “Còn hỏi sao! Mẹ kiếp nhà ngươi ra tay độc ác quá!”
Tổ Gia cười nói: “Mau đi rửa mặt, chữa trị vết thương đi.”
Đây thực chất là một trò do Tổ Gia bày ra. Tên ăn mày bị chết đói đó chính là do Tổ Gia sai Đại Bá đầu đóng giả. Người ăn mày bị chết đã được chuyển đi nơi khác. Ngờ đâu Nhị Bá đầu bị kích động, tức giận đập thẳng cái bát vào mặt Đại Bá đầu. Từ đó, trên mặt Đại Bá đầu có một vết sẹo to, còn Tổ Gia lại càng hài lòng về Nhị Bá đầu.
So với Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu được xem là A Bảo kiểu văn nhân hào hoa phong nhã. Thiên văn, Địa lý, Âm dương, Bát quái không có thứ nào không biết, hơn nữa còn thuộc nằm lòng Luận ngữ, Mạnh Tử, xuất khẩu thành thơ, tài văn hoa mỹ... Kẻ tỏ vẻ đạo mạo trang nghiêm, sói đội lốt người thế này mới đáng sợ nhất.
Tam Bá đầu đi theo Tổ Gia từ năm 1930, trước đó là tên bói toán lừa đảo ở quê, nhưng cũng là người hiểu chút đạo lý, có nhiều sở trường đặc biệt. Một hôm anh ta vào thành hành nghề, đã lấn sang địa bàn của Tổ Gia, lại còn dám treo biển mở sạp xem tướng số. Khi đó Đại Bá đầu có ý kiến muốn xử anh ta ngay, nhưng Tổ Gia đã nói: “Để xem thế nào đã.”
Mấy tên chân tay mà Tổ Gia cử đi để thăm dò trình độ của Tam Bá đầu trở về báo cáo rằng: tên tiểu tử này ra chiêu vô cùng đẹp mà gọn gàng, người dân bị anh ta lừa trắng trợn mà vẫn luôn miệng cảm ơn rối rít.
Tổ Gia quyết định đích thân đến sạp của anh ta. Ấn tượng đầu tiên là một tên tiểu tử ngoài 20 tuổi, dáng vẻ thư sinh, mặc áo dài văn nhân, rất có phong độ, miệng lưỡi xem quẻ thao thao bất tuyệt. Tổ Gia cố ý để lộ một vài sơ hở, để anh ta ra chiêu. Anh ta còn hí hửng cho rằng hôm nay bắt được một con gà, lại càng ra sức thao thao bất tuyệt chuyện trên trời dưới biển. Tổ Gia ngồi nghe gật gù liên lục ra điều vô cùng đắc ý. Cuối cùng, ông trả cho mấy đồng bạc, nói: “Ta hôm nay ra ngoài không mang nhiều tiền, ngươi theo ta về nhà lấy, nhân tiện xem giúp và điều hòa phong thủy cho nhà ta. Nhất định ta sẽ hậu tạ.”
Tam Bá đầu vội vàng thu dọn đồ đạc, trong bụng vui như mở cờ đi theo Tổ Gia về nhà. Kết quả không cần đoán cũng biết, vừa bước chân vào cửa liền bị mấy người trói gô lại, Đại Bá đầu tặng cho một cái bạt tai: “Mẹ kiếp! Tên tiểu tử nhà người, không biết chọn chỗ mà đại tiện.”
Tam Bá đầu mắt nổ đom đóm, nhưng vẫn rất tỉnh táo, không chịu thừa nhận mình là kẻ lừa đảo, nhăn nhó nói: “Tiên sinh, thế này là cớ làm sao? Tiểu nhân chỉ là một người xem bói bình thường, cũng chỉ vì miếng cơm manh áo mà đến đây, không biết đã mạo phạm đến ngài!”
Nhị Bá đầu đứng bên cạnh không nhịn được, lao lên đạp cho anh ta một cái, sau đó vỗ bốp vào gáy của Tam Bá đầu quát: “Còn vờ vịt nữa hả? Vẫn cố giả ngây ngô với ông mày à?”
Tam Bá đầu nước mắt lưng tròng: “Xin lão gia tha mạng, tiểu nhân chỉ là một thầy bói. Nếu bói không đúng thì xin hoàn lại tiền. Cầu xin lão gia đừng đánh nữa, tiểu nhân trên còn có mẹ già 70 tuổi, dưới còn có con nhỏ mới lên 3.”
Nhị Bá đầu đưa mắt ra hiệu, Đại Bá đầu lập tức rút con dao mổ lợn giắt ở thắt lưng ra rồi đi đến trước mặt Tam Bá đầu: “Để ta cắt cái lưỡi đi xem ngươi có còn ra vẻ được nữa không.”
Tam Bá đầu vừa khóc vừa van xin Tổ Gia: “Đại lão gia, ngài nói đi chứ, tiểu nhân xem bói cho ngài không đúng ư? Vừa rồi chẳng phải rất đúng sao? Lão gia!”
Tổ Gia vẫy tay, Đại Bá đầu thu dao lại đứng sang một bên. Tổ Gia đi đến trước mặt hắn, giơ ngón tay cái lên và nói: “Người anh em, ngươi quả là có tính niệu nhi!”
Tam Bá đầu hốt hoảng nói: “Niệu gì ạ, lão gia?”
Tổ Gia gật đầu nói: “Nhân tài.”
Tam Bá đầu vẫn giả ngây giả ngô: “Lão gia, ngài nói tiểu nhân ư? Tiểu nhân chỉ là một thầy bói…”
Tổ Gia giơ tay một cái, một chiếc phi trâm bắn ra, đâm xuyên qua tai trái của Tam Bá đầu, một miếng thịt trên vành tai rớt xuống, Tam Bá đầu đau đớn thét váng lên: “Lão gia! Tiểu nhân nói. Tiểu nhân xin nói.”
Tổ Gia quát to: “Miết hiệu nhi?”
“Tiết Gia Nhân.”
“Oa bính?”
“Huyện Bái Từ Châu.”
“Đại Sư bá?”
“Đỉnh thủy phong tử.”
“Kham tải?”
“Uông.”
“Phách đảng phủ?”
“Không dám.”
Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu vô cùng thán phục, quả không hổ danh Tổ Gia, chỉ vài chiêu đã trị được tên tiểu tử ngoa ngoắt này. Cuộc hội thoại trên đều là tiếng lóng của giới A Bảo. Miết hiệu nhi là hỏi tên thật là gì. Oa bính tức hỏi người vùng nào. Đại Sư bá là hỏi thủ lĩnh là ai. Đỉnh thủy phong tử tức không có bè đảng, vì gây án mà phải trốn chui trốn nhủi. Kham tải là hỏi đã hành nghề được mấy năm rồi. Uông nghĩa là số 3. Phách đảng phủ là hỏi có phải đã từng giết người.
Tổ Gia đánh giá cao tài ăn nói và cái gan của Tam Bá đầu. Nhất là cái cách giả ngây giả ngô, có đánh chết cũng không chịu thừa nhận, càng khiến ông cảm thấy người này sẽ trợ thủ đắc lực cho mình, vì thế mỉm cười nói: “Hãy đi theo ta.”
Trước đó khi nghe Tổ Gia hỏi những câu tiếng lóng, Tam Bá đầu hiểu rằng, đây là người trong nghề, hơn nữa còn là một cao thủ. Mấy năm nay, anh ta luôn đơn độc tác chiến, tuy có thể giải quyết vấn đề cơm ăn áo mặc, nhưng vẫn luôn bất đắc chí, không có người chống lưng, nên chẳng dám đánh quả lớn, giờ cũng tìm được chốn nương thân. Tam Bá đầu quyết đi theo Tổ Gia là như vậy. Đương nhiên, khi đó anh ta chưa phải là Tam Bá đầu, sau này lão tam của Đường khẩu mắc bệnh qua đời, mới được cất nhắc lên chức ấy.
So với ba vị Bá đầu, Tứ Bá đầu luôn mang lại cho người khác cảm giác buồn não nuột. Tuy anh ta rất kiệm lời, nhưng lại là “Quân sư kỹ thuật” của cả Đường khẩu, theo cách gọi hiện đại chính là “Nhân tài khoa học”. Trước khi dàn cục, đặc biệt là dàn cục Trát phi lớn, đạo cụ đều do anh ta chuẩn bị. Anh ta có thể dùng chu sa và phốt-pho vàng, trộn theo tỷ lệ nhất định, rồi dùng các loại hóa chất vẽ bùa chú, khiến cho nó có thể phát ra ánh sáng trong bóng tối; dùng phèn chua kết hợp với thuốc nước đặc biệt, rồi dùng hỗn hợp này để viết chữ lên giấy. Sau khi viết xong, chữ tự nhiên sẽ tự biến mất, chỉ khi hơ qua lửa cho đến khi tờ giấy bị ám muội đen thì chữ mới xuất hiện. Nghe mọi người nói, Tứ Bá đầu là do Tổ Gia chiêu mộ được từ tay người Nhật, rồi đích thân đào tạo với tư cách là người nối nghiệp. Hơn nữa, ông còn đứng ra làm mối tìm cho Tứ Bá đầu một nữ A Bảo thần thông quảng đại, dung mạo xinh đẹp làm vợ. Việc này thật khiến kẻ khác ước ao. Tiếc rằng nhân tính không bằng trời tính, sau này xảy ra biết bao biến cố, Tứ Bá đầu bị một cú sốc tinh thần quá lớn. Từ đó, tinh thần trở nên sa sút, chán nản.
