PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 21

     hỉ còn Kathryn Dance cùng Rhyme trong căn phòng của anh. Ờ, cả Jackson, chú chó giống Havanese, nữa. Dance đang ôm chú chó.
“Thật tuyệt vời”, cô bảo Thom. Ba người vừa ăn bữa tối do anh chàng phụ tá chuẩn bị với bò Bourguignon[59], cơm, sa lát, và một chai Caymus Cabernet. “Tôi sẽ hỏi anh công thức nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ nấu ngon bằng.”
“A, một khán giả biết tán thưởng”, Thom nói, liếc nhìn Rhyme.
“Tôi cũng biết tán thưởng. Chỉ không quá mức thôi.”
Thom hất đầu về phía cái bát lúc nãy đựng món chính. “Đối với anh ấy, nó đơn giản là thịt hầm. Anh ấy thậm chí chẳng cố gắng dùng tiếng Pháp. Hãy cho chị ấy biết anh nghĩ thế nào về thức ăn, Lincoln.”
Nhà hình sự học nhún vai. “Tôi không cầu kỳ về việc mình ăn gì. Thế thôi.”
“Anh ấy gọi đó là nhiên liệu”, anh chàng phụ tá nói và mang những chiếc đĩa vào bếp.
“Chị có nuôi chó không?”, Rhyme hỏi Dance, hất đầu về phía Jackson.
“Hai con. Chúng to hơn cậu này nhiều. Mỗi tuần, bọn trẻ và tôi đưa chúng ra bãi biển đôi, ba lần. Chúng đuổi theo đám mòng biển, còn chúng tôi thì đuổi theo chúng. Tất cả đều được tập thể dục. Và nếu như thế nghe có vẻ quá lành mạnh, cũng đừng lo. Sau đó chúng tôi đến ăn bánh quế tại tiệm First Watch ở Monterey và bù lại toàn bộ số ca-lo đã mất.”
Rhyme liếc nhìn vào bếp, nơi Thom đang rửa đĩa và chảo. Anh hạ giọng hỏi liệu cô có ngại một chút gian trá không.
Dance cau mày.
“Tôi thì chẳng ngại nếu một chút ấy...”, Rhyme hất đầu về phía một chai Scotch Glenmorangie lâu năm, “... dừng lại ở kia”. Cái hất đầu chuyển hướng về phía chiếc cốc của anh. “Tuy nhiên, chị có lẽ sẽ muốn kín đáo.”
“Thom ấy à?”
Một cái gật đầu. “Thi thoảng cậu ấy lại đề ra Luật cấm rượu. Việc này khá khó chịu.”
Kathryn Dance biết giá trị của sự tự cho phép mình hưởng thụ. (Chà, cô có lẽ đã tăng gần ba ki-lô ở Tijuana. Đó là một tuần rất, rất dài.) Cô đặt chú chó xuống và rót cho anh một cốc đầy. Cô lắp nó vào giá đỡ ở xe lăn, xoay chiếc ống hút đến gần miệng anh.
“Cám ơn.” Rhyme làm một hơi dài. “Dù chị có gửi hóa đơn thanh toán cho thời gian chị ở đây bao nhiêu, tôi cũng giải quyết trả gấp đôi. Và chị cứ tự nhiên nhé. Chị thì Thom không làm gì đâu.”
“Có lẽ là ít caffeine.” Dance rót một tách cà phê và tự cho phép mình thưởng thức một chiếc bích quy yến mạch mà anh chàng phụ tá đã bày ra. Chính anh ta nướng những chiếc bích quy đó.
Dance liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Ở California chậm hơn ba tiếng. “Xin lỗi một phút. Tôi gọi về nhà kiểm tra.”
“Xin mời chị.”
Dance sử dụng điện thoại di động của mình. Maggie nghe máy.
“Này, cưng.”
“Mẹ.”
Con bé vốn nói nhiều và Dance mất mười phút để nghe nó tường thuật chuyến đi mua sắm đồ mừng Giáng sinh với bà ngoại. Maggie kết luận: “Rồi bà và con về nhà và con đọc Harry Potter”.
“Cuốn mới à?”
“Vâng.”
“Bao nhiêu lần rồi?”
“Sáu.”
“Con không thích đọc cái gì đó khác sao? Mở rộng tầm hiểu biết?”
Maggie trả lời: “Ôi, mẹ, nói chung, mẹ đã nghe Bob Dylan[60] bao nhiêu lần? Album Blonde on Blonde ấy. Hay ban U2?”
Logic không thể bác bỏ. “Cưng, con bắt bẻ được mẹ, chỉ có điều đừng nóinói chung.”
“Mẹ. Khi nào mẹ về?”
“Có thể là ngày mai. Yêu con. Đưa máy cho anh nào. ”
Wes cầm điện thoại và hai mẹ con trò chuyện một lúc, cuộc trò chuyện có nhiều chỗ ngừng lại hơn và giọng điệu nghe nghiêm túc hơn. Thằng bé từ trước đã nói bóng gió về việc đi học karate và bây giờ nó hỏi thẳng thừng mẹ là nó thực hiện việc đó được không. Tuy nhiên, Dance muốn nó tập môn gì ít tính hiếu chiến hơn, nếu nó thích một m&ociau">CHƯƠNG 36
  • CHƯƠNG 37
  • CHƯƠNG 38
  • CHƯƠNG 39
  • CHƯƠNG 40
  • CHƯƠNG 41
  • CHƯƠNG 42
  • CHƯƠNG 43
  • LỜI TÁC GIẢ
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
    !!!15547_2.htm!!!rc;n thể thao nào đấy ngoài bóng đá và bóng chày. Cô nghĩ thân hình cuồn cuộn cơ bắp của nó hoàn hảo cho thể dục dụng cụ hoặc tennis, nhưng những môn ấy lại chẳng mấy hấp dẫn nó.
    Là nhân viên thẩm vấn, Kathryn Dance biết rất rõ về sự giận dữ, cô thấy nó ở các đối tượng cũng như ở các nạn nhân cô phỏng vấn sau những vụ phạm tội. Cô cho rằng mối quan tâm hiện tại của Wes đối với võ thuật có nguồn gốc là sự giận dữ đôi lúc xuất hiện tựa một đám mây bao phủ lấy nó, kể từ khi người cha qua đời. Sự giận dữ được chấp thuận có thể rất nguy hiểm, đặc biệt đối với bọn trẻ.
    Dance trò chuyện cùng thằng bé một lúc về quyết định đó.
    Hợp tác giải quyết vụ Thợ Đồng Hồ với Rhyme và Sachs đã khiến Kathryn Dance ý thức rõ rệt về thời gian. Cô nhận ra mình đang sử dụng thời gian nhiều chừng nào trong công việc – và trong quan hệ mẫu tử. Chẳng hạn, thời gian trôi qua làm nguôi ngoai sự giận dữ một cách nhanh chóng (các cơn bùng nổ hiếm khi có thể duy trì quá ba phút) và làm tình trạng kháng cự suy yếu thành những hình thức phản đối – hữu hiệu hơn là cãi nhau đinh tai nhức óc, trong hầu hết các trường hợp. Lúc này, Dance không phủ quyết karate, nhưng thuyết phục thằng bé đồng ý thử tập tennis. (Một lần, cô tình cờ nghe thằng bé bảo một đứa bạn: “Ừ, thật chả ra sao khi mẹ cậu là cảnh sát”. Dance đã cười một mình đến đau cả bụng.)
