PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 16

     ỗi đói khát của Vincent đang quay lại, dày đặc và nặng nề như thủy triều, và gã không thể nào không nhìn chằm chằm vào những phụ nữ đi trên phố.
Những cảnh hãm hiếp diễn ra trong tâm trí càng làm gã đói khát hơn.
Đây là một cô gái với mái tóc vàng cắt ngắn, cầm chiếc túi mua hang. Vincent có thể tưởng tượng hai bàn tay gã ôm lấy đầu cô ta trong khi cô ta nằm bên dưới gã.
Và đây là một phụ nữ tóc nâu, tóc dài như tóc Sally Anne, buông xuống phía dưới chiếc mũ ôm sát đầu. Gã gần như có thể cảm thấy những thớ thịt của cô ta run run khi bị bàn tay gã ấn vào eo lưng.
Đây, một cô gái tóc vàng nữa, mặc một bộ vét, xách chiếc cặp đựng tài liệu. Gã tự hỏi liệu cô ta sẽ thét lên hay sẽ khóc. Gã cuộc là cô ta sẽ thét lên.
Gerald Duncan lúc bấy giờ đang lái chiếc Band-Aid-di động, rẽ vào một con hẻm và rồi lại đi ra phố chính, ngược lên hướng bắc.
“Chẳng truyền gì nữa.” Sát thủ hất đầu chỉ thiết bị dò sóng bộ đàm của cảnh sát, từ đó chỉ còn lách tách những cuộc gọi thường lệ và chủ yếu là về tình hình giao thong. “Chúng nó đã thay đổi tần số.”
“Tôi có nên thử tìm một chiếc mới không?”
“Bọn họ sẽ lại thay đổi tần số. Tao ngạc nhiên vì bọn nó không làm thế ngay từ đầu.”
Vincent trông thấy một phụ nữ tóc nâu nữa – ôi, cô ta thật dễ thương – đang bước ra khỏi một quán Starbucks. Cô ta đi giày cao cổ. Mà Vincent vốn vẫn thích giày cao cổ.
Gã có thể chờ đợi bao lâu đây? Gã tự hỏi.
Không lâu lắm. Có thể đến tối nay, có thể ngày mai. Kể từ khi gặp Duncan, kẻ giết người này bảo rằng gã phải từ bỏ những cuộc “tâm tình” chừng nào bọn gã chưa bắt đầu thực hiện “dự án”. Vincent đã bằng lòng – tại sao không? Thợ Đồng Hồ bảo rằng sẽ có năm phụ nữ trong số các nạn nhân của gã. Hai người già hơn, trung niên rồi, tuy nhiên Vincent cũng có thể xài họ nếu gã thích (việc ấy thật chẳng thú vị gì nhưng một kẻ nào đấy vẫn phải làm, Vincent Láu châm biếm tự nhủ).
Thế là gã đã nhịn.
Duncan lắc đầu.
“Tao đang cố gắng tìm hiểu xem làm sao bọn nó lại biết đấy là chúng ta.”
Chúng ta? Gã này đôi lúc nói năng đến kỳ lạ.
“Mày có ý kiến gì không?”
“Không”, Vincent đáp.
Duncan vẫn chẳng tức tối, điều đó khiến Vincent ngạc nhiên. Cha dượng của Vincent sẽ thét hoặc quát tháo mỗi khi phát điên lên, giống như sau sự kiện Sally Anne. Bản thân Vincent cũng nổi cơn giận dữ nếu những người phụ nữ gã đang chiếm đoạt chống trả và đánh lại gã. Nhưng Duncan thì không. Gã nói giận dữ đâu phải biện pháp tốt. Luôn luôn có một kế hoạch lớn, và các trở lực nhỏ không ý nghĩa gì, không đáng để lãng phí năng lượng. “Nó giống như thời gian. Thế kỷ và thiên niên kỷ mới là quan trọng. Với con người, cũng vậy. Đời sống của một cá thể không ý nghĩa gì. Các thế hệ mới đáng kể.”
Vincent cho rằng gã nhất trí thế, mặc dù đối với gã, mỗi cuộc “tâm tình” đều quan trọng, gã chẳng muốn bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào. Và bởi vậy gã hỏi: “Chúng ta có thử lại không? Với con bé Joanne ấy?”.
“Không phải bây giờ”, kẻ sát nhân đáp. “Bọn nó có thể cử người canh gác cho con bé. Và thậm chí nếu chúng ta tiếp cận được con bé, bọn nó sẽ nhận ra rằng tao muốn con bé chết vì một lý do nào đó. Quan trọng là phải để bọn nó nghĩ đây là những nạn nhân hoàn toàn ngẫu nhiên. Việc chúng ta sẽ làm bây giờ là…”
Duncan ngừng lời. Gã đang nhìn gương chiếu hậu.
“Gì vậy?”
“Cảnh sát. Một chiếc xe cảnh sát đi ra từ một con phố phụ. Nó đã chuẩn bị rẽ hướng khác nhưng rồi lại rẽ về phía chúng ta.”
Vincent ngoái nhìn đằng sau. Gã có thể nhìn thấy chiếc xe màu trắng với dải đèn trên nóc xe, cách bọn gã chừng một khối phố. Dường như nó đang nhanh chóng tang tốc.
“Tao nghĩ hắn bám theo chúng ta.”
Duncan rẽ gấp vào một con phố hẹp và cũng tăng tốc. Ở ngã tư tiếp theo, gã rẽ về phía nam. “Mày nhìn thấy gì?”
