PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 14

     ại nhà Rhyme, Sachs giao các chứng cứ cho Mel Cooper.
Trước khi xỏ đôi găng cao su, cô bước tới chỗ một cái hộp nhỏ, lấy ra mấy chiếc bích quy của chó và đút cho Jackson. Chú ta chén vội vàng.
“Anh có bao giờ nghĩ sẽ kiếm một chú chó giúp việc không?”, Kathryn Dance hỏi Rhyme.
“Nó là một con chó giúp việc đấy.”
“Jackson ấy à?”, Sachs cau mày.
“Đúng. Nó giúp đỡ tôi rất nhiều. Nó khiến mọi người mất tập trung và tôi không phải mua vui cho họ.”
Hai người phụ nữ bật cười.
“Tôi muốn nói một chú chó giúp việc thực sự.”
Một trong những bác sĩ trị liệu của Rhyme đã có gợi ý về một chú chó. Nhiều người mắc chứng liệt và chứng liệt tứ chi nuôi các con vật giúp việc. Chẳng bao lâu sau tai nạn, khi vị luật sư lần đầu tiên nêu ý tưởng này, anh đã phản đối kịch liệt. Anh không thể giải thích chính xác tại sao, nhưng cho rằng vấn đề là ở chỗ anh không thích phải phụ thuộc vào cái gì, hay ai khác. Bây giờ, ý tưởng này xem chừng chẳng quá tệ.
Rhyme cau mày. “Chị có thể huấn luyện chúng rót rượu whisky không?” Nhà hình sự học chuyển ánh nhìn từ chú chó sang Sachs. “Ồ, khi em đang ở hiện trường có người gọi điện cho em đấy. Một người tên là Jordan Kessler.”
“Ai cơ?”
“Ông ta nói em biết ông ta mà.”
“Ồ, khoan não, chắc chắn rồi, đối tác của Creeley.”
“Ông ta muốn trao đổi với em. Anh bảo em đang không ở đây nên ông ta để lại lời nhắn. Ông ta nói ông ta đã trao đổi với tất cả nhân viên công ty và thời gian về sau này đích thị là Creeley có biểu hiện chán nản. Kessler vẫn chưa tập hợp xong danh sách khách hàng. Nhưng sẽ mất khoảng một hai ngày.”
“Một vài ngày à?”
“Đó là ông ta nói thế.”
Ánh mắt Rhyme hướng vào các chứng cứ Sachs đang sắp xếp lên một chiếc bàn khám nghiệm cạnh Cooper. Tâm trí anh rời khỏi vụ quán Thánh James – mà anh gọi là “Vụ Kia”. Đối lập với “Vụ Của Anh”, vụ Thợ Đồng Hồ. “Chúng ta hãy đến xem xét các chứng cứ nào”, anh thông báo.
Sachs xỏ đôi găng cao su và bắt đầu mở các túi, hộp.
Chiếc đồng hồ cũng giống như hai chiếc trước, đang kêu tích tắc và chỉ đúng giờ. Cái mặt hình trăng hơi qua kỳ tròn đầy một chút.
Cooper cùng Sachs tháo chiếc đồng hồ ra nhưng không tìm thấy dấu vết nào có ý nghĩa cả.
Không dấu chân, không dấu vân tay, không vũ khí hay bất cứ thứ gì khác được để lại trong xưởng hoa. Rhyme băn khoăn không biết, liệu sát thủ có sử dụng dụng cụ đặc biệt nào để cắt dây kẽm của cô thợ cắm hoa, hay sử dụng kỹ thuật nào, mà từ đó có thể hé lộ nghề nghiệp hay chuyên môn, trong quá khứ hoặc hiện tại. Nhưng, không, hắn đã sử dụng chính cái kéo của Joanne. Tuy nhiên, cũng giống như các đoạn băng dính nhựa, các đoạn dây kẽm được cắt với độ dài y hệt nhau. Mỗi đoạn chính xác một trăm tám mươi ba centimét. Rhyme tự hỏi hắn dự định sẽ trói cô gái bằng các đoạn dây kẽm, hay đó sẽ là vũ khí giết người.