Cũng giống như Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu thuộc dạng A Bảo có học thức. Nghe nói anh ta tinh thông phong thủy, diện tướng, thiên tượng. Không biết thông hiểu thật hay giả? Dù sao sau khi tôi bước vào nghề, có một vài lần tận mắt chứng kiến anh ta đứng trên đỉnh núi, ngửa mặt lên trời, trông rất nhập thần. Bản lĩnh lớn nhất của anh ta chính là có thể vẽ một cách chuẩn xác long mạch của cả thiên hạ. Trước mỗi lần dàn cục phong thủy, Tổ Gia hỏi đến đâu, anh ta đều có thể trả lời vanh vách đâu ra đó. Anh ta đặt nền tảng lý luận vững chắc trong mỗi lần dàn cục phong thủy cho Đường khẩu.
Lục Bá đầu, gọi là Phong Tử Thủ. Phong Tử là tiếng lóng, có nghĩa là ngựa, nghe nói biệt hiệu này do Tổ Gia tặng cho. Bởi anh ta rất giỏi khinh công, chuyên đảm trách là người liên lạc, quan hệ với giới Hắc đạo và những công việc nghiên cứu đường đi nước bước trước khi dàn cục. Anh ta giống như một con ngựa chạy không biết mệt mỏi, cho nên mới có biệt danh này.
Phong Tử Thủ công phu cao cường, sở trường là khinh công và Tông hạc quyền. Khinh công không phải thần kỳ giống như trong truyền thuyết. “Nhảy một bước ba bốn dặm, cách mặt đất bốn năm trượng” chỉ có Tôn Ngộ Không mới làm được. Phàm là vật hay người đều có trọng lượng, tất phải chịu lực hấp dẫn của Trái Đất. Khinh công kỳ thực là so với người bình thường c&oacudiv style='height:10px;'>
Sau khi Lương Văn Khâu đi, Tam Bá đầu bắt đầu ra sức đề cử Trương Kỳ Linh. Kỳ thực, vẫn còn một người nữa muốn tranh giành chức vị này, đó chính là Hoàng Pháp Dung. Nhưng chuyện Hoàng Pháp Dung và Giang Phi Yến dám ngang nhiên bàn đến chuyện người kế nhiệm Đường khẩu đã bị quản gia Ngô Lão Nhị của Tổ Gia nghe trộm được và báo lại cho Tổ Gia. Tổ Gia liền đổi ý, thế nên Hoàng Pháp Dung hiện giờ vẫn nằm trong ván cờ của ông, đang bán mạng cho ông. Chỉ có Hoàng Pháp Dung không hay biết rằng, đây là lần cuối cùng mình có thể bay nhảy.
Trương Kỳ Linh lên nhậm chức Ngũ Bá đầu trong tiếng chúc tụng của mọi người. Từ đó, Trương Kỳ Linh và Tiết Gia Nhân kết thành bè đảng sống chết có nhau, cho đến khi cùng nhau làm phản và cùng nhau nhận lấy cái chết.
BÍ MẬT GẶP MAI HUYỀN TỬ
Đức Phật dạy: Vạn pháp giai không, nhân quả bất không, nhân quả tương báo, như ảnh tùy hình. Người ta có thể không tin tất cả mọi thứ, nhưng luật nhân quả thì không thể trốn thoát được. Con người ta làm cái gì, nhất cử nhất động cũng bị ông trời soi xét, ghi lại trong một cuốn sổ. Quan tài tóc đen, Bá đầu làm phản, vụ Quỷ tương đầy sóng gió, gặp thích khách ở khách sạn Tây Nhã, bị cầm tù ở Ngụy Mãn Châu, việc buộc phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết… Bao nhiêu việc liên tiếp diễn ra khiến Tổ Gia cảm thấy vô cùng mệt mỏi, nhưng lại không thể oán trách được người khác, con đường này do ông tự chọn lấy. Hồi tưởng lại những năm tháng đã qua của phái Giang Tướng, ngoài lừa đảo ra, vẫn chỉ là lừa đảo, ngày ngày mưu tính hại nhau, chém chém giết giết, hết lần này đến lần khác, bây giờ, cuối cùng lại khiến mình rơi vào cảnh lưỡi đao kề cổ.
Lần đầu tiên ông phải băn khoăn nghĩ lại việc mình gia nhập phái Giang Tướng là đúng hay sai. Ông nhớ đến Trương Đan Thành, uy phong khắp chốn, hô mưa gọi gió, cuối cùng thì sao đây? Không vợ không con, rơi nước mắt lìa đời khi người mang khuyết tật; ông nghĩ đến Kiều Ngũ Muội, tung hoành giữa hàng quân cả đen lẫn trắng, đoán biết được thiên cơ, nhưng lại không thể đoán biết được chuyện mình sẽ đột tử; ông nghĩ đến Trương Kế Nghiêu, cả cuộc đời sắm vai Đấng cứu thế, cuối cùng lại chết thảm trong cái lò bát quái của chính mình; người tiếp theo biết đâu lại là mình cũng nên…
Thậm chí, Tổ Gia bắt đầu ngưỡng mộ Lương Văn Khâu, ngưỡng mộ ông ta có một vị Đại sư bá tốt, ngưỡng mộ ông ta có thể bắt đầu một cuộc đời mới. Còn mình cưỡi trên lưng hổ khó mà xuống, chân có đạp khua cũng vô ích!
Tổ Gia không sợ chết, nhưng ông biết, việc ông phải làm còn chưa xong. Phàm việc gì có mở đầu đều có kết thúc, gánh nặng có nặng gánh hơn, cũng vẫn phải ghé vai vào, lần này không phải vì mình, càng không phải vì phái Giang Tướng, mà vì đất nước Trung Hoa. Tổ Gia bắt đầu nghĩ đến đối sách tiếp theo, nước cờ này rất nguy hiểm, chỉ cần một chút bất cẩn sẽ thua hoàn toàn. Chuyện sống chết của bản thân không còn quan trọng nữa, quan trọng là các hội đạo môn của Trung Quốc đi theo hướng nào, người Nhật sẽ làm thế nào, dân tộc Trung Hoa sẽ ra sao?
Bao nhiêu năm nay, Tổ Gia dàn cục vô số, ông chưa từng biết sợ điều gì, nhưng lần này ông đã sợ, bởi ông không được phép thua, thua sẽ là tội nhân thiên cổ. Tổ Gia khổ sở nghĩ cách dàn cục, cuối cùng, ông đã tìm được cửa đột phá.
Đêm hôm đó, ông dẫn theo hai tay chân thân cận đến Mai Hoa Hội, bí mật gặp Mai Huyền Tử.
“Mai sư phụ, đã lâu không gặp vẫn khỏe chứ!” Sau khi vào nhà, Tổ Gia chắp tay hỏi thăm.
Việc này khiến trống ngực Mai Huyền Tử đập loạn lên, đầu óc ông ta vốn đang rối mù về chuyện Tổ Gia làm Hán gian, đêm hôm lại thấy Tổ Gia đến thăm, càng khiến ông ta vạn lần ngờ vực.
“Tổ Gia đại giá quang lâm, có gì chỉ dạy?” Mai Huyền Tử hỏi.
“Tôi đến để cùng ông bàn xem làm thế nào để phục vụ Thiên Hoàng tốt nhất.” Tổ Gia nhếch miệng cười nhạt thếch.
“Gì cơ?” Mai Huyền Tử sững sờ. “Tổ Gia thật biết đùa, theo tôi thấy Tổ Gia và phái Giang Tướng chẳng đời nào chịu làm Hán gian đâu.”
Tổ Gia cười lớn: “Mai sư phụ quá khen rồi, tôi chỉ là hạng dân đen, những kẻ lừa đảo như chúng ta, sống được ngày nào hay ngày ấy, chết thì đi chầu trời, còn bận tâm đến đạo nghĩa gì nữa.”
Mai Huyền Tử lại ngớ người ra, Tổ Gia ít khi nói những lời bậy bạ, lần này lại khác hoàn toàn.
“Không phải Mai sư phụ cũng đã làm Hán gian sao?” Tổ Gia hỏi vặn một câu.
“Khà khà!” Mai Huyền Tử khẽ cười. “Đúng vậy, phường lừa đảo như chúng ta, sống được ngày nào hay ngày ấy, chết thì đi chầu trời.”
Nhược Lan sư thái nổi giận: “Nói xằng bậy!”
Cái Hà thong thả nói: “Vừa rồi, trước khi vào hội trường, tôi thấy mấy anh lính Hoàng quân đọc báo, bèn mượn một tờ…” Nói xong liền nhặt tờ báo trên mặt bàn giơ lên. “Sư thái tự xem đi!”