    Rồi tâm trạng thằng bé thay đổi đột ngột và nó vui vẻ nói tới một bộ phim nó xem trên kênh HBO. Rồi điện thoại của nó kêu bíp báo tin nhắn bạn nó gửi. Nó phải đi, tạm biệt, mẹ, con yêu mẹ, hẹn sớm gặp lại mẹ.
    Cách.
    Một phần nghìn giây của câu nói đầy tự nguyện “con yêu mẹ” khiến toàn bộ cuộc thảo luận thật bõ công.
    Dance ngắt máy và liếc nhìn Rhyme. “Anh có con không? ”
    “Tôi á? Không. Tôi không nghĩ rằng chúng sẽ là điểm mạnh của tôi.”
    “Chúng không là điểm mạnh của bất cứ ai, cho tới chừng nào ta có chúng.”
    Rhyme nhìn chiếc tai nghe iPod của Dance, nó đung đưa xung quanh cổ cô tự chiếc ống nghe của bác sĩ. “Tôi đoán chị thích âm nhạc… Chị thấy sự suy luận thông minh đó thế nào?”
    Dance nói: “Nó là sở thích của tôi”.
    “Thật vậy à? Chị có chơi nhạc?”
    “Tôi có hát chút ít, tôi từng hát dân ca. Nhưng bây giờ, nếu rảnh rang, tôi ném bọn trẻ và lũ chó lên xe moóc cắm trại và đi ghi âm các bài hát.”
    Rhyme cau mày. “Tôi đã nghe nói tới hoạt động này. Nó được gọi là...”
    “Thông thường thì nó được gọi là sưu tầm ca khúc.”
    “Vâng. Đúng rồi.”
    Đây là niềm đam mê của Kathryn Dance. Cô góp phần vào một truyền thống lâu đời của những người chuyên nghiên cứu văn hóa dân gian, những người đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh để ghi âm ngay ngoài trời các làn điệu này, đi bộ khắp nước Mỹ và châu Âu thu lấy các bài hát cổ. Thỉnh thoảng Dance đi đến khu vực East Side, nhưng các làn điệu ở đó đã được phổ biến trong nhiều tư liệu rồi, nên hầu hết những chuyến gần đây cô đi đến những thành phố nội địa, Nova Scotia, Tây Canada, cái lạch sông cùng những địa điểm tập trung đông dân Latin, như Nam và Trung California. Cô ghi âm và lập danh sách các bài hát.
    Cô nói với Rhyme việc này và cũng giải thích về một website, mà cô và một người bạn duy trì, cung cấp thông tin liên quan đến các nhạc sĩ, các bài hát và bản thân âm nhạc. Họ giúp đỡ các nhạc sĩ giành quyền tác giả đối với các bài hát gốc và chia lệ phí do người nghe trả khi tải các bài hát ấy về. Một số nhạc sĩ đã được các công ty băng đĩa liên hệ, mua nhạc của họ để làm nhạc cho các bộ phim độc lập.
    Tuy nhiên, Dance không nói với Rhyme rằng mối quan hệ giữa cô và âm nhạc còn nhiều hơn thế.
    Dance thường xuyên thấy mình bị quá tải. Để hoàn thành tốt công việc, cô phải buộc bản thân vào với những nhân chứng, những kẻ tội phạm mà cô phỏng vấn. Ngồi cách một kẻ sát nhân tâm thần chừng một mét, chiến đấu với hắn hàng tiếng đồng hồ hay hàng ngày hay hàng tuần, đó là một quá trình tạo nên niềm phấn chấn, nhưng cũng khiến người ta kiệt sức và suy nhược. Dance đồng cảm quá, liên quan đến các đối tượng của cô chặt chẽ quá, tới nỗi rất lâu sau khi những cuộc phỏng vấn đã chấm dứt rồi, cô vẫn còn cảm thấy những cảm xúc của họ. Cô cứ nghe thấy những giọng nói của họ văng vẳng trong tâm trí, xoay tròn bất tận trong suy nghĩ của cô.
    Si, si[61], được, si, tôi giết cô ta. Tôi cắt cổ cô ta... Ối cha, cả con trai cô ta nữa, thirc;i cần nó cho một cuộc điều tra.”
    Jefferies liếc nhìn cô thư ký phòng hồ sơ. Cô ta đang đứng ở hành lang.
    “Chúng ta không có nó, thưa sếp. Tôi đã bảo chị ta vậy.”
    “Cô chắc chắn nó được chuyển đến đây à?”
    Sachs nói: “Số đăng ký ở đồn chuyển đi cho biết nó được chuyển đến đây.”
    “Nó có được vào sổ không?”, Jefferies hỏi cô thư ký.
    “Không ạ.”
    “Hãy vào văn phòng tôi, thám tử. Tôi sẽ xem chúng ta có thể làm gì.”
    Sachs phớt lờ cô thư ký. Cô không muốn cô ta cảm thấy hài lòng.
    Họ đi dọc một hành lang chẳng có gì đặc biệt, ngoặt chỗ này, ngoặt chỗ kia, hoàn toàn im lặng. Sachs phải chiến đấu với đôi chân mắc chứng viêm khớp để theo kịp tốc độ của người đàn ông.
    Thanh tra Jefferies sải bước vào văn phòng mình nằm ở một góc tòa nhà, hất đầu về phía chiếc ghế dựa đối diện với ghế ông ta qua chiếc bàn làm việc, và đóng cánh cửa bên trên có gắn tấm biển bằng đồng đề Halston P. Jefferies.
    Sachs ngồi xuống.
    Jefferies bỗng nhiên chống hai tay xuống cúi về phía Sachs, mặt ông ta chỉ cách mặt cô chừng nửa gang. Ông ta đấm nắm tay lên bàn. “Cô nghĩ cô đang làm cái chết tiệt gì?”
    Sachs ngã người ra sau, cảm thấy hơi thở nóng, đẩy mùi tỏi của ông ta phủ khắp mặt mình. “Tôi… Ý ông là gì?” Cô nuốt lại hai từ “thưa ông” mà cô suýt thêm vào câu hỏi.
    “Cô từ đâu ra?”
    “Từ đâu?”
    “Cô, con bé lính mới chết tiệt, cô thuộc đồn nào?”
    Trong khoảnh khắc, Sachs không thể cất nổi lời, cô choáng váng trước cơn giận dữ của người đàn ông.
    “Về nguyên tắc, tôi làm việc tại bộ phận Các vụ trọng án…”
    “Cô nói về nguyên tắc nghĩa là cái quái gì hả? Cô đang làm việc cho ai?”
    “Tôi là thám tử chính trong vụ này. Người giám sát tôi là Lon Sellitto. Bộ phận Các vụ trọng án. Tôi…”
    “Cô chưa phải là thám tử…”
    “Tôi...”
    “Đừng bao giờ ngắt lời một sĩ quan cấp cao hơn. Đừng bao giờ. Cô hiểu ý tôi chứ?”
    Sachs hoảng sợ. Cô không nói gì.
    “Cô hiểu ý tôi chứ?”, Jefferies quát to.
    “Đã rõ.”
    “Cô chưa phải là thám tử có kinh nghiệm, đúng không?”