“Tôi không nghĩ… Khoan. Hắn kìa. Hắn bám theo chúng ta. Dứt khoát thế.”
“Con phố đằng kia, cách đây một khối phố. Bên tay phải. Mày biết chứ? Nó có chạy sang đường cao tốc West Side không nhỉ?”
“Có. Rẽ vào đó đi.” Vincent cảm thấy lòng bàn tay gã đổ mồ hôi.
Duncan rẽ và phóng xuôi con phố một chiều, rồi rẽ trái sang đường cao tốc, hướng về phía nam.
“Đằng trước chúng ta? Cái gì thế kia? Đèn nhấp nháy à?”
“Phải.” Vincent có thể thấy chúng rõ rang. Hướng về phía bọn gã. Giọng gã chới với. “Chúng ta sẽ làm gì đây?”
“Bất kỳ việc gì cần làm”, Duncan đáp, bình thản xoay vô lăng một cách chính xác, khiến một cú quay xe tưởng không thể thực hiện được lại dường như chẳng cần đến nỗ lực.
Lincoln Rhyme cố gắng hết sức gạt đi giọng nói đều đều tẻ ngắt của Sellitto, anh đang trao đổi trên điện thoại di động. Anh cũng gạt đi các cuộc gọi của chàng cảnh sát trẻ, Ron Pulaski, tìm hiểu về những băng nhóm tội phạm ở Baltimore.
Gạt đi tất cả cho cái gì đó khác bước vào ý nghĩ của anh.
Rhyme không chắc chắn nó là cái gì. Một ký ức mơ hồ cứ làm anh day dứt.
Một cái tên người, một sự kiện, một nơi chốn. Rhyme không thể nói nó là cái gì. Nhưng nó là cái gì đó anh biết rằng quan trọng, mang tính sống còn.
Cái gì?
Rhyme nhắm mắt và thình lình ngoặt tới ý nghĩ đó. Nhưng nó lại tuột mất.
Dễ dàng tan biến, giống như những cây nấm trứng anh vẫn hay đuổi theo khi còn là một cậu bé ở vùng Midwest, ngoại vi Chicago, chạy dọc các cánh đồng, chạy mãi, chạy mãi. Lincoln Rhyme mê chạy, mê bắt những cây nấm trứng và những cái hạt xoay tròn rơi xuống từ các vòm cây tựa như những chiếc máy bay trực thăng hạ cánh. Mê đuổi theo những con chuồn chuồn, bướm đêm và ong.
Để nghiên cứu chúng, để học hỏi về chúng, Lincoln Rhyme được sinh ra với một trí tò mò mãnh liệt, là một nhà khoa học ngay từ thuở đó.
Chạy mãi… đến đứt hơi.
Và giờ đây người đàn ông bị liệt cũng đang chạy, cố gắng bắt lấy một loại hạt khác khó nắm giữ. Và mặc dù cuộc chạy chỉ diễn ra trong tâm trí anh, nó chẳng kém phần hăm hở và mạnh mẽ so với những cuộc chạy trên đôi chân thời niên thiếu.
Kìa… Kìa…
Suýt bắt được nó.
Không, không hẳn.
Rõ khỉ.
Đừng suy nghĩ, đừng ép buộc. Hãy để nó tự bước vào.
Tâm trí anh lao qua những ký ức trọn vẹn và những ký ức vụn vỡ, giống như đôi bàn chân anh từng nện xuống những bụi cỏ thơm và đất ấm, lách trong những đám sậy và những cánh đồng ngô kêu xào xạc, bên dưới những đám mây tích khổng lồ sôi ầm ầm ở hang dặm trên cao và trắng sang giữa nền trời xanh biêng biếc.
Một nghìn hình ảnh của các vụ án mạng, và bắt có, và ăn cướp, các bức ảnh chụp hiện trường, các biên bản và báo cáo ở Sở, những tờ kiểm kê chứng cứ, thứ nghệ thuật được nắm bắt trong thấu kính hiển vi, những điểm cực đại và cực tiểu trên màn hình máy tách hợp chất. Giống như biết bao những cái hạt xoay tròn và những cây nấm trứng, và châu chấu, và cào cào, và những chiếc lông chim két.
Được, gần rồi… gần rồi…
Cặp mắt Rhyme mở ra.
“Luponte”, anh thì thào.
Sự mãn nguyện tràn ngập cái cơ thể đã mất cảm giác.
Rhyme không chắc chắn, nhưng anh tin tưởng rằng có điều gì đó đầy ý nghĩa về cái tên Luponte.
“Tôi cần một hồ sơ.” Rhyme liếc nhìn Sellitto lúc này đang ngồi trước một máy vi tính, chăm chú quan sát màn hình. “Một hồ sơ!”
Viên thám tử to béo nhìn sang anh. “Anh đang nói với tôi à?”
“Phải, tôi đang nói với anh.”
Sellitto cười tủm tỉm. “Một hồ sơ à? Tôi có nó không?”
“Không. Tôi cần anh tìm ra nó.”
“Về cái gì? Một vụ án?”
“Tôi cho là vậy. Tôi không biết thời điểm. Tất cả những gì tôi biết là cái tên Luponte.” Rhyme đánh vần cái tên. “Cách đây lâu rồi.”
“Một đối tượng?”