Joanne Harper đã khóa cửa khi cô rời khỏi xưởng đi uống cà phê với bạn. Rõ ràng sát thủ đã tự mở khóa để vào. Điều này chẳng làm Rhyme ngạc nhiên, một kẻ biết về các bộ phận của đồng hồ có thể dễ dàng học được kỹ năng mở khóa.
Xem xét các hồ sơ của Cơ quan Quản lý Xe gắn máy thì thấy có bốn trăm hai mươi ba chủ sở hữu xe Explorer màu nâu vàng. Tham khảo danh sách lệnh bắt giữ thì thấy chỉ còn có hai trường hợp: một ông già ở tuổi sáu mươi, mắc tội không tuân thủ luật pháp, nhận hàng chục vé phạt vì đỗ xe sai quy định, và một gã trẻ hơn, mắc tội bán cocaine. Rhyme phân vân không biết liệu đây có phải là trợ thủ của Thợ Đồng Hồ không, rốt cuộc hóa ra gã vẫn đang trong tù. Thợ Đồng Hồ rất có khả năng nằm trong số những cái tên còn lại, tuy nhiên chẳng cách nào mà nói chuyện được với cái tên còn lại, tuy nhiên chẳng cách nào mà nói chuyện được với tất cả những người này, mặc dù Sellitto sẽ cử ai đó đi kiểm tra những người có địa chỉ ở khu Hạ Manhattan. Cũng đã có vài trường hợp bị kiểm tra theo lệnh Phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp, nhưng không lái xe nào giống như mô tả nhân dạng Thợ Đồng Hồ và kẻ đồng lõa của gã.
Sachs lấy các mẫu dấu vết từ chính xưởng hoa và thấy rằng, đúng, đất và protein cá, dưới dạng phân bón, đích thực từ chỗ Joanne. Có một ít bên trong xưởng, nhưng Sachs cũng tìm thấy số lượng đáng kể ở bên ngoài, trong và xung quanh những vỏ bao phân bón bỏ đi.
Rhyme lắc đầu.
“Có vấn đề gì thế?”, Sellitto hỏi.
“Không phải về bản thân chỗ protein cá. Mà về cái thực tế là nó được tìm thấy trên nạn nhân thứ hai, Adams.”
“Vì?”
“Điều ấy nghĩa là trước đấy đối tượng đã đến kiểm tra xưởng hoa, có lẽ là kiểm tra nạn nhân và xem có chuông báo động hay camera an ninh không. Hắn đang bí mật theo dõi những địa điểm hắn lựa chọn. Điều ấy có nghĩa hắn có một lý do để nhằm vào những nạn nhân này. Nhưng đó là lý do quái quỷ gì?”
Người đàn ông bị đè họng cho đến chết trong con hẻm kia có vẻ chẳng liên quan tới bất cứ hoạt động tội phạm nào và không kẻ thù. Cũng y như thế đối với Joanna Harper. Và cô chưa bao giờ nghe nói về Adams – không một mối liên hệ giữa họ. Nhưng cả hai đều bị Thợ Đồng Hồ nhắm vào. Tại sao? Rhyme băn khoăn tự hỏi. Một nạn nhân chưa được xác định danh tính ở cầu tàu, một doanh nhân trẻ tuổi, một cô thợ cắm hoa… và sẽ có bảy nạn nhân nữa. Ở họ có cái gì khiến hắn ra tay sát hại thế? Mối liên hệ giữa họ là gì?
“Anh tìm thấy gì nữa?”
“Những mảnh màu đen”, Cooper vừa trả lời vừa giơ một phong bì nhựa lên. Bên trong là những cái chấm trông giống những giọt mực màu đen đã khô.
Sachs nói: “Chúng xuất hiện ở chỗ hắn lấy cuộn dây kẽm và ở chỗ có thể hắn đã nấp. Tôi cũng tìm thấy một ít ở phía ngoài cửa trước, chỗ hắn giẫm lên khi chạy ra chiếc Explorer”.