    “Vâng.”
    “Tôi biết điều ấy, bởi một thám tử sẽ tuân theo các nguyên tắc. Cô ta sẽ tới gặp viên phó thanh tra, tự giới thiệu mình và hỏi xem liệu có thể đọc lại một hồ sơ hay không. Việc cô đã làm… Cô định ngắt lời tôi lần nữa à?”
    Quả thật Sachs định ngắt lời ông ta. Nhưng cô trả lời: “Không.”
    “Việc cô đã làm là sự xúc phạm đến cá nhân tôi.” Một tia nước bọt bắn ra tựa một làn đạn súng cối.
    Jefferies dừng lại. Nói bây giờ thì có phải là ngắt lời? Sachs chẳng thèm quan tâm. “Tôi không định xúc phạm ông. Tôi chỉ đang tiến hành điều tra. Tôi cần một hồ sơ mà đã được phát hiện ra là bị thất lạc.”
    “Đã được phát hiện ra là bị thất lạc. Nói như thế nghĩa là thế nào? Hoặc là nó được phát hiện ra hoặc là nó bị thất lạc. Nếu cô cũng cẩu thả với việc điều tra như với việc sử dụng ngôn ngữ, thì tôi tự hỏi phải chăng chính cô đã đánh mất hồ sơ đó và đang cố gắng lấp liếm đi bằng cách đổ tội cho chúng tôi.”
    “Hồ sơ đó đã được đăng ký rút ra ở đồn 131 và được chuyển đến đây.”
    “Do ai?”, Jefferies hỏi gay gắt.
    “Đó là vấn đề. Mục này trong sổ đăng ký bị bỏ trống.”
    “Có những hồ sơ khác được rút ra chuyển đến đây không?” Jefferies ngồi trên mép bàn làm việc và cúi nhìn Sachs chằm chằm.
    Sachs cau mày.
    Ông ta tiếp tục: “Có hồ sơ nào từ bất cứ chỗ nào khác không?”.
    “Tôi không hiểu ông muốn nói gì?”
    “Cô có biết tôi làm gì ở đây không?”
    “Xin lỗi?”
    “Công việc của tôi ở 158 là gì?”
    “À, tôi cho rằng ông phụ trách đồn này.”
    “Cô cho rằng”, Jefferies chế nhạo. “Tôi từng biết những cảnh sát chết ngoài phố vì họ cứ hay cho rằng. Bị bắn chết tươi.”
    Cuộc đối thoại đang trở nên lê thê. Ánh mắt Sachs chuyển sang vẻ lạnh lùng và bám riết ánh mắt Jefferies. Việc này đối với cô chẳng khó khăn gì.
    Jefferies hầu như không để ý. Ông ta nói gay gắt: “Ngoài chuyện phụ trách đồn này, theo như suy luận thông minh của cô, tôi còn phụ trách ủy ban phân bổ nhân lực toàn sở. Mỗi năm, tôi duyệt hàng nghìn hồ sơ, tôi nhìn nhận các xu thế, quyết định phải thay đổi nhân sự ra sao để giải quyết khối lượng công việc. Tôi hợp tác chặt chẽ với cấp thành phố và bang nhằm đảm bảo rằng chúng ta đạt được cái chúng ta cần. Có lẽ cô nghĩ đấy là lãng phí thời gian, hả?”
    “Tôi không...”
    “Chà, chẳng lãng phí thời gian đâu, bà trẻ. Những hồ sơ đó do tôi xem xét và chúng được trả về... Nào, cái báo cáo mà cô đang quan tâm quá thể này là gì vậy?”
    Bỗng nhiên, Sachs không muốn Jefferies biết. Toàn bộ sự việc thật đáng khó chịu. Lập luận một cách logic thì nếu ông ta phải giấu giếm chuyện gì, có lẽ ông ta sẽ chẳng cư xử ngu ngốc thế này. Nhưng, mặt khác, có thể ông ta đã diễn kịch để đánh lạc hướng nghi ngờ. Cô nghĩ lại. Cô mới chỉ đưa cho cô thư ký số hồ sơ chứ chưa nói tên Sarkowski. Nhiều khả năng là cái kẻ lơ đãng đó không nhớ được dãy số dài dằng dặc.
    Sachs đáp bình thản: “Tôi không muốn nói với ông.”
    Jefferies chớp mắt. “Cô...?”
    “Tôi không định nói với ông.”
    Jefferies gật đầu. Ông ta có vẻ bình tĩnh. Rồi ông ta lại cúi về phía trước và đấm nắm tay lên bàn. “Đồ chết tiệt, cô phải nói với tôi. Tôi muốn cô nói tên vụ án và tôi muốn cô nói ngay bây giờ.”
    “Không.”
    “Tôi sẽ cho cô bị đình chỉ công tác vì bất tuân mệnh lệnh thượng cấp.”
    “Ông hãy làm việc gì ông phải làm, thanh tra.”
    “Cô sẽ nói với tôi tên hồ sơ. Và cô sẽ nói với tôi ngay bây giờ.”
    “Không, tôi sẽ không nói.”
    “Tôi sẽ gọi cho người giám sát cô.” Giọng Jefferies lạc đi. Ông ta đang trở nên cuồng loạn. Sachs thực sự đã tự hỏi phải chăng ông ta sẽ đánh cô.
    “Ông ấy không biết về nó.”
    “Cô vẫn cứng đầu cứng cổ thế à”, Jefferies nói, giọng giận sôi sùng sục. “Cô nghĩ là cô được đeo chiếc phù hiệu vàng, cô biết mọi điều có thể biết về nghề cảnh sát. Cô là đồ nhãi ranh, cô chỉ là đồ nhãi ranh. Cô đến đồn của tôi, buộc tội tôi đánh cắp hồ sơ...”
    “Tôi không...”
    “Bất tuân mệnh lệnh thượng cấp, cô xúc phạm tôi, cô ngắt lời tôi. Cô không hề biết là một cảnh sát thì phải như thế nào.”
    Sachs bình thản nhìn Jefferies. Cô đã lọt vào một chốn khác – cái hầm chứa đầy gió xoáy của riêng mình cô. Cô biết cuộc đối đầu này có thể đưa tới tai họa, nhưng ngay bây giờ thì ông ta không thể động đến cô. “Tôi đi đây.”
    “Cô đang sà vào rắc rối nghiêm trọng đấy, bà trẻ. Tôi nhớ số phù hiệu cô đeo rồi. 5585. Nghĩ là tôi không nhớ à? Tôi sẽ xem cô nhận lệnh bị bắt giữ. Cô thích suốt ngày lục lọi giấy tờ như thế nào hả? Cô đừng mò vào đồn của một người rồi xúc phạm đến người ta.”
    Sachs sải bước qua Jefferies, đẩy cho cánh cửa mở toang và vội vã đi ra phía đầu hành lang. Hai bàn tay cô bắt đầu run rẩy, hơi thở trở nên gấp gáp.
    Giọng ông ta, gần như là thét lên, đuổi theo cô dọc hành lang: “Tôi sẽ nhớ số phù hiệu cho cô. Tôi sẽ gọi điện cho người ta. Nếu cô còn quay lại đây, cô sẽ phải hối tiếc. Bà trẻ, cô đã nghe thấy tôi nói chưa?”.