“Có thể. Hoặc có thể một nhân chứng, có thể một người tham gia bắt giữ hoặc một giám thị. Hoặc thậm chí một nhân vật cao cấp. Tôi không biết.”
Luponte…
Sellitto nói: “Anh trông giống như mèo vớ mỡ.”
Rhyme cau mày. “Đó là một thành ngữ à?”
“Tôi không biết. Tôi thích âm điệu của nó thôi. Được, hồ sơ về Luponte. Tôi sẽ thử gọi điện. Quan trọng à ?”
“Lon, với một kẻ sát nhân tâm thần ngoài kia, anh nghĩ tôi đề nghị anh lãng phí thời gian tìm kiếm cho tôi cái gì đó không quan trọng hả?”
Một bản fax đến.
“Những hình ảnh chụp bằng ASTER cho chúng ta chăng?”, Rhyme háo hức hỏi.
“Không. Cho Amelia”, Cooper nói. “Cô ấy đâu nhỉ?”
“Trên gác.”
Đúng lúc Rhyme đang định gọi Sachs thì cô bước vào phòng. Khuôn mặt cô đã khô và hết đỏ, cặp mắt trong sáng. Cô ít khi trang điểm, nhưng anh tự hỏi phải chăng cô đã có một ngoại lệ để che giấu sự thật là cô vừa khóc.
“Gửi cho cô này”, Cooper vừa bảo Sachs vừa xem xét bản fax. “Phân tích thứ cấp chỗ tro tìm thấy ở nhà cái ông tên gì ấy đấy.”
“Creeley.”
Người kỹ thuật viên nói: “Phòng thí nghiệm cuối cùng đã làm hiện được logo trên bảng quyết toán. Nó từ phần mềm sử dụng trong kế toán doanh nghiệp. Chẳng có gì bất bình thường. Nó được bán cho các chuyên gia kế toán trên toàn quốc”.
Sachs nhún vai, cầm lấy bản fax và đọc. “Queens đã để một nhân viên giám định kế toán xem xét những số liệu được khôi phục. Đó chỉ là một bảng lương đúng tiêu chuẩn và các khoản phụ cấp cho các giám đốc điều hành tại một công ty nào đấy. Chẳng có gì bất bình thường.” Cô lắc đầu. “Dường như không quan trọng. Tôi đang nghĩ kẻ đột nhập đã đốt tất những gì bọn chúng tìm thấy để chắc chắn rằng đã hủy toàn bộ giấy tờ liên quan giữa bọn chúng và Creeley.”
Rhyme nhìn vào cặp mắt lo âu của Sachs. Anh nói: “Việc đốt các tài liệu chẳng liên quan gì đến vụ án chỉ để đánh lạc hướng điều tra cũng vẫn hay xảy ra mà.”
Sachs gật đầu: “Vâng, đúng thế. Ý kiến hay đấy, Rhyme. Cảm ơn anh.”
Điện thoại của Sachs đổ chuông.
Nữ cảnh sát lắng nghe, cau mày: “Ở đâu?”, cô hỏi. “Được.” Cô ghi chép vài điểm. “Tôi sẽ đến đó ngay.” Cô nói với Pulaski: “Có thể lần ra một manh mối về hồ sơ Sarkowski. Tôi sẽ đi kiểm tra”.
Pulaski băn khoăn hỏi: “Chị có muốn tôi đi cùng không?”.
Đã bình tĩnh hơn, Sachs mỉm cười, mặc dù Rhyme có thể thấy đấy là cái mỉm cười gượng gạo. “Không, anh cứ ở đây, Ron ạ. Cảm ơn anh.”
Sachs chộp lấy chiếc áo khoác và chẳng nói gì nữa, vội vã đi ra ngoài.
Khi cánh cửa chính đóng sập lại đằng sau cô, điện thoại của Sellitto reo. Trong lúc lắng nghe, ông ta trở nên căng thẳng. Rồi ông ta ngẩng nhìn, thông báo: “Nhận thông tin này. Đã phát hiện một trường hợp theo Lệnh phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp. Xe Explorer màu nâu vàng, hai người đàn ông da trắng bên trong xe. Tránh một xe cảnh sát. Họ đang đuổi theo”. Ông ta lắng nghe thêm chút nữa. “Đã rõ.” Ông ta ngắt máy: “Họ đuổi theo đến cái ga ra lớn trên sông, tại khu vực Houston gần đường cao tốc West Side. Các ngả thoát đã bị chặn. Có thể là nó đấy.”
Rhyme lệnh cho radio của anh bật tần số đã thay đổi, và tất cả mọi người trong phòng thí nghiệm nhìn chằm chằm vào hai cục loa nhỏ bằng nhựa màu đen. Hai cảnh sát tuần tra báo cáo rằng chiếc Explorer được phát hiện bị bỏ lại trên tầng hai. Không có dấu hiệu nào về hai người đàn ông lúc trước ở bên trong xe.
“Tôi biết cái ga ra ấy”, Sellitto nói. “Nó là một cái sàng. Bọn chúng hẳn đã thoát ra được từ bất cứ chỗ nào.”
Bo Haumann và một trung úy báo cáo rằng họ đã điều xe tuần tra lùng sục các con phố xung quanh khu vực ga ra, nhưng chưa có dấu hiệu nào về Thợ Đồng Hồ và tên đồng lõa.
Sellitto lắc đầu thất vọng. “Ít nhất chúng ta cũng tóm được chiếc xe của bọn chúng. Nó sẽ cho chúng ta biết rất nhiều điều. Chúng ta phải gọi Amelia về để xử lý hiện trường.”
