PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 10

     rong lúc lái xe, viên thám tử to béo cựa quậy liên tục, ông ta sờ bụng, giật giật cổ áo.
Kathryn Dance hiểu thứ ngôn ngữ hình thể ấy của Lon Sellitto, trong lúc ông ta lái chiếc Crown Vic không sơn chữ cảnh sát – cùng một loại với chiếc xe công vụ của cô ở California – lao vun vút qua các con phố New York, những cái đèn gắn lưới bảo vệ sáng lấp lóe, nhưng không hú còi.
Cú điện thoại cô nhận được trong taxi là của ông ta, một lần nữa đề nghị cô giúp đỡ trong quá trình giải quyết vụ án. “Tôi biết chị phải lên máy bay, tôi biết chị phải về nhà, nhưng…”
Sellitto nói rằng họ vừa phát hiện ra một nơi có khả năng là nơi có khả năng là nơi xuất xứ của những chiếc đồng hồ được để lại tại hai hiện trường vụ án mà Thợ Đồng Hồ tiến hành, và họ muốn cô phỏng vấn người đàn ông có thể đã bán chúng. Có một khả năng, dù mong manh thôi, là người này có mối liên hệ nào đấy với Thợ Đồng Hồ và họ muốn cô cho ý kiến.
Dance chỉ thoáng cân nhắc trước khi nhận lời. Cô đã cảm thấy nuối tiếc, vì phải đột ngột rời khỏi ngôi nhà của Lincoln Rhyme. Kathryn Dance rất ghét phải bỏ dở một vụ án, thậm chí nếu nó không phải một vụ án do cô chịu trách nhiệm. Chiếc taxi quay lại, trở về chỗ Rhyme, nơi Sellitto đang đợi cô.
Bây giờ, trong xe của viên thám tử, Dance hỏi: “Gọi cho tôi là ý tưởng của anh, đúng không?”
“Thế thì sao?”, Sellitto hỏi lại.
“Không phải của Rhyme. Anh ấy chưa chắc chắn về tôi.”
Một giây im lặng của Sellitto là một tín hiệu. Sellitto nói: “Chị đã làm rất tốt với nhân chứng kia, tay Cobb”.
Dance mỉm cười. “Tôi biết. Nhưng anh ấy chưa chắc chắn về tôi.”
Một chút im lặng nữa. “Anh ấy thích các bằng chứng của mình.”
“Ai cũng có nhược điểm.”
Viên thám tử cười lớn. Ông ta ấn nút còi hụ và họ tăng tốc lao qua một chốt đèn đỏ.
Trong lúc Sellitto lái xe, Dance liếc nhìn ông ta, quan sát đôi bàn tay và cặp mắt ông ta, lắng nghe giọng nói của ông ta. Cô đánh giá: Ông ta thực sự bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải tóm bằng được Thợ Đồng Hồ, các vụ án khác chắc chắn đang nằm trên bàn làm việc của ông ta giờ chỉ mơ hồ tựa hơi nước. Và, như cô đã quan sát khi ông ta ở lớp học ngày hôm qua, ông ta thuộc loại bền bỉ, có kiến thức thực tế, mất bao lâu thời gian để hiệu được một vấn đề hay nắm vững một kỹ thuật thẩm vấn cũng không sao; nếu người nào đấy sốt ruột với ông ta thì, ờ, đó là vấn đề của họ.
Sellitto có nghị lực cương cường, nhưng rất khác với nghị lực ở Amelia Sachs, cô gái từng gặp những thương tổn. Ông ta mắc thói quen phàn nàn, nhưng bản chất là người dễ bằng lòng.
Đây là việc Dance làm một cách tự nhiên, sụ phân tích ấy. Một cử chỉ, một ánh mắt, một câu nói không khách sáo, tất cả đối với cô đều trở thành một mảnh của trò chơi kỳ diệu, chính là mỗi con người. Thông thường, cô có thể ngừng sự phân tích ấy lại khi cô muốn – chẳng thích thú gì nếu ra ngoài quán uống một ly vang Pinot Grigio hay một vại bia Anchor Steam mà thấy mình đang phân tích những người bạn cùng ngồi xung quanh bàn (họ thì càng chẳng thích thú gì). Nhưng thỉnh thoảng các ý nghĩ cứ tràn trong đầu óc. Thói quen này thuộc về địa hạt của Kathryn Dance.