    *

    Trung sĩ lục quân Mỹ Lucy Richter khóa cái cửa hiệu cũ kỹ (là phần phía trước ngôi nhà) ở khu Greenwich Village, bước vào phòng ngủ, nơi cô cởi bỏ bộ đồng phục màu xanh lá cây đậm, với những cuống huy chương được cài thành hàng thẳng tắp và những dải băng thể hiện những chiến dịch mà cô tham gia. Cô muốn ném nó lên giường nhưng, tất nhiên, cô vẫn cẩn thận treo nó vào tủ, cả chiếc sơ mi nữa, và cất chứng minh thư cùng huy hiệu an ninh vào túi áo ngực, đó là nơi cô luôn luôn cất những thứ ấy. Rồi cô lau chùi sạch sẽ và đánh bóng đôi giày trước khi cẩn thận xếp nó lên giá gắn trên cánh cửa tủ.
    Tắm ào một cái dưới vòi hoa sen, rồi quấn xung quanh người chiếc áo choàng hồng cũ kỹ, Lucy ngồi bó gối trên tấm thảm xù xì trải sàn phòng ngủ, đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Cặp mắt cô lướt qua những tòa nhà bên kia phố Barrow, những ngọn đèn lấp lóe giữa='height:10px;'>
    “Thật tệ.” Rhyme quan sát Dance. “Nhưng tôi cảm thấy câu chuyện còn tiếp tục.”
    “Rất tiếc là đúng thế. Hai ngày sau phiên tòa, Hanson đã tìm thấy vợ và con gái tại ga ra của một trung tâm mua sắm, dùng dao đâm chết họ. Bạn trai của cô con gái đi cùng. Hắn cũng giết luôn cậu ta. Hắn bỏ trốn khỏi vùng và cuối cùng bị bắt, sau một năm.”
    Dance nhấm nháp cà phê. “Sau vụ án mạng, bên khởi tố cố gắng xác định xem phiên tòa kia có điều gì không ổn. Họ đề nghị tôi nghiên cứu biên bản ghi chép lại cuộc phỏng vấn ban đầu tại phòng cảnh sát quận.” Cô cười thành tiếng cay đắng. “Khi tôi nghiên cứu phiên bản này, tôi bị bối rối. Hanson quá thông minh và viên cảnh sát phỏng vấn hắn hoặc lười biếng hoặc thiếu kinh nghiệm. Hanson khiến anh ta như con cá phải lội ngược dây câu đến kiệt sức. Rốt cuộc hắn biết đủ về việc lập vụ án của bên khởi tối và đã phá hoại nó hoàn toàn, ai là nhân chứng để đến hăm dọa, chứng cứ nào hắn nên hủy đi, chứng cứ ngoại phạm nào hắn nên bố trí.”
    “Và tôi đồ rằng hắn còn có được thông tin khác nữa”, Rhyme vừa nói vừa lắc đầu.
    “Ồ, vâng. Viên cảnh sát đã hỏi hắn đến Mill Valley bao giờ chưa. Và rồi nói hắn có hay tới những trung tâm mua sắm ở hạt Miller không. Như thế là đủ thông tin để hắn biết nơi vợ cũ và con gái thỉnh thoảng vẫn tới mua sắm. Về cơ bản, hắn chỉ cần rình rập xung quanh Mill Valley cho tới lúc họ xuất hiện. Chính ở đó hắn sát hại họ, và họ không có sự bảo vệ của cảnh sát vì địa điểm thuộc một hạt khác mất rồi.”
    Đêm hôm ấy, tôi lái xe về nhà theo tuyến đường Một, quốc lộ Bờ Thái Bình Dương, chứ không theo 101, cái xa lộ lớn. Tôi cứ nghĩ, mình đây mỗi tiếng đồng hồ được trả một trăm năm mươi đô la bởi bất cứ ai cần tư vấn về việc lựa chọn bồi thẩm đoàn. Như thế hoàn toàn bình thường, chẳng có gì trái đạo đức, đó là cách thức hoạt động của cả hệ thống xã hội này. Nhưng tôi không thể nào không nghĩ nếu chính tôi thực hiện cuộc phỏng vấn, hẳn Hanson đã vào tù và ba con người kia đã không chết.
    Hai ngày sau, tôi đăng ký theo một khóa đào tạo tại học viện cảnh sát, và phần còn lại, như ta vẫn hay nói, là chuyện cũ rích rồi. Nào, bây giờ, tới sự tích ly kỳ của anh?”
    “Tôi đã quyết định trở thành cảnh sát ra sao ấy à?” Rhyme nhún vai. “Không ấn tượng như câu chuyện của chị. Thực tế thì không thú vị gì... chỉ là sa chân thôi.”
    “Thật ư?”
    Rhyme bật cười.
    Dance cau mày.
    “Chị không tin tôi.”
    “Xin lỗi, tôi đang nghiên cứu anh chăng? Tôi cố gắng tránh điều đó. Con gái tôi bảo rằng đôi lúc tôi nhìn nó như thể nó là con chuột thí nghiệm vậy.”
    Rhyme làm thêm một hơi Scotch và nói với nụ cười rụt rè: “Thế thì?”.
    Dance nhướn một bên lông mày. “Thế thì?”
    “Tôi, một người bị như tôi, là một câu đố hóc búa đối với một chuyên gia về ngôn ngữ hình thể. Chị không thực sự giải được, hả?”
    Dance bật cười. “Ồ, tôi giải được tốt. Anh để lộ ra qua cặp mắt, gương mặt và cái đầu nhiều chẳng kém gì một người sử dụng toàn bộ cơ thể.”
    “Thật ư?”
    “Thực tế là còn dễ dàng đoán định hơn bình thường, vì các thông điệp tập trung hơn.”
    “Hừm, tôi là một cuốn sách mở?”
    “Không ai là một cuốn sách mở cả. Nhưng có những cuốn sách dễ dàng đọc được hơn những cuốn sách khác.”
    “Tôi nhớ chị đã đề cập tới những trạng thái phản ứng khi chị tiến hành phỏng vấn người nào đó. Giận dữ, chán nản, phủ nhận, thương lượng... Sau tai nạn, tôi phải trải qua vô số các bước trị liệu. Không muốn, nhưng khi người ta phải nằm thẳng đơ, người ta có thể làm được gì chứ? Bác sĩ tâm lý nói với tôi về những giai đoạn của sự đau khổ. Chúng hoàn toàn giống những trạng thái kia.”
    Kathryn Dance biết rất rõ ràng về những giai đoạn của sự đau khổ. Nhưng, một lần nữa, đây đâu phải chủ đề cho ngày hôm nay. “Thật thú vị khi tìm hiểu xem đầu óc vốn vẫn đối phó với nghịch cảnh như thế nào, dù là chấn thương cơ thể hay căng thẳng tình cảm.”
    Rhyme nhìn ra chỗ khác. “Tôi thường xuyên chiến đấu với nỗi tức giận.”
    Cặp mắt màu xanh lá cây thẫm của Dance không rời khỏi Rhyme, và cô lắc đầu. “Ồ, anh còn lâu mới hay tức giận như anh tự nghĩ.”
    “Tôi là một kẻ què quặt”, Rhyme nói gay gắt. “Tất nhiên tôi hay tức giận rồi.”