Chính Tổ Gia và Giang Phi Yến cùng dàn cục này mấy tráng trước. Sau khi từ sở Cung giáo của Nhật Bản trở về Thượng Hải, Tổ Gia đã trò chuyện thâu đêm với Giang Phi Yến, kể hết toàn bộ sự việc cho bà nghe. Giang Phi Yến thầm khóc suốt đêm, bà không thể ngăn cản được Tổ Gia, cũng không thể thuyết phục được ông cùng mình cao chạy xa bay, cuối cùng, bà đồng ý giúp Tổ Gia. Việt Hải Đường và Thái Cực Bang xưa nay vẫn qua lại thân thiết với nhau, Tổ Gia đã nhờ Giang Phi Yến kể rõ hoạt động gần đây nhất của Nhược Lan Sư thái, đến giờ phút quyết định, Tổ Gia sai Nhị Bá đầu phóng hoả, hòng đánh gục Nhược Lan Sư thái.
Nhược Lan Sư thái thẹn đỏ mặt, thẹn quá hoá giận, bà ta chỉ vào mặt Cái Hà quát tháo: “Chắc chắn do các ngươi ngầm giở trò!”
Lúc này, Tây Điền Mỹ Tử lên tiếng: “Nhược Lan Sư thái hà tất phải như vậy, tiêu chí của cuộc thi hùng biện hôm nay giao lưu là chính, chuyện thắng bại chỉ phụ thôi. Người Trung Quốc thường nói dĩ hoà vi quý, phải thế không?!”
Nhược Lan sư thái vung cây phất trần, đi xuống khỏi bục diễn thuyết, hậm hực ngồi xuống.
TRUYỀN NHÂN PHONG THỦY TAM HOÀNG
Người thứ tư lên bục diễn thuyết là một trong năm vị Ngũ hổ Trung Nguyên – Đồng Hoài Tú, truyền nhân phái Phong thủy Tam Hoàng.
Phong thủy nghĩa là gió và nước. Khi xây dựng nhà cửa, nơi người ta lựa chọn đầu tiên chắc chắn là một nơi vừa có thể tránh gió, lại vừa gần nguồn nước, cho nên mới có câu: Trạch địa nhi cư, cận thủy hướng dương. Tránh gió để đề phòng bị gió thổi lật nhà; gần nguồn nước ít nhất không bị chết khát, chưa kể trong đó có cá tôm, ắt không bị chết đói. Cho nên, cái nôi của nền văn minh nhân loại phàm đều là nơi có sông nước, như nơi khởi nguồn của nền văn hoá Hoa Hạ là ở lưu vực sông Hoàng Hà, cái nôi của nền văn minh Ai Cập cổ đại là ở lưu vực sông Nile, nền văn hoá Babylon bắt nguồn từ lưu vực sông Lưỡng Hà… Trên thế giới, không một nền văn minh nào lại bắt rễ ở vùng sa mạc, bởi nơi đó không thể cung cấp cho con người điều kiện đảm bảo sinh tồn, theo mệnh lý học thì nơi đó phong thủy kém.
Hàm nghĩa phong thủy chỉ đơn giản như vậy.
Cùng với sự thúc đẩy của tiến trình phát triển văn minh nhân loại, các yếu tố ngũ hành bắt đầu gia nhập vào, nội dung của thuật phong thủy phong phú lên, từ những yêu cầu sinh tồn đơn giản, dần dần còn phải cân nhắc đến các vấn đề như: hướng đi của thế núi, triều hướng kiến trúc, cây cối xung quanh nhiều hay ít, địa thế cao hay thấp, hướng dòng chảy ở xung quanh… Về sau, con người còn bắt đầu quan tâm đến các yếu tố phong thủy phần mộ, vì thế mới xuất hiện các mô thức thiết kế phong thủy cho người chết như: chọn hướng mộ, thiết kế quan tài, sự phối hợp giữa các đồ vật xung quanh phần mộ… Bởi vậy, phong thủy được chia thành hai loại: phong thủy dương trạch và phong thủy âm trạch. Dương trạch chính là chỉ nơi ở của người còn sống, bao gồm: nhà ở, nơi làm việc…; còn âm trạch chính là nơi mộ phần của người chết. Học thuyết phong thủy được thật sự hệ thống hoá vào thời tiên Tần, hình thành vào thời nhà Hán. Đến thời nhà Đường, thuật phong thủy đạt đến đỉnh cao. Tên tuổi tiêu biểu có Viên Thiên Cương và học trò của ông là Lý Thuần Phong. Có nhiều truyền thuyết về hai vị đại sư này, nhưng chuyện kinh điển nhất cần phải kể đến là việc hai thầy trò họ chọn mộ phần cho Võ Tắc Thiên.
Tương truyền, khi Võ Tắc Thiên vừa mới chào đời, Viên Thiên Cương đã nhìn ra được khí thiên tử trong người đứa bé này. Về sau, khi Võ Tắc Thiên xưng đế, bà ta vô cùng xem trọng Viên Thiên Cương. Khi về già, bà ta rất để tâm đến chuyện hậu sự của mình, yêu cầu phải được an táng ở nơi có phong thủy tốt nhất và an toàn nhất. Chuyện này đã khiến bà ta hao tâm tổn trí rất nhiều.
Một hôm, Võ Tắc Thiên cho gọi Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong đến, sai họ tìm cho mình nơi có phong thủy tốt nhất để xây cất lăng mộ. Để đề phòng Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong giở trò dối trá lừa mình, Võ Tắc Thiên đã cho họ tiến hành công việc độc lập, Lý Tuần Phong đi tìm trước, Viên Thiên Cương bị giữ lại trong cung; đợi sau khi Lý Thuần Phong quaynhẵn bóng là tôi cảm thấy rùng mình.
Tuy trong lòng nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn vội vàng quỳ xuống, khấu đầu nói: “Đa tạ Nhị gia.”
Sau đó, Nhị Bá đầu nói: “Trông bộ dạng nhà ngươi vừa xấu vừa đần, chẳng trách những Bá đầu khác đều không muốn chọn, nhưng ta thấy Tổ Gia rất thích ngươi. Trong đám mới vào nghề này, chỉ có ngươi là ít bị Tổ Gia mắng nhất. Kể cũng lạ, Nhị gia ta cũng thấy thích nhà ngươi đấy.”
Qua một khoảng thời gian rèn luyện cọ xát, những người mới như chúng tôi bắt đầu được học Lục tự chân ngôn. Đây là cảnh giới chí cao của tâm lý học lừa đảo, do đích thân Tổ Gia truyền thụ.
Lục tự chân ngôn là: thẩm, xao, đả, thiên, long, mại.
Tức là:
Tiên thẩm hậu xao, cấp đả mạn thiên
Long mại tề thi, xao đả bính dụng
Thập thiên cửu hưởng, thập long cửu thành
Tiên thiên hậu vãng, vô vãng bất lợi
Hữu thiên vô long, đế thọ chi tài
Lục tự chân ngôn này có nguồn gốc từ thiên Anh Diệu trong cuốn Mật quyết giang hồ. A Bảo hành nghề chủ yếu dựa vào sáu chữ này. Nếu có thể vận dụng Lục tự chân ngôn này đến mức xuất quỷ nhập thần thì đó là một thiên tài, đánh đâu thắng đó.
Nói một cách đơn giản, Thẩm chính là thẩm tra phán đoán, bao gồm y phục, khí chất, phong thái của đối phương. Phú quý hay bần tiện đều thể hiện từ đó ra cả. Thoạt nhìn là có thể nhận định được đẳng cấp, thứ bậc của một người. Ý nghĩa thứ hai của Thẩm là lắng nghe đối phương nói. Họ nói càng nhiều, thông tin tiết lộ cũng càng nhiều.
Xao nghĩa là thăm dò, vừa thăm dò, vừa đánh theo một gậy, thăm dò nhưng không được để lộ sơ hở. Xao là nền tảng của Thẩm, nếu thăm dò một câu chính xác, có thể dùng chữ Đả để hạ màn. Còn nếu hai lần đều không chính xác, thì sẽ vô cùng nguy hiểm, giống như vạch cỏ tìm rắn vậy, không khéo sẽ bị rắn cắn lại. Khi rơi vào trường hợp vạch cỏ tìm rắn, thông thường A Bảo sẽ phải vứt dao (tức rút êm).
Đả là suy đoán một cách kiên định. Đả hay là phải nhanh, xuất khẩu câu nào, mỗi chữ trong ấy đều phải tựa như tiếng kim ngân. Cao hơn nữa, ý nghĩa của Đả chính là đập tan ý chí của đối phương. Vì ta Xao chuẩn xác nên họ sẽ tuyệt đối tin vào lời nói của ta. Vậy nên với người bình thường, ta nói sắp tới họ gặp vận xấu; với quan chức, ta nói họ sắp mất chức; với thương nhân, nói sắp phá sản; với người phụ nữ có nỗi niềm chất chứa, nói họ sắp bị bỏ rơi. Như vậy là Đả thủng hoàn toàn phòng tuyến tâm lý của đối phương.
Thiên là lừa người. Có thể xuất chiêu lừa ngay tại trận, cũng có thể thông qua cách thức sắp đặt dàn cục. Thiên được dung hòa trong năm chữ kia, hoặc ở sự chậm rãi. Xuất Thiên không được nóng vội, nếu không sẽ lộ sơ hở, do đó mới có câu cấp Đả, mạn Thiên.