Kẻ say mê con người…
“Chị có gia đình chứ?”, Sellitto hỏi.
“Vâng, hai cháu.”
“Còn chồng chị làm gì?”
“Anh ấy đã mất.” Công việc của Dance là nhận ra tác động của các ngữ điệu khác nhau, và giờ cô đưa ra những lời này bằng cách đặc biệt, vừa thoải mái vừa nghiêm trang, khiến ông ta hiểu rằng: “Tôi không muốn nói tới chuyện đó”. Một phụ nữ sẽ nắm lấy cánh tay cô đầy thông cảm. Sellitto xử sự như phần lớn cánh đàn ông vẫn xử sự trong trường hợp này: thật lòng nhưng vụng về lẩm bẩm câu “xin lỗi” và chuyển chủ đề. Ông ta bắt đầu nói tới những chứng cứ họ tìm thấy và những manh mối – lúc đầu tưởng chừng không phải là manh mối đâu. Ông ta ngộ nghĩnh, hơi thiếu kiên nhẫn.
À, Bill… Anh biết gì không? Em nghĩ rằng anh sẽ thích người đàn ông này. Dance cũng nhận ra là cô thích ông ta.
Sellitto nói với cô về cửa hiệu có thể đã bán những chiếc đồng hồ. “Tôi đang bảo là chúng tôi không nghĩ cái tay Hallerstein này giết người. Nhưng như thế không có nghĩa anh ta không dính líu vào. Có khả năng tình hình sẽ, chị biết đấy, hơi khó khăn.”
“Tôi không có vũ khí”, Dance lưu ý.
Luật quy định về việc mang súng từ bang này sang bang khác rất nghiêm ngặt và hầu hết cảnh sát bị cấm mang vũ khí từ bang mình sinh sống sang bang khác. Tuy nhiên vấn đề không ở chỗ đó, Dance chưa bao giờ sử dụng khẩu Glock của cô trừ trên bãi tập và hy vọng vẫn có thể nói vậy vào bữa tiệc nghỉ hưu.
“Tôi sẽ theo sát chị”, Sellitto cam đoan.
Cửa hiệu đồng hồ Hallerstein nằm giữa một tòa nhà ảm đạm, bên cạnh mấy cửa hiệu bán sỉ và kho chứa hàng. Dance quan sát xung quanh. Mặt tiền tòa nhà đầy bụi bẩn và lớp sơn đã tróc lở, nhưng bên trong ô kính bày hàng của cửa hiệu Hallerstein, bảo vệ bằng những thanh thép dày, các loại đồng hồ được trưng ra chẳng chê vào đâu được.
Khi họ bước tới cửa, Dance nói: “Thám tử, nếu anh không cảm thấy phiền, anh xác minh các thứ giấy tờ, rồi tiếp theo để tôi tự xử trí. Được chứ?”.
Một số cảnh sát, trên địa hạt của mình, sẽ khó chịu với việc cô giành quyền chủ động. Tuy nhiên, cô đã cảm thấy rằng Sellitto thì không (ông ta tự tin vô cùng), nhưng cô vẫn cần phải hỏi. Ông ta đáp: “Chị biết mà, nó là tình huống dành cho chị. Vì thế chúng tôi mới gọi chị”.
“Tôi sẽ nói một số điều nghe hơi kỳ quặc. Đó là một phần của kế hoạch. Nếu tôi cảm thấy đó là đối tượng, tôi sẽ ngả người về phía trước và đan các ngón tay vào nhau.” Hành động ấy khiến Dance dễ dàng gặp nguy hiểm hơn và khiến kẻ sát nhân, bất tự giác, yên tâm – sẽ ít có khả năng sử dụng đến vũ khí hơn. “Nếu tôi nghĩ rằng anh ta vô tội, tôi sẽ tháo chiếc xắc ra khỏi vai và đặt nó lên quầy hàng.”
“Hiểu rồi.”
“Sẵn sàng chưa?”
“Sẵn sàng theo chị đây.”