    “Và tôi là một nữ cảnh sát. Thế thì cả hai chúng ta đều có quyền được đôi lúc bực bội. Và chán nản vì đủ thứ lý do. Và phủ nhận hoàn cảnh. Nhưng tức giận? Không, không phải anh. Anh đã tiếp tục bước. Anh ở trạng thái chấp nhận.”
    “Khi tôi không lần theo dấu vết những kẻ giết người – một cái hất đầu về phía tấm bảng chứng cứ – tôi thực hiện vật lý trị liệu. Theo Thom thì tích cực hơn rất nhiều so với mức cần thiết. Nói chung, đến phát ngán lên được. Đó khó có thể là những gì mang tính chấp nhận.”
    “Sự chấp nhận không phải như thế. Anh chấp nhận hoàn cảnh và anh chiến đấu lại. Anh đâu ngồi ì ra cả ngày. Ồ, xin lỗi, tôi chắc rằng anh phải ngồi cả ngày.”
    Lời xin lỗi chẳng thực sự là lời xin lỗi. Rhyme không nhịn được cười rũ rượi và Dance thấy cô đã ghi điểm cao với câu nói đùa. Cô đánh giá rằng Rhyme thuộc loại ít coi trọng tính tế nhị.
    “Anh chấp nhận thực tế. Anh cố gắng thay đổi nó nhưng anh không tự lừa dối bản thân. Nó là một thách thức, nó khó khăn làm sao, nhưng nó không khiến anh tức giận.”
    “Tôi nghĩ là chị nhầm.”
    “À, anh vừa chớp mắt hai lần. Phản ứng trước sự căng thẳng. Anh không tin tưởng những gì anh đang nói.”
    “Chị là một phụ nữ chẳng dễ dàng bị bắt bẻ.” Rhyme uống cạn cốc rượu.
    “A, Lincoln, tôi đã có xuất phát điểm của anh. Anh không đánh lừa tôi được. Nhưng yên tâm. Bí mật của anh sẽ an toàn.”
    Cửa chính mở ra. Amelia Sachs bước vào căn phòng. Cô cởi phăng chiếc áo khoác ngắn và hai người phụ nữ chào nhau. Thái độ cùng ánh mắt của cô cho thấy cô rõ ràng đang có cái gì khiến cô phải lo lắng. Cô đi đến bên cửa sổ phía trước và nhìn ra ngoài, rồi kéo tấm mành mành xuống.
    “Có chuyện gì vậy?”, Rhyme hỏi.
    “Một chị hàng xóm vừa gọi điện cho em. Chị ta bảo hôm nay có người đã tới tòa nhà em ở và hỏi về em. Người này xưng tên là Joey Treffano. Em từng làm việc với Joey tại bộ phận Tuần tra. Anh ta muốn biết em hiện tại thế nào, đặt rất nhiều câu hỏi, xem xét tòa nhà. Chị hàng xóm thấy việc này là lạ nên gọi điện cho em.”
    “Và em nghĩ có người đã giả danh Joey? Không phải anh ta?”
    “Chắc chắn. Anh ta đã ra khỏi ngành năm ngoái và chuyển tới Montana.”
    “Có thể anh ta trở về chơi, muốn đến thăm em.”
    “Nếu thế thì đó la hồn ma anh ta. Anh ta đã chết trong một tai nạn xe máy mùa xuân năm ngoái rồi... Và cả Ron lẫn em đều bị bám đuôi. Và trước đấy, cũng hôm nay, có kẻ lục soát cái xắc của em. Em để nó trong xe, khóa lại. Bọn chúng mở trộm khóa.”
    “Ở đâu?”
    “Hiện trường trên phố Spring, gần xưởng hoa.”
    Đến đây, Kathryn Dance thấy gờn gợn một cái gì đó trong tiềm thức. Cuối cùng, cô đã tóm được trí nhớ của mình. “Có điều này tôi phải nói... Cũng có thể chẳng quan trọng gì, tuy nhiên đáng nói ra.”
    Đã muộn, nhưng Rhyme vẫn gọi tất cả mọi người tới. Sellitto, Cooper, Pulaski và Baker.
    Bây giờ thì Amelia Sachs đang thận trọng quan sát họ. Cô nói: “Chúng ta gặp một vấn đề mà tôi muốn các anh biết. Có kẻ đang bám đuôi tôi và Ron. Và Kathryn vừa bảo tôi rằng chị ấy nghĩ chị ấy cũng nhìn thấy ai đó”.
    Nữ chuyên gia về ngôn ngữ hình thể gật đầu.
    Rồi Sachs liếc sang Pulaski. “Anh nói với tôi rằng anh nghĩ là đã nhìn thấy chiếc Mercedes đó. Anh có nhìn thấy nó lần nữa không?”
    “Không. Từ chiều tới giờ thì không thấy.”
    “Anh thì sao, Mel? Có gì bất bình thường không?”
    “Tôi nghĩ là không.” Anh chàng mảnh khảnh đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi. “Nhưng tôi chẳng bao giờ để ý cả. Kỹ thuật viên phòng thí nghiệm không quen với việc bị bám đuôi mà.”
    Sellitto nói ông ta cho rằng mình có vẻ đã nhìn thấy ai đó, nhưng không chắc chắn.
    “Dennis, hôm nay lúc ở Brooklyn, anh cảm thấy có người đang theo dõi anh à?”, Sachs hỏi Baker.
    Anh ta thoáng chững lại.
    “Tôi? Tôi có ở Brooklyn đâu.”
    Sachs cau mày. “Nhưng... anh không ở đó?”
    Baker lắc đầu. “Không.”
    Sachs quay sang Dance lúc này đang cẩn thận quan sát Baker. Nữ nhân viên mật vụ California gật đầu.
    Bàn tay Sachs lần đến khẩu Glock và cô quay về phía Baker.
    “Dennis, đưa hai bàn tay anh ra cho chúng tôi thấy.”
    Cặp mắt anh ta mở to. “Cái gì?”
    “Chúng ta cần nói chuyện một chút.”
    Không người nào khástyle='height:10px;'>
    Và giờ đây, Lucy quay lại một xứ sở với những đường nét in lên nền trời, không có gia súc ngay bên ngoài các tiệm ăn hay các quầy hàng của Food Emporium[58], không có cát, không có mặt trời thiêu đốt... không có sương mù đắng nghét.
    Rất khác cuộc sống của cô ở nước ngoài.
    Tuy nhiên, Lucy Richter vẫn hầu như chẳng cảm thấy thanh thản. Đó là lý do tại sao cô đang đăm đăm nhìn về phía nam, tìm kiếm những câu trả lời cho Nỗi Trống Trải Mênh Mông của cái phong cảnh đã thay đổi.
    Có hay không...
    Chuông điện thoại kêu khiến Lucy giật mình. Gần đây cô thường xuyên giật mình như thế này – trước mọi tiếng động đột ngột. Chuông điện thoại, cánh cửa đóng đánh sầm...
    Ớn lạnh... Lucy nhấc điện thoại lên.
    “A lô.”
    “Cậu à.” Đó là một người bạn thân của Lucy sống ở khu vực này.
    “Claire.”
    “Có chuyện gì thế?”
    “Chỉ hơi lạnh thôi.”
    “Này, cậu đang ở múi giờ nào đấy?”
    “Chúa mới biết được.”
    “Bob có nhà không?”