“Nào, cho xử lý qua máy tách hợp chất đi.”
Cooper khởi động máy và nạp vào một mẫu mảnh đen. Sau mấy phút, kết quả hiện lên trên màn hình.
“Sao, chúng ta có gì hả Mel?”
Người kỹ thuật viên đẩy cặp kính lên trên mũi. Anh ta ngả người về phía trước. “Hữu cơ… Trông có vẻ khoảng bảy mươi ba phần trăm paraffin, tiếp theo là hydrocarbon vòng thơm và thiaarene.”
“À, hắc ín để quét mái nhà,” Rhyme nheo mắt.
Kathryn Dance bật cười. “Anh biết à?”
Sellitto nói: “Ồ, Lincoln từng lang thang khắp thành phố thu thập mọi thứ anh ấy tìm thấy để tập hợp thành cơ sở dữ liệu chứng cứ… Hồi trước đi ăn tối với anh hẳn buồn cười lắm, Linc nhỉ. Anh mang theo ống nghiệm và những cái túi?”.
“Vợ cũ của tôi có thể kể cho anh nghe tất cả đấy”, Rhyme lẩm bẩm một cách thích thú. Sự chú ý của anh là ở những giọt hắc ín màu đen. “Tôi đánh cuộc rằng hắn vừa đi kiểm tra một nạn nhân khác tại một nơi đang được quét lại nhựa mái.”
“Hoặc có thể người ta đang quét lại nhựa mái chỗ hắn”, Cooper nêu ý kiến.
“Tôi không biết liệu hắn có dám thưởng thức cocktail và những buổi hoàng hôn trên sân thượng nhà mình trong thời tiết này hay không”, Rhyme đáp. “Chúng ta hãy cứ cho rằng đó là mái nhà người khác đi. Tôi muốn biết hiện có bao nhiêu tòa nhà đang được quét lại nhựa mái.”
“Con số có thể lên đến hang trăm, hàng nghìn”, Sellitto nói.
“Chắc chẳng đến thế trong thời tiết này.”
“Và dù sao thì chúng ta cũng bằng cách quái nào mà tìm ra được?”, viên thám tử quần áo nhàu nhĩ hỏi.
“Nhờ ASTER.”
“Đó là gì?”, Dance hỏi.
Rhyme đọc thuộc lòng một cách lơ đãng. “Kỹ thuật tiên tiến đo bức xạ và nhiệt từ vũ trụ. Nó là một thiết bị đo và tập hợp dữ liệu trên vệ tinh Terra, dự án chung giữa NASA và chính phủ Nhật Bản. Nó bắt các hình ảnh nhiệt từ vũ trụ. Quỹ đạo của nó… thế nào nhỉ, Mel?”
“Chừng chín mươi tám phút. Nhưng phải mất mười sáu ngày để nó bao quát khắp bề mặt Trái Đất.”
“Hãy tìm hiểu xem nó đã đi qua New York lần gần đây nhất là khi nào. Tôi muốn hình ảnh các khu vực tỏa nhiệt và xem liệu họ có thể xác định những sức nóng trên hai trăm độ hay không, tôi hình dung ra rằng hắc ín khi quét lên mái nhà thì phải nóng ít nhất cỡ ấy. Sẽ thu hẹp được phạm vi hắn lui tới.”
“Toàn bộ thành phố à?”, Cooper hỏi.
“Xem ra là hắn đang lùng sục ở Manhattan. Chúng ta hãy;. Cô ly dị đã lâu và chẳng nhận được tin tức gì từ chồng cũ. Cô không nghĩ ra là có ai thù oán mình.