Dance ấn một cái nút và họ được mời vào qua thiết bị điện thoại gắn ở cửa. Cửa hiệu nhỏ, có đủ các kiểu đồng hồ mà người ta có thể tưởng tượng: những chiếc đồng hồ quả lắc đặt trong tủ gỗ cao, những chiếc tương tự như thế nhưng xinh xắn hơn để bày trên bàn, các tác phẩm điêu khắc trang hoàng lộng lẫy gắn kèm đồng hồ, những chiếc đồng hồ treo tường hiện đại kiểu dáng rất đẹp, một trăm thứ khác nữa, và năm mươi hay sáu mươi chiếc đồng hồ đeo tay cổ xưa.
Họ bước về phía cuối, nơi một người đàn ông thấp, chắc nịch, bắt đầu hói, khoảng sáu mươi tuổi, thận trọng quan sát họ từ đằng sau quầy hàng. Ông ta ngồi trước một bộ máy đồng hồ đang được tháo tung ra để sửa chữa gì đó.
“Xin chào”, Sellitto nói.
Người đàn ông gật đầu. “Xin chào.”
“Tôi là thám tử Sellitto ở Sở Cảnh sát và đây là sĩ quan mật vụ Dance”, Sellitto chìa thẻ. “Ông là Victor Hallerstein?”
“Đúng ạ.” Ông ta tháo cặp kính gắn thêm kính lúp ở một bên gọng và liếc nhìn thẻ của Sellitto. Ông ta cười, bằng miệng, chứ không phải bằng mắt, và ông ta bắt tay hai người.
“Ông là chủ cửa hiệu?”, Dance hỏi.
“Chủ cửa hiệu, phải. Đầu bếp chính và máy rửa chai lọ. Tôi mở cửa hiệu đã mười năm. Luôn luôn ở đúng chỗ này. Gần mười một năm.”
Những thông tin không cần thiết. Thông thường là dấu hiệu của dối trá. Nhưng cũng có thể đơn giản chúng được đưa ra vì ông ta lo lắng với sự hiện diện bất ngờ của hai cảnh sát. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất khi giám định ngôn ngữ hình thể là một điệu bộ hay hành vi đơn lẻ chứa đựng rất ít ý nghĩa. Người ta chẳng thể nào đánh giá chính xác một phản ứng đơn lẻ mà phải xem xét cả “cụm” – ví dụ, hành động khoanh ta trước ngực của đối phương phải được xem xét với việc giao tiếp bằng mắt, cử động của bàn tay, sắc giọng, những gì đối tượng nói, cũng như sự lựa chọn lời lẽ.
Và muốn chứa đựng nhiều ý nghĩa, hành vi đó phải nhất quán nếu cùng các tác nhân kích thích được lặp lại.
Kathryn Dance vốn vẫn giảng rằng giám định ngôn ngữ hình thể không phải là cú đánh giành quyền chạy một mạch xung quanh các điểm trên sân để ghi điểm, mà nó là trận đấu hay từ đầu chí cuối.
“Tôi có thể giúp đỡ quý vị bằng cách nào? Cảnh sát hả? Thêm vụ cướp nữa trong khu vực chăng?”
Sellitto liếc nhìn Dance, cô không trả lời nhưng bật cười thành tiếng và đưa mắt nhìn xung quanh. “Trong đời tôi chưa bao giờ trông thấy nhiều đồng hồ ở một chỗ như thế này.”
“Tôi buôn bán đồng hồ lâu rồi.”
“Tất cả đồng hồ ở đây đều để bán à?”
“Trả giá cao thì tôi chẳng thể từ chối.” Một tiếng cười. Đoạn tiếp tục: “Nói nghiêm túc thì có những chiếc tôi không bán. Nhưng hầu hết để bán, tất nhiên. Này, đây là cửa hiệu mà, đúng chứ?”.
“Chiếc kia thật đẹp.”
Hallerstein liếc nhìn chiếc đồng hồ Dance đang chỉ. Một chiếc đồng hồ mang phong cách Tân Nghệ thuật bằng vàng, với cái mặt đơn giản. “Của hãng Seth Thomas, sản xuất năm 1906. Sành điệu, đáng tin cậy.”