Long là vỗ về an ủi, nói những điều đối phương thích nghe, mang lại cho họ một tia hy vọng. Vì ta đã Đả họ nên họ rất sợ hãi, tâm tư rơi xuống cùng cực. Lúc này, ta phải Long họ một chút, cho họ biết dù sao vẫn còn hy vọng. Nếu họ làm theo lời nói của ta thì có thể biến nguy thành an, gặp hung hóa cát. Sau đó lại tiếp tục Long một chút, nói với họ rằng nếu vượt qua giai đoạn gập ghềnh này, sẽ đại phú đại quý, thọ đến trăm tuổi. Đương nhiên họ vô cùng vui mừng. Đả đối ứng với Long, trước tiên làm cho tuyệt vọng, sau đó lại gieo hy vọng, cuối cùng đối phương sẽ hoàn toàn bị trói chặt.
Thực chất Đả và Long đều là thủ đoạn của Thiên, không thể tách rời nhau. Nếu chỉ có Đả Thiên thì dù có ra chiêu lừa đẹp thế nào chăng nữa cũng vô dụng. Vì đối phương đã rơi vào tuyệt vọng, nghĩ rằng dù sao đó chính là số mệnh của mình, đành chấp nhận vậy nên có nói thế nào họ cũng không mắc câu nữa. Do đó nói: “Hữu Thiên vô Long, đế thọ chi tài”. Đế thọ là tiếng lóng, nghĩa là phạm phải sai lầm ngớ ngẩn.
Cuối cùng là chữ Mại, một cảnh giới viết văn, vẽ tranh tự nhiên phóng khoáng. Lúc này ta nói gì, đối phương liền nghe theo vậy. Hàm nghĩa thứ hai của nó là đã đến thời điểm thu tiền rồi. Mục đích cuối cùng đều là những thỏi ngân lượng sáng lóa của đối phương đang chìm trong mê muội, do đó có bán chác gì cũng phải bán sạch sẽ, gọn gàng.
Khi Tổ Gia truyền thụ khẩu quyết, ông kết hợp lý luận với thực tiễn, giảng một cách tường tận kinh nghiệm của chính bản thân, cộng thêm những dẫn chứng sinh động.
Lục tự chân ngôn này nói thì dễ, nhưng thực sự để thông hiểu tất cả được nó lại rất khó. Nếu đã vận dụng đủ sáu chữ, mà đối phương vẫn chưa thực sự tin tưởng hoặc vẫn tỏ thái độ xem xem thế nào đã, thì vẫn còn một chiêu cuối cùng, đó là xuất sát.
Tiền đề của xuất sát là đối phương như một con gà béo, vẫn còn chút hoài nghi, không hoàn toàn tin vào ta, thái độ và lời nói cũng không thực sự rõ ràng.
Vậy, thế nào là xuất sát? Suy cho cùng cũng một khâu của Thiên. Ví dụ, ta nói họ gần đây sẽ gặp “họa đổ máu”, họ nửa tin nửa ngờ. Ta muốn giải hạn cho họ, họ không đồng ý. Cuối cùng họ chỉ trả cho ta một ít tiền, mà không cắn câu bỏ khoản tiền lớn để giải hạn, lúc này ta có thể thỉnh thị Tổ Gia xuất sát.
Tổ Gia sẽ phái một vài tay chân đi theo người đó, tìm hiểu cuộc sống thường ngày của đối phương, khoảng vài ba tháng sau, tìm mấy tên lưu manh cố ý kiếm cớ va chạm, đánh cho mặt mũi bầm dập. Ngày hôm sau người đó nhất định sẽ ngoan ngoãn quay lại, nói: “Đại sư, ứng nghiệm rồi, ứng nghiệm rồi! Thật hối hận vì ban đầu đã không nghe theo ngài!”
Hoặc ta xem tướng số cho một ông chủ lớn và phán rằng sắp tới sẽ gặp họa. Ông ta không tin thì Tổ Gia sẽ cho người đến phóng hỏa hậu viện nhà ông ta, không đầy mấy ngày sau, ông ta sẽ ngoan ngoãn quay lại giải hạn.
Sau khi vào nghề được ba năm, tôi leo được lên vị trí Bá đầu. Tổ Gia nói: “Người có lương tâm mới có thể làm Bá đầu”. Ông nói cái tâm của tôi không hoàn toàn mất hết, tương lai có thể thay vị trí của ông.
Khó có thể khái quát tính cách của Tổ Gia chỉ bằng một vài câu đơn giản. Khi hung tính nổi lên, ông sẵn sàng ra tay giết người không chớp mắt, nhưng khi lòng từ tâm xuất hiện, ông lại giống như một vị Bồ Tát.
Thường ngày, Tổ Gia đều giúp đỡ người nghèo, ông không phải giúp đỡ theo kiểu làm cho có, qua loa đại khái, mà giúp đỡ một cách thực sự. Tôi cũng không biết ông làm như vậy có phải vì sám hối lương tâm hay để chuộc tội trong tâm hồn.
Tổ Gia nói, cảnh giới tối cao của A Bảo là chỉ lừa kẻ ác, kẻ xấu, như bà lão mà lần đầu tiên tôi hành nghề, không phải là đối tượng của A Bảo. Đó chỉ là lần luyện tay nghề, mà cũng có thể gọi là luyện cái tâm, dám lừa cả người lương thiện thì cũng dám lừa cả kẻ ác.
Kỳ thực, trong lòng tôi luôn cầu nguyện cho bà lão đó. Ông trời có mắt, mùa xuân năm sau, con trai bà lão bỗng nhiên trở về thật và khi đó cả nước cũng nhanh chóng được giải phóng. Sau này, Tổ Gia cho tôi quay lại nhà bà lão, kín đáo bỏ rất nhiều tiền trong sân nhà. Khi đó, tôi cảm thấy mình đã tìm lại được chính bản thân mình.
Làm A Bảo hiếm khi có được giấc ngủ trọn vẹn, thường xuyên bị tỉnh giấc trong cơn mơ. Có khi tỉnh giấc vì cười lớn, có khi tỉnh giấc vì sợ hãi. Khi rảnh rỗi không có việc gì làm, mọi thường người tụ tập uống rượu, vào lầu xanh. Nhưng có một quy định, các A Bảo muốn chơi thì ra ngoài chơi, có thể chơi hết mình, nhưng không được phép xuất hiện tại địa bàn hành nghề.
Bình thường A Bảo hành nghề với phong thái trang trọng, đạo đức mẫu mực, đặc biệt là các Bá đầu. Nơi hành nghề của họ đều ở những nơi đông đúc sầm uất như cổng thành, phố thị… Hàng ngày, họ ngồi ở đó với tư thế đạo mạo đường hoàng, nếu bị người khác bắt gặp ở chốn ăn chơi trụy lạc, đại họa tất sẽ rơi xuống đầu.
Khi ra ngoài ăn chơi, hoặc nhiều hoặc ít đều phải hóa trang. Điều này không hề khó đối với A Bảo. Mỗi người đều có vài bộ trang phục, mấy bộ râu tóc giả bởi lẽ đã đi lừa đảo tất phải hóa trang.
Đi chơi thì có thể, nhưng không được phép tẩu phong, tức là trực tiếp hành nghề ở bên ngoài, hoặc gia nhập giới A Bảo ở nơi khác. Đây là điều đại kỵ. Trong hơn 20 năm Tổ Gia cai quản Đường khẩu, chưa từng xảy ra tẩu phong một lần nào.
Có một tay chân ăn chơi bên ngoài, bị mắc bệnh hoa liễu, cuối cùng toàn thân phát bệnh mà chết. Trước khi chết, có ý nguyện muốn gặp cha mẹ, nhưng Tổ Gia không đồng ý. Ông nói: “Ngươi gặp họ với bộ dạng này, họ sẽ chết vì đau lòng mất.”
Sau khi tên này chết, Tổ Gia cho hỏa thiêu. Về phần gia đình, hàng tháng Tổ Gia đều cử người đến đưa tiền, nói rằng anh ta ở ngoài làm ăn rất tốt. Vì công việc quá bận rộn nên không về thăm cha mẹ được.
Tôi hỏi Tổ Gia vì sao không đưa ra quy định, cấm không cho ai được phép đến kỹ viện. Tổ Gia trả lời: “Ăn chơi, gái gú là bản tính của con người. Làm A Bảo là phải đem cả tính mạng ra để đánh cuộc, ta làm vậy vì điều gì hả? Nếu áp chế bản tính của họ, sớm muộn gì cũng sẽ tạo phản. Ăn no, uống đủ, đĩ điếm thoải mái, có như vậy họ mới có sức lực làm việc.”
Khi đó, tôi mới nhận thấy nhân tính của Tổ Gia thật đáng sợ.