Joanne cũng nói với Dance rằng trước đấy, cùng ngày, cô nhìn thấy một người quan sát cô qua cửa sổ, một người đàn ông da trắng to béo mặc áo khoác liền mũ trùm màu kem, đeo kính râm kiểu cổ và đội mũ chơi bóng chày. Vì cửa sổ bẩn nên cô không nhìn thấy những chi tiết khác. Dance băn khoăn không biết liệu Joanne có mối quan hệ nào với Adams, nạn nhân đầu tiên. Nhưng Joanne chưa bao giờ nghe nói tới anh ta cả.
Sachs nói: “Cô ấy thế nào?”.
“Bị chấn động. Nhưng cũng đang quay lại với công việc. Tuy nhiên không ở xưởng hoa. Ở cửa hiệu của cô ấy trên đường Broadway.”
Sellitto nói: “Cho tới khi chúng ta tóm được gã đàn ông này hoặc biết được động cơ phạm tội, tôi sẽ yêu cầu một xe gác bên ngoài cửa hiệu”. Ông ta lôi bộ đàm ra và thu xếp việc đó.
Nancy Simpson và Frank Rettig, hai sĩ quan khám nghiệm hiện trường, bước đến chỗ Sachs. Đi giữa họ là một thiếu niên đội mũ sợi ôm sát đầu và mặc chiếc áo khoác ngắn rộng lùng thùng. Cậu ta gầy giơ xương và trông có vẻ bị lạnh cóng. “Cậu này muốn giúp đỡ chúng ta”, Simpson nói. “Cậu ta đến gặp chúng tôi ở ngoài xe.”
Liếc nhìn Sachs, thấy cô gật đầu, Dance quay sang cậu ta và hỏi cậu ta đã trông thấy gì. Tuy nhiên, chẳng cần tới chuyên gia về ngôn ngữ hình thể. Cậu bé sung sướng được chứng tỏ mình là một công dân tốt. Cậu ta trình bày rằng cậu ta đang đi bộ xuôi theo con phố thì trông thấy có người nhảy ra khỏi xưởng hoa. Gã này tầm trung niên, mặc áo khoác ngắn màu tối. Nhìn bức ảnh chắp ghép mà Sellitto và Dance dựng tại cửa hiệu đồng hồ, cậu ta bảo: “Vâng, có lẽ là hắn”.
Hắn chạy đến chỗ một chiếc SUV màu nâu vàng do một gã da trắng mặt tròn và đeo kính râm lái. Nhưng cậu bé không trông thấy chi tiết cụ thể nào về gã lái xe.
“Bọn chúng có hai đứa à?” Baker thở dài. “Hắn có một kẻ đồng lõa.”
Có thể đó là kẻ Joanne đã trông thấy ở xưởng hoa.
“Một chiếc Explorer?”
“Em không phân biệt được các loại xe SUV, không biết xe Explorer hay… xe gì.”
Sellitto hỏi về biển số xe. Nhân chứng không trông thấy.
“Chà, ít nhất chúng ta cũng biết màu xe.” Sellitto công bố lệnh Phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp. Một lệnh Phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp sẽ thông báo cho tất cả các xe tuần tra có trang bị bộ đàm cũng như hầu hết các nhân viên thực thi pháp luật và cảnh sát giao thông trong khu vực tìm kiếm một chiếc Explorer màu nâu vàng chở hai người đàn ông.
“Được rồi, chúng ta hãy tiếp tục công việc”, Sellitto gọi.
Simpson và Rettig giúp đỡ Sachs lắp các thiết bị để xử lý hiện trường. Có mấy hiện trường là xưởng hoa, con hẻm, khu vực vui vẻ nơi gã đàn ông đã trốn thoát, cũng như nơi chiếc Explorer đỗ lúc trước.
Kathryn Dance và Sellitto trở về chỗ Rhyme, còn Baker tiếp tục đi tìm kiếm nhân chứng, chìa bức ảnh Thợ Đồng Hồ cho những người qua lại và những người làm việc ở các kho hàng, các cơ sở kinh doanh dọc phố Spring.