    “Không. Làm muộn.”
    “Tốt, gặp tớ chén bánh pho mát đi.”
    Chỉ bánh pho mát thôi à?” Lucy hỏi thẳng thắn.
    “Cocktail Bạch Nga nhé?”
    “Cậu đang ở sân bóng chày hả. Đi nào.”
    Hai cô lựa chọn một quán ăn mở ban đêm gần đó và dập máy.
    Nhìn lần cuối cùng bầu trời phía nam đen ngòm trống trải, Lucy đứng dậy, mặc áo len và áo khoác ngắn trượt tuyết, đội mũ, rời khỏi cửa hiệu. Cô đi theo lối cầu thang tối lờ mờ dẫn xuống cánh cửa thứ nhất.
    Cô dừng lại, chớp mắt ngạc nhiên trước một bóng người hiện lên bất thình lình.
    “Lucy à”, tỏa mùi long não và thuốc lá, ông quản lý tòa nhà – khi cô lớn lên thì ông ta đã già – đang vác những chồng báo buộc vào nhau ra vỉa hè. Nặng hơn đến mười mấy cân và cao hơn chừng nửa gang, Lucy giằng lấy hai chồng báo từ tay ông ta.
    “Không”, ông ta phản đối.
    “Ông Giradello, tôi phải tập thể dục để giữ dáng đấy.”
    “À, giữ dáng à ? Cô khỏe hơn thẳng con trai tôi.”
    Ở bên ngoài, cái lạnh làm mũi và môi Lucy đau nhói. Cô vốn vẫn mê cảm giác này.
    “Lúc tối, tôi trông thấy cô mặc quân phục. Cô được trao tặng phần thưởng à?”
    “Thứ Năm này ạ. Hôm nay chỉ là buổi diễn tập. Mà đó không phải phần thưởng. Đó là tuyên dương.”
    “Sự khác nhau là gì?”
    “Câu hỏi hay đấy ạ. Tôi cũng chẳng biết lắm. Tôi nghĩ người ta giành đượcmột phần thưởng. Tuyên dương thì thay cho tăng lương.” Lucy xếp chỗ báo bỏ đi trên lề đường.
    “Cha mẹ cô sẽ tự hào.” Một câu khẳng định, không phải câu hỏi.
    “Chắc chắn ạ.”
    “Cho tôi gửi lời chào ông bà.”
    “Vâng. Thôi ạ, ông Giradello, tôi đang chết cóng đây. Tôi phải đi. Ông giữ gìn sức khỏe nhé.”
    “Tạm biệt cô.”
    Lucy bắt đầu bước dọc vỉa hè. Cô để ý thấy một chiếc Buick màu lam thẫm đỗ bên kia phố. Hai người đàn ông ngồi trong xe. Người ngồi ở ghế hành khác liếc nhìn cô rồi cúi xuống. Gã cầm lên một lon soda và uống như chết khát. Lucy nghĩ: Ai lại đi thèm một thức uống lạnh vào thời tiết này? Bản thân cô đang muốn một tách cà phê Ireland nóng sôi sùng sục với một suất đúp Bushmills. Tất nhiên, cả kem đánh nữa.
    Rồi Lucy liếc nhìn xuống vỉa hè, đột ngột dừng lại và thay đổi hướng đi. Thật buồn cười, Lucy Richter tự nhủ rằng những mảng băng trơn trượt có lẽ là mối nguy hiểm duy nhất mà cô chưa gặp phải suốt mười tám tháng qua.

    Ghi chú

    [56] Vùng miền Nam ấm áp của nước Mỹ, thông thường được coi là bao gồm các bang Arizona, California, Florida, Nevada, New Mexico, Texas, Georgia...
    [57] Một bộ phim đoạt giải Emmy, giải thưởng dành cho phim truyền hình của Mỹ, bắt đầu chiếu từ ngày 5 tháng Bảy năm 1989 và kéo dài tới ngày 14 tháng Năm năm 1998.
    [58] Hệ thống các cửa hàng bán lẻ thực phẩm, ở thành phố New York có khoảng ba mươi cửa hàng.

    Truyện TRĂNG LẠNH ---~~~cungtacgia~~~---

    9 Tác phẩm

    “Thật tệ.” Rhyme quan sát Dance. “Nhưng tôi cảm thấy câu chuyện còn tiếp tục.”
    “Rất tiếc là đúng thế. Hai ngày sau phiên tòa, Hanson đã tìm thấy vợ và con gái tại ga ra của một trung tâm mua sắm, dùng dao đâm chết họ. Bạn trai của cô con gái đi cùng. Hắn cũng giết luôn cậu ta. Hắn bỏ trốn khỏi vùng và cuối cùng bị bắt, sau một năm.”
    Dance nhấm nháp cà phê. “Sau vụ án mạng, bên khởi tố cố gắng xác định xem phiên tòa kia có điều gì không ổn. Họ đề nghị tôi nghiên cứu biên bản ghi chép lại cuộc phỏng vấn ban đầu tại phòng cảnh sát quận.” Cô cười thành tiếng cay đắng. “Khi tôi nghiên cứu phiên bản này, tôi bị bối rối. Hanson quá thông minh và viên cảnh sát phỏng vấn hắn hoặc lười biếng hoặc thiếu kinh nghiệm. Hanson khiến anh ta như con cá phải lội ngược dây câu đến kiệt sức. Rốt cuộc hắn biết đủ về việc lập vụ án của bên khởi tối và đã phá hoại nó hoàn toàn, ai là nhân chứng để đến hăm dọa, chứng cứ nào hắn nên hủy đi, chứng cứ ngoại phạm nào hắn nên bố trí.”
    “Và tôi đồ rằng hắn còn có được thông tin khác nữa”, Rhyme vừa nói vừa lắc đầu.
    “Ồ, vâng. Viên cảnh sát đã hỏi hắn đến Mill Valley bao giờ chưa. Và rồi nói hắn có hay tới những trung tâm mua sắm ở hạt Miller không. Như thế là đủ thông tin để hắn biết nơi vợ cũ và con gái thỉnh thoảng vẫn tới mua sắm. Về cơ bản, hắn chỉ cần rình rập xung quanh Mill Valley cho tới lúc họ xuất hiện. Chính ở đó hắn sát hại họ, và họ không có sự bảo vệ của cảnh sát vì địa điểm thuộc một hạt khác mất rồi.”
    Đêm hôm ấy, tôi lái xe về nhà theo tuyến đường Một, quốc lộ Bờ Thái Bình Dương, chứ không theo 101, cái xa lộ lớn. Tôi cứ nghĩ, mình đây mỗi tiếng đồng hồ được trả một trăm năm mươi đô la bởi bất cứ ai cần tư vấn về việc lựa chọn bồi thẩm đoàn. Như thế hoàn toàn bình thường, chẳng có gì trái đạo đức, đó là cách thức hoạt động của cả hệ thống xã hội này. Nhưng tôi không thể nào không nghĩ nếu chính tôi thực hiện cuộc phỏng vấn, hẳn Hanson đã vào tù và ba con người kia đã không chết.
    Hai ngày sau, tôi đăng ký theo một khóa đào tạo tại học viện cảnh sát, và phần còn lại, như ta vẫn hay nói, là chuyện cũ rích rồi. Nào, bây giờ, tới sự tích ly kỳ của anh?”