LẦN LỘ CỤC DUY NHẤT CỦA TỔ GIA
Lịch sử Trung Quốc, từng xảy ra một hiện tượng kỳ lạ: trong một thời kỳ nào đó, khi đất nước cần gấp nhân tài, hoặc khi có ít người tham gia thi cử, lúc này cần phải bổ sung. Việc bổ sung không căn cứ vào điểm thi cao thấp, tuổi tác, phẩm chất, mà căn cứ vào tướng mặt đẹp xấu. Những người được triệu tập nằm trong số những người thi trượt, hoặc căn bản không hề tham gia thi cử, vài vị quan chủ khảo ngồi trong nhà, yêu cầu những người này lần lượt vào “phỏng vấn”. Đầu tiên, họ xem xem người này có tướng làm quan không, rồi nghe xem giọng nói có phải giọng quan không, cuối cùng lại yêu cầu người đó đi lại vài bước, xem người đó có dáng dấp của quan lại không. Trong những trường hợp như thế này, thông thường loại béo múp đầu múp cổ, ngực ưỡn, mặt vênh vang lên đi lại đều căn bản là được chọn. Như vậy đủ thấy mặt khuất đen tối, ngu xuẩn của chế độ khoa cử phong kiến.
Tướng thuật bắt nguồn từ thời kỳ Tiên Tần, hoàn thiện vào thời Hán. Cho đến nay, không ai biết người sáng lập ra tướng thuật là ai, tài liệu lịch sử cũng không có ghi chép nào liên quan, nhưng giới học thuật vẫn cho rằng tướng thuật được ra đời trong suốt một quá trình dài lâu, chứ không phải chỉ một đời người là có thể hoàn thiện được.
Tướng thuật có thể kết hợp tướng mạo và cát hung, chắc chắn đã trải qua bề dày thực tiễn với những minh chứng cụ thể mới đúc rút ra được kinh nghiệm. Ví dụ, người có cặp mắt trông như mắt dê là đoản mệnh (dương mục thọ đoản), người có nhân trung dài, đường pháp lệnh (hai đường chạy từ cánh mũi xuống đến khóe miệng) sâu sẽ
sống lâu…
Nói đến chuyện ăn uống và đại tiểu tiện để luận tướng, Tổ Gia từng giảng cho các huynh đệ trong Đường khẩu nghe những sách tướng thuật thời xưa, về cơ bản có những ý nghĩa dưới đây:
Về tướng ăn, phàm người ngồi ngay ngắn, ổn định, ăn uống từ tốn, không hấp tấp vội vàng, “dĩ thực tựu chủy”, đều là phúc tướng; phàm là người ngồi không ra ngồi nằm không ra nằm, nuốt vội nuốt vàng, “dĩ chủy tựu thực”, đều là tướng bần tiện.
Tổ Gia từng đùa rằng: “Toàn những lời hàm hồ! Ăn cơm thì tướng cái gì chứ, nó chỉ nói lên việc người này ăn còn đói hay không. Người phú quý có cái ăn cái uống, bữa kia ăn còn chưa kịp tiêu hóa hết đã đến bữa sau, đương nhiên sẽ ngồi vững vàng, ăn chậm rãi, từ tốn. Dân nghèo đói khổ không có cái ăn cái uống, bữa có bữa không, có khi cả mấy ngày liền chẳng được no bụng, không dễ dàng gì mới có được miếng ăn, đương nhiên sẽ nhoài cả người mà và cơm, ăn ngấu nghiến như hổ đói. Nếu để một tên địa chủ đói dăm ba ngày, xem lão ta còn ngồi ngay ngắn được không?”
Còn về chuyện đại tiểu tiện, sách xưa nói rằng, phàm người đại tiện phân nhỏ dài, mềm, màu vàng bóng, đều là phúc tướng; phàm người đi phân lớn, khô, đen, to, rắn quắt lại với nhau, đều là tướng bần tiện.
Tổ Gia lại cười, đùa rằng: “Đại tiện ra kiểu gì là do thứ mình ăn vào mồm. Bọn quý tộc, địa chủ một ngày ba bữa, đồ chay đồ mặn vừa phải, hay được ăn hoa quả trái cây, đương nhiên sẽ không bị táo bón; đám người hầu hay nông dân phải ăn vỏ cây, rau tạp, đói quá còn phải ăn cả tàn hương, đất sét trắng, đương nhiên phân sẽ vừa đen vừa to. Thử đổi vị trí cho nhau xem, thử đặt đầu xuống đất lật cật lên giời xem!”
Nói đến tướng thuật, có một người không thể không nhắc đến. Bà tên là Hứa Phụ, người mà Tổ Gia vô cùng khâm phục. Ông cũng kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện về bà.
Hứa Phụ là thầy xem tướng nổi tiếng thời Tây Hán, một người phụ nữ kỳ tài bậc nhất trong giới nữ tướng thuật Trung Quốc. Rất nhiều truyền thuyết nói về bà và những đánh giá đều rất tích cực. Đặc biệt, những truyền thuyết nói về việc Hứa Phụ xem tướng cho những nhân vật lớn như Lã Hậu, Lưu Bang mới thật thần kỳ.
Tổ Gia từng nói, Hứa Phụ là đại diện tiêu biểu cho thời Tây Hán, những người này có công lao to lớn đối với việc kế thừa và phát triển thuật xem tướng, làm cho tướng thuật bắt đầu dần được hệ thống hoá, quy phạm hoá.
Theo tư tưởng của người xưa, những người bất phàm tất sẽ có những trải nghiệm không tầm thường, nếu không sẽ không phải với lịch sử. Hứa Phụ đã lợi hại như vậy, vậy thì việc bà ra đời cũng phải khác hẳn người thường. Bà không phải hoàng đế, cho nên khi sinh ra, mẹ bà không thể nhìn thấy cảnh tượng rồng bay phượng múa được. Thay vào đó, một truyền thuyết còn đẹp đẽ hơn đã ra đời.
Tương truyền, khi Hứa Phụ chào đời có ngậm một viên bạch ngọc, trên viên bạch ngọc có hình bát qu&aacu12 năm nay, mỗi khoản đều ghi lại rõ ràng, ngoài khoản chi tiêu bình thường để duy trì Đường khẩu ra, mọi nguồn thu đều cho vào…”
Bao nhiêu năm nay, Mai Huyền Tử luôn tìm kiếm một chỗ dựa lớn, rồi lại tìm chỗ lớn hơn nữa để truyền bá, phát triển Quốc học, nhưng bọn quân phiệt còn mải đánh đấm lẫn nhau. Trước cục diện Trung Quốc đang lẩn quẩn trong cái vòng mê muội không chịu tỉnh ngộ này, từ khi Mai Hoa Hội được thành lập, ông ta luôn cảm thấy làm nên chuyện quả thực quá khó khăn. Chính vào thời điểm quan trọng này, người Nhật lại tìm đến ông ta. Ông ta nghe bọn chúng nói, cho rằng cơ hội trời ban “mượn sức mạnh này đánh lại sức mạnh kia” đã đến, cần phải lợi dụng thế lực của người Nhật, tống cổ tôn giáo của bọn Tây ra khỏi bờ cõi, đợi thời cơ chín muồi sẽ qua cầu rút ván, lật đổ con thuyền của người Nhật.
Mai Huyền Tử nói ra hết những lời gan ruột này với Tổ Gia. Sau khi nghe xong, Tổ Gia chỉ im lặng gật đầu, thở dài, rồi nói với Mai Huyền Tử: “Kẻ không biết mới giận, Mai sư phụ chịu tiếng chửi rủa sau lưng đã lâu, quả thực cũng khó cho ông, Mai sư phụ hãy nghe tôi nói…”
Mai Huyền Tử cúi người ghé sát tai ông lắng nghe, hai vị Đại sư cùng giãi bày những lời xuất phát tự đáy lòng cho nhau nghe. Trước sự nguy nan của đất nước, một nụ cười có thể làm tan biến mọi ân oán, hận thù.
Sau đó, hai người lại lên kế hoạch tỉ mỉ cho bước tiếp theo, mãi cho đến khi trời sáng vẫn chưa bàn xong. Đến giờ Ngọ, hai người cùng quỳ trước linh vị của thầy Mai Phủ Tổ, thắp hương thề nguyện, vái nhau tám vái, kết nghĩa anh em.
Kết đồng minh với Mai Huyền Tử, Tổ Gia cảm thấy vững vàng hơn nhiều, nhưng vẫn luôn thấy thiêu thiếu thứ gì đó. Ba hôm sau, Tổ Gia lại bí mật gặp Tăng Kính Võ, nói rõ kế hoạch của mình, đồng thời bảo ông truyền lại với Cửu gia. Kỳ thực, gần đây Tăng Kính Võ cũng đang tìm cơ hội bàn chuyện với Tổ Gia, nếu Tổ Gia là Hán gian thật, ông ta nhất định sẽ ra tay trừ khử.
Sau khi biết được dự tính thật sự của Tổ Gia, Tăng Kính Võ lo lắng nhắc nhở: “Tổ Gia phải hết sức thận trọng, người Nhật không dễ đối phó đâu.”
Tổ Gia gật đầu, nói:”Tôi vẫn phải phiền Tăng Giáo đầu một chuyện.”
“Tổ Gia cứ nói!”
“Giúp tôi tìm một người…”
Một tuần sau, nhờ những manh mối mà Tăng Kính Võ cung cấp, Tổ Gia đã tìm được một vị tướng sĩ nổi tiếng ẩn cư ở An Huy là Bành Hàm Phong.