Rhyme cân nhắc. Anh đã dự đoán rằng xung đột giữa hai vụ án sẽ lên đến đỉnh điểm, tuy nhiên anh chưa bao giờ nghĩ nó lại xảy ra nhanh chóng như thế này.
Chắc chắn rồi, họ phải gọi Sachs về.
Nhưng nhà hình sự học quyết định không gọi cô. Anh biết về cô có lẽ còn hơn là về chính bản thân mình và anh hiểu rằng cô cần giải quyết vụ quán Thánh James.
Chẳng có gì tồi tệ hơn một cảnh sát biến chất…
Anh sẽ làm việc này vì cô.
“Thôi. Cứ để cô ấy đi.”
“Nhưng, Linc…”
“Chúng ta sẽ tìm một người khác.”
Sự im lặng căng thẳng, dường như kéo dài vĩnh viễn, bị phá vỡ bởi câu nói: “Thưa sếp, tôi xin đảm nhận”.
Rhyme liếc nhìn sang bên tay phải.
“Cậu à, Ron?”
“Thưa sếp. Tôi có thể xử lý được.”
“Tôi không nghĩ vậy.”
Chàng cảnh sát trẻ nhìn thẳng vào Rhyme và đọc thuộc lòng: “Điều quan trọng cần lưu ý là địa điểm mà xác nạn nhân được tìm thấy thông thường kém phần quan trọng nhất tại nhiều hiện trường của các vụ án mạng, bởi vì nơi đó, những thủ phạm thận trọng sẽ xóa sạch mọi dấu vết và dựng lên những chứng cứ giả để đánh lạc hướng điều tra. Điều quan trọng hơn…”.
“Đó là…”
“Là giáo trình sếp viết. Tôi đã đọc nó. Vài lần, thực sự thế.”
“Cậu thuộc lòng nó?”
“Chỉ những phần quan trọng thôi.”
“Những phần nào không quan trọng?”
“Tôi muốn nói tôi đã thuộc lòng những nguyên tắc cụ thể.”
Rhyme cân nhắc. Pulaski trẻ và thiếu kinh nghiệm. Nhưng ít nhất anh ta cũng biết những kẻ tham gia cuộc chơi và anh ta có con mắt tinh tường. “Được, Ron ạ. Nhưng cậu đừng đặt một bước nào vào hiện trường nếu chúng ta không liên hệ trực tuyến được với nhau đấy.”
“Vâng, thưa sếp.”
“Ồ, vâng, thưa sếp à?”, Rhyme hỏi vẻ chế giễu. “Cảm ơn sự chấp thuận của cậu, chàng tân binh. Nào, đi đi.”
Bọn gã đứt hơi vì chạy.
Duncan và Vincent, cả hai đều cầm túi vải bạt lớn đựng các thứ đồ lề bên trong chiếc Band–Aid–di động, chuyển dần dần sang đi bộ ở một công việc gần sông Hudson. Bọn gã đã cách cái ga ra, nơi chiếc SUV bị bỏ lại, hai khối phố.
Thế là việc đi găng – mà Vincent ban đầu coi như một cung cách quá hoang tưởng – rút cục đã hữu ích.
Vincent ngoái nhìn đằng sau: “Bọn nó không đuổi theo nữa. Bọn nó không trông thấy chúng ta.”
Duncan đứng dựa vào một cái cây non, khạc đờm và nhổ xuống cỏ. Vincent ép tay vào lồng ngực đau nhói vì chạy. Hơi tỏa ra từ mũi và mồm hai gã. Kẻ sát nhân vẫn không tức tối mà thậm chí còn tò mò hơn.
“Cả chiếc Explorer nữa. Bọn nó biết về chiếc xe. Tao không hiểu được. Làm sao bọn nó biết nhỉ? Và đứa nào đang điều tra chúng ta?… Cái con bé cảnh sát tóc đỏ tao trông thấy ở phố Cedar, có thể là nó.”
Con bé…
Rồi Duncan nhìn xuống hông mình và cau mày. Chiếc túi vải bạt bị mở. “Ôi, không”, gã thì thầm.
“Gì thế?”
Kẻ sát nhân quỳ xuống và bắt đầu lục lọi chiếc túi. “Mất mấy thứ. Quyển sách và đạn vẫn còn trong xe.”
“Chẳng có gì ghi tên chúng ta trên đó. Chẳng có dấu vân tay, đúng chứ?”
“Ừ. Bọn nó sẽ không xác định ra chúng ta.” Duncan liếc nhìn Vincent. “Tất cả giấy gói đồ ăn và vỏ hộp của mày nữa? Mày đã đi găng tay đấy chứ?”
Vincent sống trong nỗi sợ hãi là làm thất vọng bạn mình và bởi vậy luôn luôn thận trọng. Gã gật đầu.
Duncan ngoái nhìn về phía ga ra. “Nhưng dù sao… mỗi mẩu chứng cứ mà bọn nó có được cũng giống như lại tìm thấy một bộ phận nữa của một chiếc đồng hồ. Đủ số lượng, nếu mày thông minh, mày có thể hiểu cơ chế vận hành của nó. Mày thậm chí có thể xác định người chế tạo ra nó.” Gã cởi áo khoác, đưa cho Vincent. Bên trong, gã mặc một cái áo nỉ màu xám. Gã lấy chiếc mũ chơi bóng chày từ trong túi và đội lên đầu.