    “Tôi đã quyết định trở thành cảnh sát ra sao ấy à?” Rhyme nhún vai. “Không ấn tượng như câu chuyện của chị. Thực tế thì không thú vị gì... chỉ là sa chân thôi.”
    “Thật ư?”
    Rhyme bật cười.
    Dance cau mày.
    “Chị không tin tôi.”
    “Xin lỗi, tôi đang nghiên cứu anh chăng? Tôi cố gắng tránh điều đó. Con gái tôi bảo rằng đôi lúc tôi nhìn nó như thể nó là con chuột thí nghiệm vậy.”
    Rhyme làm thêm một hơi Scotch và nói với nụ cười rụt rè: “Thế thì?”.
    Dance nhướn một bên lông mày. “Thế thì?”
    “Tôi, một người bị như tôi, là một câu đố hóc búa đối với một chuyên gia về ngôn ngữ hình thể. Chị không thực sự giải được, hả?”
    Dance bật cười. “Ồ, tôi giải được tốt. Anh để lộ ra qua cặp mắt, gương mặt và cái đầu nhiều chẳng kém gì một người sử dụng toàn bộ cơ thể.”
    “Thật ư?”
    “Thực tế là còn dễ dàng đoán định hơn bình thường, vì các thông điệp tập trung hơn.”
    “Hừm, tôi là một cuốn sách mở?”
    “Không ai là một cuốn sách mở cả. Nhưng có những cuốn sách dễ dàng đọc được hơn những cuốn sách khác.”
    “Tôi nhớ chị đã đề cập tới những trạng thái phản ứng khi chị tiến hành phỏng vấn người nào đó. Giận dữ, chán nản, phủ nhận, thương lượng... Sau tai nạn, tôi phải trải qua vô số các bước trị liệu. Không muốn, nhưng khi người ta phải nằm thẳng đơ, người ta có thể làm được gì chứ? Bác sĩ tâm lý nói với tôi về những giai đoạn của sự đau khổ. Chúng hoàn toàn giống những trạng thái kia.”
    Kathryn Dance biết rất rõ ràng về những giai đoạn của sự đau khổ. Nhưng, một lần nữa, đây đâu phải chủ đề cho ngày hôm nay. “Thật thú vị khi tìm hiểu xem đầu óc vốn vẫn đối phó với nghịch cảnh như thế nào, dù là chấn thương cơ thể hay căng thẳng tình cảm.”
    Rhyme nhìn ra chỗ khác. “Tôi thường xuyên chiến đấu với nỗi tức giận.”
    Cặp mắt màu xanh lá cây thẫm của Dance không rời khỏi Rhyme, và cô lắc đầu. “Ồ, anh còn lâu mới hay tức giận như anh tự nghĩ.”
    “Tôi là một kẻ què quặt”, Rhyme nói gay gắt. “Tất nhiên tôi hay tức giận rồi.”
    “Và tôi là một nữ cảnh sát. Thế thì cả hai chúng ta đều có quyền được đôi lúc bực bội. Và chán nản vì đủ thứ lý do. Và phủ nhận hoàn cảnh. Nhưng tức giận? Không, không phải anh. Anh đã tiếp tục bước. Anh ở trạng thái chấp nhận.”
    “Khi tôi không lần theo dấu vết những kẻ giết người – một cái hất đầu về phía tấm bảng chứng cứ – tôi thực hiện vật lý trị liệu. Theo Thom thì tích cực hơn rất nhiều so với mức cần thiết. Nói chung, đến phát ngán lên được. Đó khó có thể là những gì mang tính chấp nhận.”
    “Sự chấp nhận không phải như thế. Anh chấp nhận hoàn cảnh và anh chiến đấu lại. Anh đâu ngồi ì ra cả ngày. Ồ, xin lỗi, tôi chắc rằng anh phải ngồi cả ngày.”
    Lời xin lỗi chẳng thực sự là lời xin lỗi. Rhyme không nhịn được cười rũ rượi và Dance thấy cô đã ghi điểm cao với câu nói đùa. Cô đánh giá rằng Rhyme thuộc loại ít coi trọng tính tế nhị.
    “Anh chấp nhận thực tế. Anh cố gắng thay đổi nó nhưng anh không tự lừa dối bản thân. Nó là một thách thức, nó khó khăn làm sao, nhưng nó không khiến anh tức giận.”
    “Tôi nghĩ là chị nhầm.”
    “À, anh vừa chớp mắt hai lần. Phản ứng trước sự căng thẳng. Anh không tin tưởng những gì anh đang nói.”
    “Chị là một phụ nữ chẳng dễ dàng bị bắt bẻ.” Rhyme uống cạn cốc rượu.
    “A, Lincoln, tôi đã có xuất phát điểm của anh. Anh không đánh lừa tôi được. Nhưng yên tâm. Bí mật của anh sẽ an toàn.”
    Cửa chính mở ra. Amelia Sachs bước vào căn phòng. Cô cởi phăng chiếc áo khoác ngắn và hai người phụ nữ chào nhau. Thái độ cùng ánh mắt của cô cho thấy cô rõ ràng đang có cái gì khiến cô phải lo lắng. Cô đi đến bên cửa sổ phía trước và nhìn ra ngoài, rồi kéo tấm mành mành xuống.
    “Có chuyện gì vậy?”, Rhyme hỏi.
    “Một chị hàng xóm vừa gọi điện cho em. Chị ta bảo hôm nay có người đã tới tòa nhà em ở và hỏi về em. Người này xưng tên là Joey Treffano. Em từng làm việc với Joey tại bộ phận Tuần tra. Anh ta muốn biết em hiện tại thế nào, đặt rất nhiều câu hỏi, xem xét tòa nhà. Chị hàng xóm thấy việc này là lạ nên gọi điện cho em.”
    “Và em nghĩ có người đã giả danh Joey? Không phải anh ta?”
    “Chắc chắn. Anh ta đã ra khỏi ngành năm ngoái và chuyển tới Montana.”
    “Có thể anh ta trở về chơi, muốn đến thăm em.”
    “Nếu thế thì đó la hồn ma anh ta. Anh ta đã chết trong một tai nạn xe máy mùa xuân năm ngoái rồi... Và cả Ron lẫn em đều bị bám đuôi. Và trước đấy, cũng hôm nay, có kẻ lục soát cái xắc của em. Em để nó trong xe, khóa lại. Bọn chúng mở trộm khóa.”
    “Ở đâu?”
    “Hiện trường trên phố Spring, gần xưởng hoa.”
    Đến đây, Kathryn Dance thấy gờn gợn một cái gì đó trong tiềm thức. Cuối cùng, cô đã tóm được trí nhớ của mình. “Có điều này tôi phải nói... Cũng có thể chẳng quan trọng gì, tuy nhiên đáng nói ra.”
    Đã muộn, nhưng Rhyme vẫn gọi tất cả mọi người tới. Sellitto, Cooper, Pulaski và Baker.
    Bây giờ thì Amelia Sachs đang thận trọng quan sát họ. Cô nói: “Chúng ta gặp một vấn đề mà tôi muốn các anh biết. Có kẻ đang bám đuôi tôi và Ron. Và Kathryn vừa bảo tôi rằng chị ấy nghĩ chị ấy cũng nhìn thấy ai đó”.