Bành tướng sĩ là nhân vật nổi tiếng trong giới thuật số thời Dân quốc, rất am hiểu về tướng thuật, được người ta gọi là Nhất đại thần tướng, thiết khẩu trực đoán. Sở dĩ Bành tướng sĩ có được bản lĩnh ấy, ngoài tư chất thông minh, luôn siêng năng, nỗ lực ra, còn bởi ông có cơ duyên có được cuốn sách tướng thuật còn sót lại trong hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng.
Văn hoá Đôn Hoàng được nổi danh ở nước ngoài bởi người ta đã tình cờ phát hiện ra một động tàng kinh ở đây, tiếc rằng đã bị bọn đế quốc nhảy vào xâu xé, giờ ở Đôn Hoàng chỉ còn lại vài cuốn sách rách nát.
Ngày 26 tháng 5 năm Quang Tự 26, khi trông coi động Mạc Cao khai thông lớp bùn lắng đọng ở lối đi số 16 ở Đôn Hoàng, đạo sĩ Vương Viên Duyên đã bất ngờ nghe thấy âm thanh phát ra từ một hang động ở bức tường đá phía bên phải. Vương đạo sĩ cho rằng bức tường này rỗng bên trong, vì thế gõ vỡ bức bích họa, cú gõ này thật tai hại, nó đã để lộ ra Động tàng kinh Đôn Hoàng gây kinh thiên động địa khắp trong và ngoài nước. Phật kinh, Đạo kinh, sách kinh điển thuật số – trong đó có cả sách tướng thuật – từ mấy nghìn năm trước đều phô bày ra trước mắt.. Đáng buồn là những cuốn kinh này lại không gây được sự chú ý của chính phủ nhà Thanh. Một vương triều rối ren, đang ngụp lặn trong những ngày tàn, tự lo cho mình còn chẳng xong, nên cũng không thể bận tâm đến những thứ này, kết quả đã để cho bọn đế quốc nhào đến. Sách kinh ở Đôn Hoàng bị bọn người Nhật, Mỹ, Nga, Đức tranh cướp gần hết, chỉ còn chừa lại cho Trung Quốc lác đác vài cuốn. Đại sư Quốc học bậc nhất thời đó là thầy Lý Tiện Lâm từng than: “Đôn Hoàng ở Trung Quốc, nhưng văn hoá Đôn Hoàng lại ở ngoài thế giới.”
Sau sự việc đó, Bành tướng sĩ vì muốn học về Đôn Hoàng học, đã vượt cả nghìn dặm đến tận đất Lũng (tên gọi khác tỉnh Cam Túc), tìm đến động tàng kinh, thăm viếng các ẩn sĩ, cuối cùng có được mười hai cuốn tướng thuật còn sót lại ở Đôn Hoàng, sau đó ông bế quan ba năm, chuyên tâm nghiên cứu, cuối cùng soạn ra Đại pháp.
Trước cuộc đại chiến ở Trung Nguyên, tướng quân Phùng Ngọc Tường đích thân mời Bành tướng sĩ đến, nhờ ông xem tướng cho mình. Bành tướng sĩ xem kỹ ngũ quan của Phùng Ngọc Tường, sau đó nói đúng một câu: “Sinh vu đao sơn, tử vu hỏa hải”.
Giác quan thứ sáu của Tổ Gia vô cùng nhạy bén, ông cảm thấy có điều gì đó không ổn ở đây, nên ngay lúc đó liền thay đổi kế hoạch, một xu cũng không lấy.
Trên đường về nhà, Tổ Gia còn phát hiện có người đang đi theo mình. Không hề quay đầu lại, ông bước nhanh về thẳng nhà.
Vừa về đến nhà, ông phát hiện trong nhà có bốn tên đặc vụ, chúng lập tức chĩa súng quay về phía ông nói: “Mời ông đi theo chúng tôi.”
Tổ Gia hỏi: “Đi đâu?”
Một tên đặc vụ nói: “Đi gặp Cục trưởng của chúng tôi.”
Tổ Gia bị áp giải về Cục. Vị Cục trưởng nói với vẻ mặt rất kỳ quặc: “Cái trò trẻ con này mà cũng định lừa ông đây hay sao?”
Tổ Gia hỏi lại với vẻ khó hiểu: “Ngài nói vậy nghĩa là sao?”
Vị Cục trưởng nói: “Ta cố ý làm như vậy để các người mắc câu.”
Tổ Gia lập tức hiểu ra vấn đề, hóa ra ông ta là Táo, những điều ông ta tiết lộ cho Khôi gia đều là giả.
Tổ Gia nói: “Vậy là ý gì?”
Vị Cục trưởng trả lời: “Tên Khôi Nhị khốn kiếp! Từ hôm hắn giới thiệu ngươi cho ta, ta đã có ý nghi ngờ rồi. Ta biết hắn biết rất nhiều điều về ta, nên đã cố ý bịa ra chuyện suýt bị mất mạng năm 28 tuổi. Kết quả là ngươi cũng nói y như vậy, thử nói xem ngươi có đáng chết không?”
Tổ Gia cười nhạt: “Cục trưởng quả nhiên cao minh. Chính xác là như vậy!”
Vị Cục trưởng sững người.
Tổ Gia nói tiếp: “Khôi Nhị nói với tôi là Cục trưởng muốn xem tướng số và bảo tôi xem chuẩn một chút. Chúng tôi hành nghề xem tướng số không dám đảm bảo chính xác trăm phần trăm. Khôi Nhị nói ông ta tiết lộ cho tôi một vài thông tin, tiền kiếm được sẽ chia đều. Ông ta là người của giới Hắc đạo, những nhà tướng số nhỏ bé chúng tôi không dám không nghe theo, do đó chỉ có thể làm theo lời ông ta nói. Nhưng Cục trưởng à! Ngài cũng thấy đấy, một xu tôi cũng không dám lấy, vì chúng tôi xem tướng số luôn tin thiện hữu thiện báo, ác giả ác báo.”
Cục trưởng mỉm cười nói: “Được, bây giờ ngươi xem cho ta, xem chính xác, ta sẽ thả ngươi, Bằng không lập tức bắn bỏ!”
Tổ Gia quả không hổ danh là Tổ Gia, nếu không ông đã chết từ lâu rồi. Ông nhắm hai mắt lại, miệng lẩm nhẩm mấy câu, một lát sau định thần lại nói: “Cục trưởng ngài sinh ở nhà này, nhưng được nuôi ở nhà khác.”
Cục trưởng sững người: “Nghĩa là sao?”
Tổ Gia trả lời: “Nuôi ngài trưởng thành không phải là cha mẹ đẻ.”
Cục trưởng nói: “Ngươi... ngươi nói tiếp đi.”
Tổ Gia nói: “Phía nam nhà ngài có một con sông, hoặc có một hồ nước, nếu không ngài không thể leo lên đến chức Cục trưởng.”
Vị Cục trưởng trầm ngâm một lát: “Tiếp đi.”
Tổ Gia nói: “Cục trưởng, ngài không nói đúng hay sai, tôi không dám nói nữa.”
Vị Cục trưởng hỏa khí đã hạ, nói: “Đúng, đúng là có một cái hồ, nhưng sau này gặp hạn hán, nên cái hồ đó đã bị cạn khô.”
Tổ Gia nói: “Thế phong thủy đó có lợi cho con đường hoạn lộ của Cục trưởng, ngài lên chức nên nước tự nhiên sẽ cạn đi.”
Vị Cục trưởng cười lớn.
Đây chính là chữ Long trong Lục tự chân ngôn, tức tâng bốc lấy lòng, nhưng tâng bốc cũng phải có độ, nếu không sẽ phản tác dụng. Tổ Gia dùng chiêu này thật vô cùng khéo léo.
Cuối cùng Tổ Gia cũng quay về một cách bình an. Về đến nhà, cả người ướt đẫm mồ hôi. Ông lập tức triệu tập Bá đầu, tuyên bố: “Lộ cục rồi. Khôi Nhị phen này chết chắc.”
Một Bá đầu nói: “Không nghiêm trọng đến vậy chứ?”
Tổ Gia nói: “Lần này là đắc tội với tên trùm đặc vụ, có thể sống quay về được là phúc bảy mươi đời nhà ta rồi. Khôi Nhị chắc chắn sẽ khai ra chúng ta, mau chóng thông báo cho các huynh đệ, lập tức giải tán Đường khẩu. Mọi người không được liên lạc với nhau, không có lệnh của ta, tuyệt đối không được hành nghề trở lại. Mọi người chia nhau cầm theo ít tiền, rồi trốn đi.” Ngay đêm đó, Tổ Gia vội vàng lên đường về quê.
Lần đó giải tán Đường khẩu khoảng một năm, cho đến khi người Nhật đánh chiếm Trung Quốc, Quốc dân Đảng lùi về phía sau chiến trận.