“Gặp lại tao tại nhà thờ. Về thẳng đó. Tuyệt đối không tạt ngang tạt ngửa.”
Vincent thì thầm: “Anh sẽ làm gì thế?”.
“Cái ga ra đó tối và rộng. Cảnh sát sẽ không đủ người để bao quát tất cả mọi chỗ. Và cánh cửa phụ mà chúng ta đã sử dụng, từ phía ngoài hầu như không thể nhìn thấy. Bọn nó có thể không cắt ai gác ở đấy… Nếu chúng ta may mắn thì bọn nó sẽ chưa kịp phát hiện ra chiếc Explorer. Tao sẽ lấy những thứ chúng ta bỏ quên.”
Duncan lấy cái cắt hộp và luồn nó vào trong tất chân. Rồi gã thò tay vào túi áo khoác, rút ra khẩu súng nhỏ và kiểm tra cho chắc chắn là nó đã được lắp đạn. Gã bỏ lại súng vào túi.
Vincent hỏi: “Nhưng nếu bọn nó đã làm thế thì sao? Ý tôi là đã tìm thấy chiếc xe ấy”.
Bằng giọng b&igrav!!!15547_14.htm!!! Đã xem 24206 lần.

PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 14

Truyện TRĂNG LẠNH ---~~~cungtacgia~~~---
Truyện Cùng Tác Giả BÚP BÊ ĐANG NGỦ Cái Ghế Trống Cây thập tự ven đường Dữ Liệu Tử Thần Đã xem 24207 lần. --!!tach_noi_dung!!--

PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 14

--!!tach_noi_dung!!--
     ại nhà Rhyme, Sachs giao các chứng cứ cho Mel Cooper.
Trước khi xỏ đôi găng cao su, cô bước tới chỗ một cái hộp nhỏ, lấy ra mấy chiếc bích quy của chó và đút cho Jackson. Chú ta chén vội vàng.
“Anh có bao giờ nghĩ sẽ kiếm một chú chó giúp việc không?”, Kathryn Dance hỏi Rhyme.
“Nó là một con chó giúp việc đấy.”
“Jackson ấy à?”, Sachs cau mày.
“Đúng. Nó giúp đỡ tôi rất nhiều. Nó khiến mọi người mất tập trung và tôi không phải mua vui cho họ.”
Hai người phụ nữ bật cười.
“Tôi muốn nói một chú chó giúp việc thực sự.”
Một trong những bác sĩ trị liệu của Rhyme đã có gợi ý về một chú chó. Nhiều người mắc chứng liệt và chứng liệt tứ chi nuôi các con vật giúp việc. Chẳng bao lâu sau tai nạn, khi vị luật sư lần đầu tiên nêu ý tưởng này, anh đã phản đối kịch liệt. Anh không thể giải thích chính xác tại sao, nhưng cho rằng vấn đề là ở chỗ anh không thích phải phụ thuộc vào cái gì, hay ai khác. Bây giờ, ý tưởng này xem chừng chẳng quá tệ.
Rhyme cau mày. “Chị có thể huấn luyện chúng rót rượu whisky không?” Nhà hình sự học chuyển ánh nhìn từ chú chó sang Sachs. “Ồ, khi em đang ở hiện trường có người gọi điện cho em đấy. Một người tên là Jordan Kessler.”
“Ai cơ?”
“Ông ta nói em biết ông ta mà.”
“Ồ, khoan não, chắc chắn rồi, đối tác của Creeley.”
“Ông ta muốn trao đổi với em. Anh bảo em đang không ở đây nên ông ta để lại lời nhắn. Ông ta nói ông ta đã trao đổi với tất cả nhân viên công ty và thời gian về sau này đích thị là Creeley có biểu hiện chán nản. Kessler vẫn chưa tập hợp xong danh sách khách hàng. Nhưng sẽ mất khoảng một hai ngày.”
“Một vài ngày à?”
“Đó là ông ta nói thế.”
Ánh mắt Rhyme hướng vào các chứng cứ Sachs đang sắp xếp lên một chiếc bàn khám nghiệm cạnh Cooper. Tâm trí anh rời khỏi vụ quán Thánh James – mà anh gọi là “Vụ Kia”. Đối lập với “Vụ Của Anh”, vụ Thợ Đồng Hồ. “Chúng ta hãy đến xem xét các chứng cứ nào”, anh thông báo.
Sachs xỏ đôi găng cao su và bắt đầu mở các túi, hộp.
Chiếc đồng hồ cũng giống như hai chiếc trước, đang kêu tích tắc và chỉ đúng giờ. Cái mặt hình trăng hơi qua kỳ tròn đầy một chút.
Cooper cùng Sachs tháo chiếc đồng hồ ra nhưng không tìm thấy dấu vết nào có ý nghĩa cả.
Không dấu chân, không dấu vân tay, không vũ khí hay bất cứ thứ gì khác được để lại trong xưởng hoa. Rhyme băn khoăn không biết, liệu sát thủ có sử dụng dụng cụ đặc biệt nào để cắt dây kẽm của cô thợ cắm hoa, hay sử dụng kỹ thuật nào, mà từ đó có thể hé lộ nghề nghiệp hay chuyên môn, trong quá khứ hoặc hiện tại. Nhưng, không, hắn đã sử dụng chính cái kéo của Joanne. Tuy nhiên, cũng giống như các đoạn băng dính nhựa, các đoạn dây kẽm được cắt với độ dài y hệt nhau. Mỗi đoạn chính xác một trăm tám mươi ba centimét. Rhyme tự hỏi hắn dự định sẽ trói cô gái bằng các đoạn dây kẽm, hay đó sẽ là vũ khí giết người.