“Chắc đắt.”
“Ba trăm. Nó mạ vàng thôi, sản xuất hàng loạt… Nào, cô muốn thứ đắt à?” Hallerstein chỉ một chiếc đồng hồ gốm, màu hồng, xanh lơ và tía, có vẽ những bông hoa. Dance thấy nó lòe loẹt đến khó chịu. “Giá gấp năm lần.”
“Chà.”
“Tôi hiểu phản ứng đó. Nhưng trong thế giới đồng hồ, có cái đối với người này là xấu xí đối với người khác lại là nghệ thuật.” Ông ta mỉm cười. Sự thận trọng và lo lắng chưa mất nhưng Hallerstein đã bớt phòng vệ chút ít.
Dance cau mày. “Buổi trưa ông làm gì? Đeo cái nút bịt lỗ tai à?”
Một tiếng cười. “Đối với hầu hết các loại đồng hồ, cô có thể tắt chuông. Chỉ những chiếc cúc cu mới khiến tôi phát điên. Ấy là nói vậy.”
Dance đặt thêm một số câu hỏi về công việc kinh doanh của Hallerstein, tập hợp các điệu bộ, ánh mắt, sắc giọng, lời lẽ – xác lập xuất phát điểm cho hành vi của ông ta.
Cuối cùng, giữ giọng bình thường, cô hỏi: “Thưa ông, chúng tôi muốn biết, gần đây có ai mua hai chiếc đồng hồ giống như chiếc này không?”. Cô cho ông ta xem bức ảnh chụp một trong hai chiếc đồng hồ của hãng Arnold được để lại tại hiện trường vụ án. Cặp mắt cô quét trên ông ta khi ông ta nhìn chăm chăm bức ảnh, gương mặt ông ta chẳng biểu lộ gì rõ rệt cả. Cô đi đến kết luận là ông ta xem xét quá lâu, dấu hiệu của việc đầu óc ông ta đang tập trung cân nhắc.
“Tôi không nhớ lại được. Tôi bán rất nhiều đồng hồ, xin hãy tin tôi.”
Trí nhớ không hoàn hảo – dấu hiệu của trạng thái phủ nhận ở một người đang gian dối, giống hệt Ari Cobb lúc trước. Cặp mắt Hallerstein lại thận trọng quét trên bức ảnh, như thể đang cố gắng để giúp đỡ gì đó, vai ông ta hơi nhô về phía trước, đầu cúi xuống và giọng cao lên. “Không, tôi thực sự không nghĩ có ai đã mua. Xin lỗi, tôi không giúp được gì.”
Dance cảm thấy ông ta nói dối, không những từ ngôn ngữ hình thể mà còn từ phản ứng nơi ông ta (đó là nét mặt chẳng biểu lộ gì rõ rệt, nó đi chệch khỏi xuất phát điểm ban đầu), rất nhiều khả năng ông ta biết chiếc đồng hồ trong bức ảnh. Nhưng ông ta nói dối vì không muốn bị dính líu vào vụ việc, hoặc vì ông ta đã bán đồng hồ cho kẻ nào đấy mà ông ta nghĩ có thể là tội phạm, hoặc vì bản thân ông ta liên quan đến những vụ giết người kia?
Hai bàn tay đan vào nhau trước mặt cô, hay cái xắc đặt trên quầy hàng?
Khi xác định loại tính cách, Dance xếp nhân chứng bất đắc dĩ lúc trước, Cobb, vào loại hướng ngoại, còn Hallerstein thì ngược lại, một người hướng nội, đưa ra quyết định dựa trên trực giác và tình cảm. Cô đi đến kết luận này bởi sự đam mê rõ ràng của ông ta đối với đồng hồ và thực tế ông ta chỉ là một người kinh doanh thành công vừa phải (ông ta thích bán những thứ ông ta say mê hơn là tiến hành một chiến dịch tiếp thị rộng rãi để thu thêm lời).
Để một người thuộc loại hướng nội nói sự thật, Dance phải thiết lập được mối liên kết với anh ta, làm anh ta cảm thấy thoải mái. Cung cách tấn công như đối với Cobb sẽ khiến Hallerstein ngay lập tức khép mình lại.