Sachs thu thập các chứng cứ mà cô có thể thu thập. Vì chiếc đồng hồ thứ nhất không phải thiết bị phát nổ, đội tháo bom không cần thiết phải tham gia. Một thực nghiệm đơn giản kiểm tra muốn nitrate[45] là đủ đảm bảo. Cô đóng gói nó, cùng với các chứng cứ khác, rồi cởi bỏ bộ đồ Tyvek và mặc chiếc áo khoác da. Cô vội vã bước ra phố, buông người và ghế trước chiếc Camaro, khởi động xe và bật máy sưởi hết công suất.
Sachs với cái xắc ở ghế sau để lấy đôi găng tay. Nhưng khi cô vừa cầm các xắc da lên thì các thứ bên trong rơi ra.
Sachs cau mày. Cô vốn rất cẩn thận, bao giờ cũng cài chặt cái xắc. Cô không thể làm mất các thứ đựng bên trong, hai băng đạn dự trữ cho khẩu Glock, cũng như một hộp hơi cay. Cô nhớ rõ rằng cô đã vặn khóa xắc lúc đến đây.
Sachs nhìn cửa sổ phía ghế hành khách. Những vết găng tay để lại trên kính đúng là do ai đó sử dụng một chiếc Slimjim[46] để mở khóa cửa. Và một ít sợi cách nhiệt xung quanh cửa sổ bị đẩy sang bên.
Bị đột nhập trong khi đang khám nghiệm hiện trường một vụ án. Đây là lần đầu tiên.
Sachs kiểm tra lần lượt từng món đồ. Không mất mát gì cả. Toàn bộ tiền và thẻ thanh toán vẫn còn – mặc dù cô sẽ phải gọi cho các hãng thẻ tín dụng phòng trường hợp tên kẻ cắp đã ghi lại được số thẻ. Đạn và hộp xịt hơi cay nguyên vẹn. Tay lần đến khẩu Glock, cô nhìn xung quanh. Có một nhúm người túm tụm gần đầy, hiếu kỳ xem cảnh sát làm việc. Cô trèo ra khỏi xe và đi đến chỗ họ, hỏi xem có ai trông thấy vụ đột nhập không. Không ai trông thấy gì.
Quay lại chiếc Chevy, Sachs lấy từ trong cốp hộp máy khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm chiếc xe giống hệt như đối với bất cứ hiện trường nào khác – kiểm tra dấu vân tay, dấu chân, các dấu vết bên trong và bên ngoài. Cô không tìm thấy gì cả. Cô cất hộp máy và lại buông người xuống ghế trước.
Rồi Sachs nhìn thấy, cách đấy nửa khối phố, một chiếc xe lớn màu đen khuất dần vào một con hẻm. Cô nghĩ đến chiếc Mercedes cô đã nhìn thấy lúc đón Pulaski. Tuy nhiên, cô không kịp nhìn thấy nhãn hiệu xe và chiếc xe biến mất giữa dòng xe cộ trước khi cô có thể quay xe lại đuổi theo nó.
Trùng hợp hay không? Sachs băn khoăn tự hỏi.
Bộ động cơ to tướng của chiếc Chevy bắt đầu đẩy hơi nóng vào xe và Sachs thắt dây an toàn. Cô cài số một. Thả lỏng người về phía trước, cô tự nhủ: Chà, cũng chưa có tổn hại gì.
Sachs chạy xe được nửa khối phố, đang sang gấp số a thì ý nghĩ này ập tới: Kẻ ấy đã tìm kiếm gì? Cái thực tế là tiền và thẻ tín dụng của cô vẫn còn cho thấy đối tượng tìm kiếm thứ gì đó khác.
Amelia Sachs biết rằng những kẻ mà người ta không thể xác định được động cơ hành động luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất.

Ghi chú

[45] Muối nitrate: Một số muối nitrate được sử dụng trong sản xuất chất nổ.
[46] Slimjim: Là nhãn hiệu do hãng HPC Inc., một hãng sản xuất và cung cấp dụng cụ chuyên dụng cho thợ khóa, đưa ra thị trường. Slimjim được sử dụng để mở khóa cửa ô tô mà không cần chìa.