Joanne Harper đã khóa cửa khi cô rời khỏi xưởng đi uống cà phê với bạn. Rõ ràng sát thủ đã tự mở khóa để vào. Điều này chẳng làm Rhyme ngạc nhiên, một kẻ biết về các bộ phận của đồng hồ có thể dễ dàng học được kỹ năng mở khóa.
Xem xét các hồ sơ của Cơ quan Quản lý Xe gắn máy thì thấy có bốn trăm hai mươi ba chủ sở hữu xe Explorer màu nâu vàng. Tham khảo danh sách lệnh bắt giữ thì thấy chỉ còn có hai trường hợp: một ông già ở tuổi sáu mươi, mắc tội không tuân thủ luật pháp, nhận hàng chục vé phạt vì đỗ xe sai quy định, và một gã trẻ hơn, mắc tội bán cocaine. Rhyme phân vân không biết liệu đây có phải là trợ thủ của Thợ Đồng Hồ không, rốt cuộc hóa ra gã vẫn đang trong tù. Thợ Đồng Hồ rất có khả năng nằm trong số những cái tên còn lại, tuy nhiên chẳng cách nào mà nói chuyện được với cái tên còn lại, tuy nhiên chẳng cách nào mà nói chuyện được với tất cả những người này, mặc dù Sellitto sẽ cử ai đó đi kiểm tra những người có địa chỉ ở khu Hạ Manhattan. Cũng đã có vài trường hợp bị kiểm tra theo lệnh Phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp, nhưng không lái xe nào giống như mô tả nhân dạng Thợ Đồng Hồ và kẻ đồng lõa của gã.
Sachs lấy các mẫu dấu vết từ chính xưởng hoa và thấy rằng, đúng, đất và protein cá, dưới dạng phân bón, đích thực từ chỗ Joanne. Có một ít bên trong xưởng, nhưng Sachs cũng tìm thấy số lượng đáng kể ở bên ngoài, trong và xung quanh những vỏ bao phân bón bỏ đi.
Rhyme lắc đầu.
“Có vấn đề gì thế?”, Sellitto hỏi.
“Không phải về bản thân chỗ protein cá. Mà về cái thực tế là nó được tìm thấy trên nạn nhân thứ hai, Adams.”
“Vì?”
“Điều ấy nghĩa là trước đấy đối tượng đã đến kiểm tra xưởng hoa, có lẽ là kiểm tra nạn nhân và xem có chuông báo động hay camera an ninh không. Hắn đang bí mật theo dõi những địa điểm hắn lựa chọn. Điều ấy có nghĩa hắn có một lý do để nhằm vào những nạn nhân này. Nhưng đó là lý do quái quỷ gì?”
Người đàn ông bị đè họng cho đến chết trong con hẻm kia có vẻ chẳng liên quan tới bất cứ hoạt động tội phạm nào và không kẻ thù. Cũng y như thế đối với Joanna Harper. Và cô chưa bao giờ nghe nói về Adams – không một mối liên hệ giữa họ. Nhưng cả hai đều bị Thợ Đồng Hồ nhắm vào. Tại sao? Rhyme băn khoăn tự hỏi. Một nạn nhân chưa được xác định danh tính ở cầu tàu, một doanh nhân trẻ tuổi, một cô thợ cắm hoa… và sẽ có bảy nạn nhân nữa. Ở họ có cái gì khiến hắn ra tay sát hại thế? Mối liên hệ giữa họ là gì?
“Anh tìm thấy gì nữa?”
“Những mảnh màu đen”, Cooper vừa trả lời vừa giơ một phong bì nhựa lên. Bên trong là những cái chấm trông giống những giọt mực màu đen đã khô.
Sachs nói: “Chúng xuất hiện ở chỗ hắn lấy cuộn dây kẽm và ở chỗ có thể hắn đã nấp. Tôi cũng tìm thấy một ít ở phía ngoài cửa trước, chỗ hắn giẫm lên khi chạy ra chiếc Explorer”.
“Nào, cho xử lý qua máy tách hợp chất đi.”
Cooper khởi động máy và nạp vào một mẫu mảnh đen. Sau mấy phút, kết quả hiện lên trên màn hình.
“Sao, chúng ta có gì hả Mel?”
Người kỹ thuật viên đẩy cặp kính lên trên mũi. Anh ta ngả người về phía trước. “Hữu cơ… Trông có vẻ khoảng bảy mươi ba phần trăm paraffin, tiếp theo là hydrocarbon vòng thơm và thiaarene.”
“À, hắc ín để quét mái nhà,” Rhyme nheo mắt.
Kathryn Dance bật cười. “Anh biết à?”
Sellitto nói: “Ồ, Lincoln từng lang thang khắp thành phố thu thập mọi thứ anh ấy tìm thấy để tập hợp thành cơ sở dữ liệu chứng cứ… Hồi trước đi ăn tối với anh hẳn buồn cười lắm, Linc nhỉ. Anh mang theo ống nghiệm và những cái túi?”.