Dance thở dài, đôi vai rũ xuống. “Ông là hy vọng cuối cùng của chúng tôi.” Cô thở dài, liếc nhìn Sellitto, trời phù hộ cho ông ta, ông ta thể hiện rất tốt bộ dạng của một cảnh sát thất vọng, lắc đầu và mặt nhăn nhó.
“Hy vọng ấy à?”, Hallerstein hỏi.
“Kẻ mua những chiếc đồng hồ này đã phạm tội rất nghiêm trọng. Chúng là manh mối chính xác duy nhất mà chúng tôi có.”
Vẻ băn khoăn xuất hiện trên gương mặt Hallerstein xem chừng thành thật, nhưng Kathryn Dance từng gặp nhiều diễn viên tài ba. Cô cất bức ảnh vào trong xắc. “Những chiếc đồng hồ này được tìm thấy bên cạnh xác những người bị hắn giết.”
Cặp mắt bất động trong giây lát.
“Án mạng à?”
“Phải. Hai người bị sát hại đêm qua. Những chiếc đồng hồ có lẽ đã được để lại như một dạng thông điệp nào đó. Chúng tôi không biết chắc chắn.” Dance cau mày. “Toàn bộ sự việc khá khó hiểu. Nếu tôi giết ai đó và để lại một thông điệp tôi sẽ chảng giấu nó ở một chỗ cách nạn nhân gần mười mét. Tôi sẽ để sát nạn nhân và để ngay ra bên ngoài. Bởi vậy mà chúng tôi hoàn toàn không hiểu.”
Dance thận trọng quan sát phản ứng của ông chủ cửa hiệu. Với thông tin sai lạc cô đưa ra một cách cố ý, Hallerstein có phản ứng giống như bất cứ ai chưa biết về sự việc, lắc lắc đầu trước thảm kịch tuy nhiên không hề bộc lộ phản ứng nào khác. Nếu ông ta là thủ phạm, nhiều khả năng ông ta sẽ phản ứng – thông thường biểu hiện tập trung ở mắt và mũi – rằng những điều cô nói không trùng với thực tế mà ông ta biết. Ông ta sẽ nghĩ: Nhưng thủ phạm đã để chiếc đồng hồ bên cạnh xác chết, sao lại có người di chuyển nó đi nhỉ? Và ý nghĩ đó sẽ đi kèm những ngôn ngữ hình thể rất đặc trưng.
Một kẻ lừa gạt tài tình có thể giảm đến mức tối thiểu loại phản ứng ấy, bởi vậy hầu hết mọi người không chú ý tới nó, nhưng radar của Dance đang hoạt động rất mạnh, và cô tin tưởng rằng ông chủ cửa hiệu đã vượt qua bài kiểm tra. Cô tin tưởng rằng ông ta không có mặt tại hai hiện trường vụ án, cũng như không biết Thợ Đồng Hồ.
Cô đặt cái xắc lên quầy hàng.
Lon Sellitto rời bàn tay nãy giờ vẫn giữ bên hông.
Nhưng công việc của Dance chỉ vừa mới bắt đầu. Họ đã xác minh được ông chủ cửa hiệu không phải là thủ phạm và không biết thủ phạm, nhưng ông ta dứt khoát có thông tin.
“Ông Hallerstein, những người bị giết đã chết rất khổ sở.”
“Hẵng khoan, báo chí đưa tin về họ, đúng không? Một người đàn ông bị đè vỡ họng? Rồi một người nào đấy bị ném xuống sông.”
“Đúng đấy.”
“Và chiếc đồng hồ… ấy ở đó à?”
Suýt nữa chiếc đồng hồ “của tôi”. Nhưng không hoàn toàn vậy.
Hãy để con cá lôi ngược dây câu một cách thận trọng, Dance tự bảo mình.
Cô gật đầu. “Chúng tôi nghĩ hắn sẽ tiếp tục hại ai đó. Và như tôi nói lúc trước, ông là hy vọng cuối cùng của chúng tôi. Nếu chúng tôi phải tìm kiếm những cửa hiệu khác có thể đã bán đồng hồ cho kẻ sát nhân, không chừng sẽ mất hàng tuần.”