Đến đây chắc hẳn ai cũng sẽ thắc mắc: vì sao vào thời điểm cấp bách cuối cùng đó Tổ Gia lại bói chuẩn? Phàm là Tổ Gia làm bất cứ việc gì đỻ tám lạng, người nửa cân mà thôi. Mục đích của bọn họ đều là để người ta đem ký gửi vận mệnh vào việc xem tướng mà coi nhẹ tầm quan trọng của việc tự tu tập bản thân. Rút cục đều vì tiền, bọn họ mới dùng lời khôn tiếng khéo để lừa phỉnh người ta, miệng tuy khẳng khái đĩnh đạc nhưng thứ mà trong đầu họ nghĩ đến chẳng qua đều là những nén bạc trắng xóa lóa mắt mà thôi, chỉ khác nhau ở chỗ công phu biểu diễn cao hay thấp, kẻ giỏi che đậy tâm tư, tạm thời đứng trước đống bạc mà mặt mày không biến sắc, đó chính là Đại sư; kẻ không giỏi giấu giếm, thấy tiền bạc là mắt sáng lên, đó chính là kẻ lừa đảo. Nhưng một khi lột mất cái mặt nạ của bậc Đại sư thì sẽ phát hiện ra, ông ta còn tham hơn phường lừa đảo, gian trá hơn chúng!”
Tổ Gia bừng tỉnh như được dội nước lên đầu: “Chân nhân nói phải! Chân nhân nói phải!”
Bành tướng sĩ cười khà: “Theo ta thấy, Đại sư chân chính, từ cổ chí kim chỉ có một, đó chính là Trương Lương đời Hán. Ông ta là người thực sự hiểu được chân lý của Kinh Dịch, cho nên chưa bao giờ xem tướng số cho người ta, sau khi phò giúp Lưu Bang dựng lên cơ nghiệp nhà Hán, liền rút lui ngay. Đây chính là người duy nhất học Kinh Dịch đạt đến cảnh giới xuất thần, lại được sống thọ, được chết trên giường nhà mình. Gia Cát Lượng không được vậy, sau vài năm làm trái đạo trời, hao người tốn của, chết nơi đất khách mãi gò Ngũ Trượng (Thiểm Tây); Lưu Bá Ôn càng không xong, phải gánh chịu họa diệt môn thê thảm; Kinh Phòng thì không phải nói nữa, chết chẳng toàn thây; Thiệu Ung được xem là Đại sư nửa vời, ban đầu ông ta cũng có ý định dùng cách xem tướng số để cải mệnh cho người ta, về sau mới phát hiện ra không thể làm được, cuối cùng im bặt, cái gì cũng không nói, điểm này đã được thể hiện rõ nét trong trước tác Hoàng cực kinh thế, ông ta chỉ viết ra khởi nguồn của âm dương, cách cục xã hội diễn biến tự nhiên, chứ không hề tiết lộ phương pháp diễn đoán (diễn giải mà luận đoán), đó chính là vì sợ người khác học được phương pháp này mà đi lầm đường.”
Tổ Gia gật đầu liên tiếp: “Chân nhân dạy rất phải!”
“Hơn nữa, ngươi không nhận ra một hiện tượng rất thú vị hay sao?” Bành tướng sĩ nhíu mày hỏi.
“Hiện tượng gì vậy?” Tổ Gia không hiểu.
“Người thích xem tướng số thì vận mệnh càng ngày càng kém, càng mong cầu tài vận, tài vận ngày càng không tốt; cầu nhân duyên, nhân duyên càng không thuận lợi; cầu sức khỏe, sức khỏe kém dần; cầu đường quan vận thì chiếc mũ ô sa sớm muộn cũng mất…” Bành tướng sĩ mỉm cười nói.
“Mệnh càng xem càng bạc?” Tổ Gia đã ngộ ra đôi phần.
“Ừm.” Bành tướng sĩ gật đầu. “Vì những người này đã giao vận mệnh của mình cho kẻ khác, vậy còn tốt đẹp được nữa không?”
Tổ Gia lại gật đầu lia lịa, sau đó liền đem ý đồ thật sự của mình nói với Bành tướng sĩ.
Sau khi nghe xong, Bành tướng sĩ mỉm cười gật đầu: “Ngươi vì muốn cứu nước mà đến… Nếu ta đuổi ngươi ra khỏi cửa thì ta chẳng khác kẻ bất nhân bất nghĩa. Ta sẽ truyền lại cho ngươi đôi chút về Ngũ hành tâm pháp vậy, có lẽ sẽ có tác dụng, còn về việc nó có tác dụng thế nào, tự ngươi liệu mà làm, không làm được sẽ mất mạng đấy!”
Tổ Gia vội cúi nghiêng người lắng nghe.
Lúc này, Tổ Gia mới phát hiện ra, Bành tướng sĩ không chỉ vô cùng tinh thông tướng thuật mà còn rất am hiểu kiến thức của các môn thuật số khác, mọi thuật dự đoán đều không thể tách rời khỏi quy luật sinh khắc chế hóa của ngũ hành, công cụ suy diễn đều là thiên can địa chi, nhất pháp thông, vạn pháp thông, nguyên lý đều giống nhau. Hai người thắp nến trò chuyện thâu đêm không nghỉ. Họ nói từ tướng mặt cho đến tướng tay, từ tướng tay đến Bát tự, từ Nạp âm thủ mệnh đến Thiết Bản thần toán, từ Kỳ môn độn giáp đến Mai Hoa dịch số, Bành tướng sĩ tóm lược những điểm cốt yếu đem truyền thụ, Tổ Gia liền ghi khắc lời dạy của thầy.
Lúc canh năm, Tổ Gia vẫn không thấy buồn ngủ, nhưng vì lo nghĩ cho sức khỏe của Bành tướng sĩ, liền đề nghị ông hãy nghỉ ngơi trước.
Sau khi Bành tướng sĩ vào nhà nằm nghỉ, Tổ Gia nhẹ nhàng khép cửa lại, bước ra ngoài. Giữa vùng sơn dã, ông ngồi xếp bằng trên một tảng đá lớn, hít thở bầu không khí trong lành, ngẫm nghĩ lại mọi điều mà Bành tướng sĩ đã truyền dạy, nghĩ đến lúc phấn chấn, ông không khỏi bất giác thầm thán phục sự thần kỳ vĩ đại của thuật số Trung Hoa.
Khi mặt trời đã lên cao, gần đến giờ Tỵ, Tổ Gia đoán chắc Bành tướng sĩ đã thức dậy, bèn quay lại nhà, gõ cửa nhè nhẹ.
“Bành chân nhân?”
Không thấy tiếng đáp lại. Tuo;Thuận Thiên Giáo đã tung hoành khắp ba tỉnh phía Đông mười năm nay, Tưởng sư gia được chân truyền hai cuốn tuyệt học là Mai Hoa dịch số và Hoàng Cực kinh thế của Thiệu Ung, thông hiểu hết cả, đưa dịch số, dịch lý đạt đến cảnh giới cực đỉnh, người trong giang hồ không ai không biết, vãn bối ngưỡng mộ đại danh tiền bối từ lâu, nay mới được gặp mặt, Tưởng sư gia quả đúng là bậc tiên phong đạo cốt, phong thái hơn người!”
Tưởng Thiên Thừa đã gần 60, cho nên Tổ Gia tự xưng là vãn bối.
Tưởng Thiên Thừa vốn đang tức mình, bị Tổ Gia dùng chiêu long, đột nhiên cảm thấy ngần ngại: “Tổ Gia quá khen rồi, phái Giang Tướng tung hoành trên giang hồ mấy trăm năm, kỹ pháp Trát phi của Mộc Tử Liên thuộc hạng siêu phàm khắp vùng Giang Hoài, lão đây đã như ngọn đèn trước gió, hậu sinh khả uý.”
“Tưởng sư gia đã nghiên cứu, học tập Mai Hoa dịch số nhiều năm, ông thấy nó ứng với người, với việc được bao nhiêu?” Ý Tổ Gia muốn hỏi về độ chính xác của Mai Hoa dịch số.
“Vạn pháp quy tông, đúng hay không không phải ở thuật pháp, mà là ở con người. Chỉ cần nghiên cứu, học tập đến nơi đến chốn, mọi phương thuật đều có thể chiêm bốc thiên địa, tức bói toán mọi việc trong trời đất. Mai Hoa dịch số do đại sư Dịch học đời Tống là Thiệu Ung Tiết soạn ra, sau sự việc “quán mai chiêm” mới có tên như vậy. Pháp thuật này dùng số lý tiên thiên bát quái, mượn các quẻ tượng là nội quái, ngoại quái, hỗ quái, rồi nạp âm thanh, phương vị, thời gian, động tĩnh, địa lý, thiên thời, người vật, màu sắc, động thực vật vào trong quẻ bói, từ đó có thể chiêm bốc ra vạn vật trong thế gian!”
Sách xưa đã ghi: Thiệu Ung Tiết và bạn bè thường ngồi ngắm hoa mai trong vườn. Một hôm, họ trông thấy hai chú chim sẻ đang chíu chít cãi nhau trên cành mai, đột nhiên, một con chim mổ cho con kia ngã xuống đất. Thiệu Ung Tiết thấy vậy, liền gieo quẻ, sau đó phán: “Chập tối mai nhất định sẽ có một cô gái vào vườn hái hoa mai, người coi vườn tưởng là kẻ trộm mới đuổi bắt, khiến cho cô gái bị ngã từ trên cây xuống, gẫy chân.” Ngày hôm sau quả đúng là đã xảy ra chuyện như vậy, từ đó Mai Hoa dịch số nổi danh trong thiên hạ.