“Vợ cũ của tôi có thể kể cho anh nghe tất cả đấy”, Rhyme lẩm bẩm một cách thích thú. Sự chú ý của anh là ở những giọt hắc ín màu đen. “Tôi đánh cuộc rằng hắn vừa đi kiểm tra một nạn nhân khác tại một nơi đang được quét lại nhựa mái.”
“Hoặc có thể người ta đang quét lại nhựa mái chỗ hắn”, Cooper nêu ý kiến.
“Tôi không biết liệu hắn có dám thưởng thức cocktail và những buổi hoàng hôn trên sân thượng nhà mình trong thời tiết này hay không”, Rhyme đáp. “Chúng ta hãy cứ cho rằng đó là mái nhà người khác đi. Tôi muốn biết hiện có bao nhiêu tòa nhà đang được quét lại nhựa mái.”
“Con số có thể lên đến hang trăm, hàng nghìn”, Sellitto nói.
“Chắc chẳng đến thế trong thời tiết này.”
“Và dù sao thì chúng ta cũng bằng cách quái nào mà tìm ra được?”, viên thám tử quần áo nhàu nhĩ hỏi.
“Nhờ ASTER.”
“Đó là gì?”, Dance hỏi.
Rhyme đọc thuộc lòng một cách lơ đãng. “Kỹ thuật tiên tiến đo bức xạ và nhiệt từ vũ trụ. Nó là một thiết bị đo và tập hợp dữ liệu trên vệ tinh Terra, dự án chung giữa NASA và chính phủ Nhật Bản. Nó bắt các hình ảnh nhiệt từ vũ trụ. Quỹ đạo của nó… thế nào nhỉ, Mel?”
“Chừng chín mươi tám phút. Nhưng phải mất mười sáu ngày để nó bao quát khắp bề mặt Trái Đất.”
“Hãy tìm hiểu xem nó đã đi qua New York lần gần đây nhất là khi nào. Tôi muốn hình ảnh các khu vực tỏa nhiệt và xem liệu họ có thể xác định những sức nóng trên hai trăm độ hay không, tôi hình dung ra rằng hắc ín khi quét lên mái nhà thì phải nóng ít nhất cỡ ấy. Sẽ thu hẹp được phạm vi hắn lui tới.”
“Toàn bộ thành phố à?”, Cooper hỏi.
“Xem ra là hắn đang lùng sục ở Manhattan. Chúng ta hãy;. Cô ly dị đã lâu và chẳng nhận được tin tức gì từ chồng cũ. Cô không nghĩ ra là có ai thù oán mình.
Joanne cũng nói với Dance rằng trước đấy, cùng ngày, cô nhìn thấy một người quan sát cô qua cửa sổ, một người đàn ông da trắng to béo mặc áo khoác liền mũ trùm màu kem, đeo kính râm kiểu cổ và đội mũ chơi bóng chày. Vì cửa sổ bẩn nên cô không nhìn thấy những chi tiết khác. Dance băn khoăn không biết liệu Joanne có mối quan hệ nào với Adams, nạn nhân đầu tiên. Nhưng Joanne chưa bao giờ nghe nói tới anh ta cả.
Sachs nói: “Cô ấy thế nào?”.
“Bị chấn động. Nhưng cũng đang quay lại với công việc. Tuy nhiên không ở xưởng hoa. Ở cửa hiệu của cô ấy trên đường Broadway.”
Sellitto nói: “Cho tới khi chúng ta tóm được gã đàn ông này hoặc biết được động cơ phạm tội, tôi sẽ yêu cầu một xe gác bên ngoài cửa hiệu”. Ông ta lôi bộ đàm ra và thu xếp việc đó.
Nancy Simpson và Frank Rettig, hai sĩ quan khám nghiệm hiện trường, bước đến chỗ Sachs. Đi giữa họ là một thiếu niên đội mũ sợi ôm sát đầu và mặc chiếc áo khoác ngắn rộng lùng thùng. Cậu ta gầy giơ xương và trông có vẻ bị lạnh cóng. “Cậu này muốn giúp đỡ chúng ta”, Simpson nói. “Cậu ta đến gặp chúng tôi ở ngoài xe.”
Liếc nhìn Sachs, thấy cô gật đầu, Dance quay sang cậu ta và hỏi cậu ta đã trông thấy gì. Tuy nhiên, chẳng cần tới chuyên gia về ngôn ngữ hình thể. Cậu bé sung sướng được chứng tỏ mình là một công dân tốt. Cậu ta trình bày rằng cậu ta đang đi bộ xuôi theo con phố thì trông thấy có người nhảy ra khỏi xưởng hoa. Gã này tầm trung niên, mặc áo khoác ngắn màu tối. Nhìn bức ảnh chắp ghép mà Sellitto và Dance dựng tại cửa hiệu đồng hồ, cậu ta bảo: “Vâng, có lẽ là hắn”.
Hắn chạy đến chỗ một chiếc SUV màu nâu vàng do một gã da trắng mặt tròn và đeo kính râm lái. Nhưng cậu bé không trông thấy chi tiết cụ thể nào về gã lái xe.
“Bọn chúng có hai đứa à?” Baker thở dài. “Hắn có một kẻ đồng lõa.”
Có thể đó là kẻ Joanne đã trông thấy ở xưởng hoa.
“Một chiếc Explorer?”
“Em không phân biệt được các loại xe SUV, không biết xe Explorer hay… xe gì.”
Sellitto hỏi về biển số xe. Nhân chứng không trông thấy.