Gương mặt Hallerstein thoáng u ám.
Vẻ u ám dễ dàng được nhận ra trên gương mặt một người, nhưng nó có thể xuất hiện trong phản ứng bởi nhiều thứ tình cảm – cảm thông, đau đớn, thất vọng, phiền muộn, hổ thẹn – và nếu đối tượng không tự nguyện bộc lộ thì chỉ có kỹ năng giám định ngôn ngữ hình thể mới nhận ra được đâu là thứ tình cảm nằm đằng sau vẻ u ám kia. Lúc bấy giờ, Kathryn Dance xem xét cặp mắt người đàn ông, những ngón tay ông ta vuốt ve chiếc đồng hồ đặt trước mặt, cái lưỡi liếm liếm khóe miệng. Cô đột ngột hiểu ra rằng: Hallerstein đang thể hiện phản ứng chiến-đấu-hay-chuồn.
Ông ta lo sợ – cho sự an toàn của chính bản thân ông ta.
Hiểu rồi.
“Ông Hallerstein, nếu ông có thể nhớ lại bất cứ điều gì giúp đỡ được chúng tôi, chúng tôi xin đảm bảo rằng ông sẽ an toàn.”
Một cái liếc nhìn sang Sellitto, ông ta gật đầu. “Ông yên tâm. Chúng tôi sẽ cắt cử một cảnh sát canh chừng bên ngoài cửa hiệu nếu thấy cần thiết.”
Người đàn ông đang trong tâm trạng lo lắng xem xét vu vơ chiếc tua vít bé tí.
Dance lại lấy bức ảnh ra. “Ông có thể nhìn kỹ lại được không? Thử xem ông có thể nhớ điều gì.”
Nhưng ông ta chẳng cần nhìn. Tư thế của ông ta hơi rũ xuống, ngực thụt vào, đầu nhô ra. Hallerstein nhanh chóng chuyển qua trạng thái thú nhận. “Tôi xin lỗi. Lúc nãy tôi nói dối.”
Một câu người ta hãn hữu mới nghe thấy. Dance đã cho ông ta cơ hội để biện bạch rằng lúc nãy ông ta xem bức ảnh vội quá hay ông ta bị bối rối. Nhưng ông ta chẳng buồn quan tâm. Nó là thời điểm thú nhận, đơn giản và chỉ là vậy thôi.
“Tôi đã nhận ra chiếc đồng hồ này ngay. Tuy nhiên, vấn đề là hắn đe dọa rằng nếu tôi nói với ai, hắn sẽ quay lại, sẽ hại tôi, sẽ phá hết đồng hồ của tôi, tất tật bộ sưu tập của tôi! Nhưng tôi không biết gì về chuyện giết người. Tôi xin thề đấy! Tôi cứ nghĩ hắn là kẻ kỳ quặc.” Quai hàm run run và ông ta lại đặt bàn tay lên vỏ chiếc đồng hồ ông ta đang xem xét. Hành động mà theo Dance hiểu, nó thể hiện ông ta đang cố gắng hết sức để tìm kiếm cảm giác yên lòng.
Cô còn cảm thấy có cái gì đó nữa. Chuyên gia giám định ngôn ngữ hình thể phải có khả năng đánh giá xem xét các phản ứng của đối tượng phù hợp với những câu hỏi họ đặt ra hay với những sự thật họ được cung cấp. Hallerstein lo lắng trước những vụ án mạng, đúng, và sợ hãi cho bản thân mình cùng các của cải quý báu, nhưng phản ứng nơi ông ta vượt quá những thông tin nãy giờ họ trao đổi.
Dance đang định thăm dò điều này thì ông chủ cửa hiệu giải thích chính xác tại sao ông ta bối rối đến vậy.
“Hắn để những chiếc đồng hồ này ở chỗ hắn giết chết người ta à?”, Hallerstein hỏi.
Sellitto gật đầu.
“Ờ, tôi phải nói với quý vị.” Giọng ông ta như bị bóp nghẹt lại và ông ta tiếp tục bằng tiếng thì thào. “Hắn không chỉ mua có hai cái thôi đâu. Hắn mua mười cái.”