Bỗng Tổ Gia chuyển đề tài, hỏi: “Tại hạ có một câu, không biết có nên nói ra không?”
“Xin mời!” Tưởng Thiên Thừa nói.
“Tại hạ cho rằng Mai Hoa dịch số là ngụy tác!”
Dưới khán đài kinh ngạc ồ lên. Ngụy tác ý nói rằng, đoạn sử liệu kia không có thật, chỉ là do người đời sau bịa đặt ra.
Tưởng Thừa Thiên giận run người: “Mai Hoa dịch số và Hoàng Cực kinh thế là hai tuyệt tác lớn lúc sinh thời của Thiệu Công, Tổ Gia lại dám vọng ngôn nói là giả danh, há chẳng phải chuyện nực cười nhất trên đời hay sao?”
Tổ Gia nói rành mạch: “Thiệu Ung nổi tiếng là bậc đại tài, từ nhỏ đã đọc nhiều sách vở, Tống sử đã ngợi ca ông: ‘Kiên trì, chịu khó, chịu khổ, lạnh không cần sưởi, nóng không cần quạt, ngày đêm mải miết học hỏi suốt mấy năm ròng’; ‘tiếp thu Hà Đồ, Lạc Thư, 64 quẻ tượng của Phục Hy’; ‘trước tác gồm có Hoàng Cực kinh thế, Quán vật nội ngoại thiên, Ngư tiều vấn đáp; thơ có Y xuyên kích nhưỡng’ tập. Người đời sau kế tục người đi trước chép sử, tất sẽ vô cùng cẩn trọng, không dám ăn nói ngông cuồng, đã đưa ra dẫn chứng ví dụ có thể tra cứu được, nhưng trong sử sách đời Tống Thiệu Ung bản truyện lại chỉ kể ra bốn tác phẩm của nhân vật truyền kỳ này là: Hoàng cực kinh thế, Quán vật nội ngoại thiên, Ngư tiều vấn đáp, Y xuyên kích nhưỡng tập. Nếu Mai Hoa dịch số quả đúng như Tưởng sư gia đã nói, là một trong hai tuyệt tác lớn bị thất truyền của Thiệu Ung Tiết, thì làm sao người biên soạn sử thời Tống lại dám bỏ sót. Từ đây có thể thấy, Mai Hoa dịch số đích thị do người đời sau mượn tiếng soạn ra. Bỉ nhân tài hèn học mọn, nhưng không đến nỗi không hiểu biết kinh sử, không biết trong hai chúng ta, rốt cuộc ai mới đang nói chuyện nực cười đây?!”
Tưởng Thiên Thừa vừa định giải thích, Tổ Gia liền nói tiếp: “Vừa rồi, chỉ mới khảo chứng Mai Hoa dịch số là tác phẩm mạo danh căn cứ vào sử sách, bây giờ chúng ta hãy xét về mặt nội dung để xem xem Mai Hoa dịch số có giả mạo hay không. Hầu như cả cuốn Mai Hoa dịch số đều giảng giải về phương pháp bói toán, nhưng lại chẳng hề có một cương lĩnh chung, càng không hề nói đến phương thức và cách thức suy luận, diễn giải cụ thể. Cả một cuốn sách thần kỳ như thế, cuối cùng chỉ dùng một bài thơ mà đòi thay thế phương pháp giải đoán, bài thơ viết rằng:
Nhất vật kỳ lai hữu nhất thân,
nhất thân hoàn hữu nhất Càn Khôn;
Năng tri vạn vật bị vu ngã,
khẳng bá tam tài biệt lập căn;
Thiên hướng nhất trung phân hạo hoa,
c;n đầu ta, cắn ta một miếng. Giờ thì tốt rồi, ta đã diệt trừ được nó, các ngươi đi tìm xác của nó đi.”
Mọi người tỏa ra đi tìm quanh sân một hồi lâu, những không tìm thấy. Nhị Bá đầu nói: “Không cần phải vội, nó chạy không xa được đâu.” Sau đó, mọi người đều quay về.
Ngày hôm sau, mới tờ mờ sáng, một tiếng kêu thất thanh từ trong phòng Trương công tử phát ra, Trương lão gia và mọi người vội vàng chạy lại xem chuyện gì, chỉ thấy trong chăn của Trương công tử có một con cáo mình đầy máu me nằm cuộn tròn. Trương Tứ gia hỏi làm sao mà kêu thế? Trương công tử run cầm cập, lắp ba lắp bắp nói: “Buổi sáng dậy đi tiểu tiện, cảm thấy trong chăn có vật gì đó, mở ra thì thấy...”
Trương Tứ gia ngẫm nghĩ một lát, rồi gật gật đầu mỉm cười. Trương công tử cũng nhờ lần sợ hãi này mà tỉnh táo hơn. Anh ta cảm thấy đói và bắt đầu ăn uống trở lại, mấy hôm sau sắc mặt tươi tỉnh, sức khỏe cũng hồi phục rất nhiều.
Sau đó, Trương Tứ gia đặc biệt chuẩn bị mấy chục đĩnh bạc, vài xấp tơ lụa thượng hạng, đem đến tạ ơn Tổ Gia và Nhị Bá đầu. Ông ta nói: “Các sư phụ quả là đạo pháp cao minh, cứu độ muôn dân.”
Kỳ thực, từ đầu đến cuối đây đều là một màn lừa bịp không hơn không kém. Ban đầu, Trương Tứ gia không tin, Tổ Gia bèn sai Nhị Bá đầu dẫn theo mấy người lên núi bắt vài con cáo, cách một hôm thả một con vào nhà Trương tứ gia, đợi đến khi đối phương tin là có “hồ ly tinh” thật, liền cử Nhị Bá đầu đến lập đàn làm phép. Còn về máu trên đầu, kỳ thực là máu chó. Nhị Bá đầu dùng một tấm vải trắng được may nhiều lớp, ở giữa có đặt một túi tiết chó được làm từ bàng quang của lợn. Khi làm phép Nhị Bá đầu chùm tấm vải này lên đầu, nhân lúc không ai để ý, đập mạnh lên trán một cái, túi máu chó liền vỡ ra, máu sẽ chảy xuống. Trong lúc hỗn loạn, không ai đề phòng, sai một tên tay chân chạy vào nấp sẵn trong phòng Trương công tử, thổi một ít mê hồn tán, rồi đem con cáo đã chết nhét vào trong chăn của anh ta.
Thủ pháp này được gọi là Trát phi, cũng tức là chiêu giả thần giả quỷ.
Tổ Gia thường nói: “Phàm ‘nhất’ giai khả Trát phi, quân tử kính quỷ thần nhi viễn chi, tiểu nhân úy quỷ thần nhi chiêu chi, phi hữu sở cụ, tức hữu sở cầu, A Bảo trát chi, thuận thiên thừa mệnh.”
Ý rằng, người quân tử chân chính trong tâm không có quỷ, ngay thẳng bộc trực, không sợ quỷ thần. Còn những kẻ sợ quỷ hoặc cầu khấn quỷ thần, nếu không phải vì làm việc trái với lương tâm thì chắc chắn có điều muốn cầu xin quỷ thần, A Bảo có thể nhân cơ hội này mà thả thòng lọng. Thủ đoạn của thuật Trát phi rất đa dạng như chu sa họa quỷ, thần tiên gửi gắm... thực chất đều có tác dụng làm đạo cụ.
Trong Kinh Hoa nghiêm nói: “Ác nghiệp tạo ra trước kia, đều do tham, sân, si vô cùng vô tận.” Nhược điểm trong bản tính con người chính là: tham, sân, si. Quan sát một cách tỉ mỉ thì dường như tất cả tai họa đều bắt nguồn từ ba nhược điểm này.
Tham là tham lam. Tức tham tài, tham sắc, tham danh, tham tiếng, tham địa vị... để thỏa mãn sự tham lam đến điên rồ cuồng dại, táng tận lương tâm, không việc gì không dám làm. Bọn tham quan, cường đạo, trộm cướp, cờ bạc, háo sắc, gian thương, đạo văn, bao gồm cả A Bảo đều như nhau. Kết cục cuối cùng của những người này đều rất thê thảm.
Sân nghĩa là phẫn nộ, tức giận. Khi tức giận về căn bản không thể khống chế được bản thân mình, những kẻ tử tù vì tức giận nhất thời mà giết người, chẳng tên nào không cảm thấy hối hận cả. Hàm nghĩa khác của sân là sự đố kỵ, một khi sinh ra tâm đố kỵ, dù là bạn bè bằng hữu tốt đến mấy chăng nữa đều sẽ ngáng chân lẫn nhau.
Si là si tình. Kẻ rơi vào lưới tình, nhất là kẻ bị làm cho mê mẩn tâm thần, mất đi hồn phách, bị tình cảm chi phối, cuối cùng kẻ buồn rầu mà chết, kẻ vì yêu mà sinh lòng thù hận hoặc giết chết đối phương, hoặc cả hai tự tử vì tình.
Một khi con người để lộ ra ba nhược điểm này, A Bảo tất sẽ có cơ hội ra tay.