“Chà, ít nhất chúng ta cũng biết màu xe.” Sellitto công bố lệnh Phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp. Một lệnh Phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp sẽ thông báo cho tất cả các xe tuần tra có trang bị bộ đàm cũng như hầu hết các nhân viên thực thi pháp luật và cảnh sát giao thông trong khu vực tìm kiếm một chiếc Explorer màu nâu vàng chở hai người đàn ông.
“Được rồi, chúng ta hãy tiếp tục công việc”, Sellitto gọi.
Simpson và Rettig giúp đỡ Sachs lắp các thiết bị để xử lý hiện trường. Có mấy hiện trường là xưởng hoa, con hẻm, khu vực vui vẻ nơi gã đàn ông đã trốn thoát, cũng như nơi chiếc Explorer đỗ lúc trước.
Kathryn Dance và Sellitto trở về chỗ Rhyme, còn Baker tiếp tục đi tìm kiếm nhân chứng, chìa bức ảnh Thợ Đồng Hồ cho những người qua lại và những người làm việc ở các kho hàng, các cơ sở kinh doanh dọc phố Spring.
Sachs thu thập các chứng cứ mà cô có thể thu thập. Vì chiếc đồng hồ thứ nhất không phải thiết bị phát nổ, đội tháo bom không cần thiết phải tham gia. Một thực nghiệm đơn giản kiểm tra muốn nitrate
[45] là đủ đảm bảo. Cô đóng gói nó, cùng với các chứng cứ khác, rồi cởi bỏ bộ đồ Tyvek và mặc chiếc áo khoác da. Cô vội vã bước ra phố, buông người và ghế trước chiếc Camaro, khởi động xe và bật máy sưởi hết công suất.
Sachs với cái xắc ở ghế sau để lấy đôi găng tay. Nhưng khi cô vừa cầm các xắc da lên thì các thứ bên trong rơi ra.
Sachs cau mày. Cô vốn rất cẩn thận, bao giờ cũng cài chặt cái xắc. Cô không thể làm mất các thứ đựng bên trong, hai băng đạn dự trữ cho khẩu Glock, cũng như một hộp hơi cay. Cô nhớ rõ rằng cô đã vặn khóa xắc lúc đến đây.
Sachs nhìn cửa sổ phía ghế hành khách. Những vết găng tay để lại trên kính đúng là do ai đó sử dụng một chiếc Slimjim[46] để mở khóa cửa. Và một ít sợi cách nhiệt xung quanh cửa sổ bị đẩy sang bên.
Bị đột nhập trong khi đang khám nghiệm hiện trường một vụ án. Đây là lần đầu tiên.
Sachs kiểm tra lần lượt từng món đồ. Không mất mát gì cả. Toàn bộ tiền và thẻ thanh toán vẫn còn – mặc dù cô sẽ phải gọi cho các hãng thẻ tín dụng phòng trường hợp tên kẻ cắp đã ghi lại được số thẻ. Đạn và hộp xịt hơi cay nguyên vẹn. Tay lần đến khẩu Glock, cô nhìn xung quanh. Có một nhúm người túm tụm gần đầy, hiếu kỳ xem cảnh sát làm việc. Cô trèo ra khỏi xe và đi đến chỗ họ, hỏi xem có ai trông thấy vụ đột nhập không. Không ai trông thấy gì.
Quay lại chiếc Chevy, Sachs lấy từ trong cốp hộp máy khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm chiếc xe giống hệt như đối với bất cứ hiện trường nào khác – kiểm tra dấu vân tay, dấu chân, các dấu vết bên trong và bên ngoài. Cô không tìm thấy gì cả. Cô cất hộp máy và lại buông người xuống ghế trước.
Rồi Sachs nhìn thấy, cách đấy nửa khối phố, một chiếc xe lớn màu đen khuất dần vào một con hẻm. Cô nghĩ đến chiếc Mercedes cô đã nhìn thấy lúc đón Pulaski. Tuy nhiên, cô không kịp nhìn thấy nhãn hiệu xe và chiếc xe biến mất giữa dòng xe cộ trước khi cô có thể quay xe lại đuổi theo nó.
Trùng hợp hay không? Sachs băn khoăn tự hỏi.
Bộ động cơ to tướng của chiếc Chevy bắt đầu đẩy hơi nóng vào xe và Sachs thắt dây an toàn. Cô cài số một. Thả lỏng người về phía trước, cô tự nhủ: Chà, cũng chưa có tổn hại gì.
Sachs chạy xe được nửa khối phố, đang sang gấp số a thì ý nghĩ này ập tới: Kẻ ấy đã tìm kiếm gì? Cái thực tế là tiền và thẻ tín dụng của cô vẫn còn cho thấy đối tượng tìm kiếm thứ gì đó khác.
Amelia Sachs biết rằng những kẻ mà người ta không thể xác định được động cơ hành động luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất.

Ghi chú

[45] Muối nitrate: Một số muối nitrate được sử dụng trong sản xuất chất nổ.
[46] Slimjim: Là nhãn hiệu do hãng HPC Inc., một hãng sản xuất và cung cấp dụng cụ chuyên dụng cho thợ khóa, đưa ra thị trường. Slimjim được sử dụng để mở khóa cửa ô tô mà không cần chìa.
--!!tach_noi_dung!!--

Thực hiện ebook: Jude602; nhv1409; timson1991
Nguồn: Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Văn Học liên kết Công ty Cổ phần Sách Bách Việt
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 6 năm 2015

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---