    Nữ chuyên gia về ngôn ngữ hình thể gật đầu.
    Rồi Sachs liếc sang Pulaski. “Anh nói với tôi rằng anh nghĩ là đã nhìn thấy chiếc Mercedes đó. Anh có nhìn thấy nó lần nữa không?”
    “Không. Từ chiều tới giờ thì không thấy.”
    “Anh thì sao, Mel? Có gì bất bình thường không?”
    “Tôi nghĩ là không.” Anh chàng mảnh khảnh đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi. “Nhưng tôi chẳng bao giờ để ý cả. Kỹ thuật viên phòng thí nghiệm không quen với việc bị bám đuôi mà.”
    Sellitto nói ông ta cho rằng mình có vẻ đã nhìn thấy ai đó, nhưng không chắc chắn.
    “Dennis, hôm nay lúc ở Brooklyn, anh cảm thấy có người đang theo dõi anh à?”, Sachs hỏi Baker.
    Anh ta thoáng chững lại.
    “Tôi? Tôi có ở Brooklyn đâu.”
    Sachs cau mày. “Nhưng... anh không ở đó?”
    Baker lắc đầu. “Không.”
    Sachs quay sang Dance lúc này đang cẩn thận quan sát Baker. Nữ nhân viên mật vụ California gật đầu.
    Bàn tay Sachs lần đến khẩu Glock và cô quay về phía Baker.
    “Dennis, đưa hai bàn tay anh ra cho chúng tôi thấy.”
    Cặp mắt anh ta mở to. “Cái gì?”
    “Chúng ta cần nói chuyện một chút.”
    Không người nào khástyle='height:10px;'>
    Và giờ đây, Lucy quay lại một xứ sở với những đường nét in lên nền trời, không có gia súc ngay bên ngoài các tiệm ăn hay các quầy hàng của Food Emporium[58], không có cát, không có mặt trời thiêu đốt... không có sương mù đắng nghét.
    Rất khác cuộc sống của cô ở nước ngoài.
    Tuy nhiên, Lucy Richter vẫn hầu như chẳng cảm thấy thanh thản. Đó là lý do tại sao cô đang đăm đăm nhìn về phía nam, tìm kiếm những câu trả lời cho Nỗi Trống Trải Mênh Mông của cái phong cảnh đã thay đổi.
    Có hay không...
    Chuông điện thoại kêu khiến Lucy giật mình. Gần đây cô thường xuyên giật mình như thế này – trước mọi tiếng động đột ngột. Chuông điện thoại, cánh cửa đóng đánh sầm...
    Ớn lạnh... Lucy nhấc điện thoại lên.
    “A lô.”
    “Cậu à.” Đó là một người bạn thân của Lucy sống ở khu vực này.
    “Claire.”
    “Có chuyện gì thế?”
    “Chỉ hơi lạnh thôi.”
    “Này, cậu đang ở múi giờ nào đấy?”
    “Chúa mới biết được.”
    “Bob có nhà không?”
    “Không. Làm muộn.”
    “Tốt, gặp tớ chén bánh pho mát đi.”
    Chỉ bánh pho mát thôi à?” Lucy hỏi thẳng thắn.
    “Cocktail Bạch Nga nhé?”
    “Cậu đang ở sân bóng chày hả. Đi nào.”
    Hai cô lựa chọn một quán ăn mở ban đêm gần đó và dập máy.
    Nhìn lần cuối cùng bầu trời phía nam đen ngòm trống trải, Lucy đứng dậy, mặc áo len và áo khoác ngắn trượt tuyết, đội mũ, rời khỏi cửa hiệu. Cô đi theo lối cầu thang tối lờ mờ dẫn xuống cánh cửa thứ nhất.
    Cô dừng lại, chớp mắt ngạc nhiên trước một bóng người hiện lên bất thình lình.
    “Lucy à”, tỏa mùi long não và thuốc lá, ông quản lý tòa nhà – khi cô lớn lên thì ông ta đã già – đang vác những chồng báo buộc vào nhau ra vỉa hè. Nặng hơn đến mười mấy cân và cao hơn chừng nửa gang, Lucy giằng lấy hai chồng báo từ tay ông ta.
    “Không”, ông ta phản đối.
    “Ông Giradello, tôi phải tập thể dục để giữ dáng đấy.”
    “À, giữ dáng à ? Cô khỏe hơn thẳng con trai tôi.”
    Ở bên ngoài, cái lạnh làm mũi và môi Lucy đau nhói. Cô vốn vẫn mê cảm giác này.
    “Lúc tối, tôi trông thấy cô mặc quân phục. Cô được trao tặng phần thưởng à?”
    “Thứ Năm này ạ. Hôm nay chỉ là buổi diễn tập. Mà đó không phải phần thưởng. Đó là tuyên dương.”
    “Sự khác nhau là gì?”
    “Câu hỏi hay đấy ạ. Tôi cũng chẳng biết lắm. Tôi nghĩ người ta giành đượcmột phần thưởng. Tuyên dương thì thay cho tăng lương.” Lucy xếp chỗ báo bỏ đi trên lề đường.
    “Cha mẹ cô sẽ tự hào.” Một câu khẳng định, không phải câu hỏi.
    “Chắc chắn ạ.”
    “Cho tôi gửi lời chào ông bà.”
    “Vâng. Thôi ạ, ông Giradello, tôi đang chết cóng đây. Tôi phải đi. Ông giữ gìn sức khỏe nhé.”
    “Tạm biệt cô.”
    Lucy bắt đầu bước dọc vỉa hè. Cô để ý thấy một chiếc Buick màu lam thẫm đỗ bên kia phố. Hai người đàn ông ngồi trong xe. Người ngồi ở ghế hành khác liếc nhìn cô rồi cúi xuống. Gã cầm lên một lon soda và uống như chết khát. Lucy nghĩ: Ai lại đi thèm một thức uống lạnh vào thời tiết này? Bản thân cô đang muốn một tách cà phê Ireland nóng sôi sùng sục với một suất đúp Bushmills. Tất nhiên, cả kem đánh nữa.
    Rồi Lucy liếc nhìn xuống vỉa hè, đột ngột dừng lại và thay đổi hướng đi. Thật buồn cười, Lucy Richter tự nhủ rằng những mảng băng trơn trượt có lẽ là mối nguy hiểm duy nhất mà cô chưa gặp phải suốt mười tám tháng qua.

    Ghi chú

    [56] Vùng miền Nam ấm áp của nước Mỹ, thông thường được coi là bao gồm các bang Arizona, California, Florida, Nevada, New Mexico, Texas, Georgia...
    [57] Một bộ phim đoạt giải Emmy, giải thưởng dành cho phim truyền hình của Mỹ, bắt đầu chiếu từ ngày 5 tháng Bảy năm 1989 và kéo dài tới ngày 14 tháng Năm năm 1998.
    [58] Hệ thống các cửa hàng bán lẻ thực phẩm, ở thành phố New York có khoảng ba mươi cửa hàng. --!!tach_noi_dung!!--

    Thực hiện ebook: Jude602; nhv1409; timson1991
    Nguồn: Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Văn Học liên kết Công ty Cổ phần Sách Bách Việt
    Được bạn: Mọt Sách đưa lên
    vào ngày: 1 tháng 6 năm 2015

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--

    © 2006 - 2024 eTruyen.com