PHẦN 2
9:02 SÁNG THỨ TƯ
CHƯƠNG 26

     ô là giải an ủi của gã.
Cô là món quà từ Gerald Duncan.
Cô là cách kẻ sát nhân nói rằng gã xin lỗi và thực lòng xin lỗi, chứ không giống như bà mẹ Vincent.
Nó cũng là cách tốt để giảm tốc độ của cảnh sát – cưỡng hiếp và giết chết một trong số chính bọn họ. Duncan đã nói tới nữ cảnh sát tóc đỏ làm việc tại hiện trường vụ án mạng thứ hai và gợi ý cho Vincent chiếm đoạt cô (ôi, vâng, vâng… tóc đỏ, giống như Sally Anne). Nhưng, theo dõi cảnh sát làm việc tại căn hộ của Lucy Richter ở khu Greenwich Village từ chiếc Buick, gã và Duncan nhận ra rằng chẳng thể nào tiếp cận được cô gái tóc đỏ, cô không bao giờ một mình. Tuy nhiên, người phụ nữ kia, một thám tử mặc thường phục hoặc đại loại thế, bắt đầu ra phố một mình, tìm kiếm nhân chứng, có vẻ vậy.
Duncan và Vincent vào một cửa hiệu bán đồ giảm giá, mua một cái xe đẩy, một áo khoác ngắn mùa đông mới nguyên, năm mươi đô la xà phòng, thức ăn vặt, soda, chất đầy xe. (Một người đẩy xe thực phẩm đi như thế không bị nghi ngờ – bạn gã luôn luôn, luôn luôn, suy nghĩ đến nơi đến chốn.) Kế hoạch là Vincent bắt đầu đẩy xe đi loanh quanh khu Greenwich Village cho tới lúc gã tìm thấy nữ cảnh sát thứ hai ấy, hoặc cô ta tìm thấy gã, rồi gã sẽ dẫn cô đến một tòa nhà bị bỏ hoang cách căn hộ của Lucy Richter một khối phố.
Vincent sẽ đưa cô xuống tầng hầm và có thể tận hưởng cô bao lâu tùy thích, trong khi Duncan sẽ giải quyết nạn nhân tiếp theo.
Duncan đã nhìn săm soi mặt Vincent: “Liệu mày có gặp vấn đề gì với việc giết nó không, con bé cảnh sát ấy?”
Lo sợ làm thất vọng bạn gã, kẻ đang dành cho gã sự ưu ái tuyệt vời, gã nói: “Không”.
Nhưng Duncan rõ ràng biết không phải thế: “Nghe tao bảo này. Hãy cứ để nó trong tầng hầm. Trói nó lại. Sau khi xong phi vụ ở Midtown, tao sẽ lái xe đến đó và tự giải quyết nó.”
Nghe thế, Vincent cảm thấy thoải mái hơn nhiều.
Lúc này, nỗi đói khát cồn cào khắp người gã khi gã quan sát Kathryn Dance đang ngồi cách gã mấy bước. Bím tóc tết của cô, những ngón tay dài của cô. Cô không nặng cân, nhưng thân hình đẹp, không giống đám người mẫu gầy nhẳng mà ta rất hay nhìn thấy trong thành phố. Ai mà ham một đứa như thế?
Thân hình cô khiến gã thèm khát.
Cặp mắt màu xanh lá cây của cô khiến gã thèm khát.
Thậm chí tên cô, Kathryn, cũng khiến gã thèm khát. Vì lý do nào đấy, nó xem chừng rơi vào cùng nhóm tên với Sally Anne. Gã không thể nói tại sao. Có thể chúng thuộc loại lỗi thời. Gã thích cả cái cách cô thèm thuồng nhìn những đồ tráng miệng. Cô ta giống hệt mình! Gã gần như chẳng tài nào đợi được tới lúc cô nằm úp mặt xuống trong tòa nhà bên trên phố kia.
Vincent hớp một ngụm cà phê. “Vậy bà đang bảo bà đến từ California?”, Vincent – chà, Tony Parsons Hữu Ích – hỏi.
“Đúng thế.”
“Tôi cuộc là ở đó rất dễ chịu.”
“Dễ chịu, vâng. Một số khu vực. Bây giờ, hãy nghĩ lại xem chính xác anh đã nhìn thấy gì. Người đàn ông ấy đang chạy? Hãy nói với tôi về anh ta.”
Vincent biết gã sẽ phải giữ tập trung – ít nhất cho tới lúc chỉ còn họ trong tòa nhà bị bỏ hoang. “Hãy thận trọng”, kẻ sát nhân đã dặn, và hướng dẫn gã. “Hãy tỏ ra miễn cưỡng. Hãy giả vờ mày biết gì đó về tao nhưng mày không muốn nói. Hãy ngập ngừng. Đó là thái độ của một nhân chứng thực sự.”
Bây giờ, Vincent nói với Dance – vẻ miễn cưỡng và ngập ngừng – thêm vài chi tiết về người đàn ông chạy ngược lên bên trên phố và bổ sung sự mô tả mơ hồ về Gerald Duncan, tuy dù sao cảnh sát cũng đã biết phần lớn, vì họ có ảnh Duncan dựng trên máy tính (gã sẽ phải nói với Duncan về việc này). Cô ghi chép một số điểm.
“Có đặc điểm khác thường nào không?”
“Hừm. Tôi không nhớ được. Như tôi đã nói, tôi không ở gần lắm.”
“Có vũ khí gì không?”
“Tôi nghĩ là không. Ch hắn.”
“Hôm nay hắn vào nhà bằng cách nào?”
“Chưa biết chắc chắn. Nếu hắn không thay đổi phương thức hành động thì hắn đã mở trộm khóa cửa trước. Nhưng em cho là hắn đã trèo lên mái nhà và trèo xuống cửa sổ nhà nạn nhân theo cầu thang thoát hiểm. Hắn vào nhà, đặt chiếc đồng hồ và chờ đợi cô ấy. Rồi vì lý do nào đấy mà hắn lại trèo ra. Đó là khi hắn bị nhân chứng phía bên ngoài nhà nhìn thấy và Thợ Đồng Hồ chuồn khỏi đây. Trèo ngược cầu thang thoát hiểm.”
“Hắn đã ở đâu trong nhà?”
“Hắn đặt chiếc đồng hồ trong buồng tắm. Cầu thang thoát hiểm giáp phòng ngủ lớn nên hắn cũng vào đấy.” Sachs ngừng lại. Một lát sau lại tiếp tục. “Đã rà soát khắp khu vực để tìm kiếm nhân chứng, nhưng không có ai trông thấy hắn hoặc xe hắn. Rất có thể hắn và kẻ tòng phạm đã đi bộ kể từ khi bị chúng ta lấy mất chiếc SUV. Dăm bảy tuyến tàu điện ngầm phục vụ khu Greenwich Village và bọn chúng có thể dễ dàng trốn thoát theo một trong những tuyến này.”
“Anh không nghĩ thế.” Rhyme giải thích rằng anh cảm thấy Thợ Đồng Hồ và trợ thủ của hắn thích sử dụng ô tô hơn. Sự lựa chọn phương tiện di chuyển là yếu tố mang tính nhất quán trong phương thức hành động của một tội phạm. Nó hãn hữu mới thay đổi.
Sachs khám xét phòng ngủ, cầu thang thoát hiểm, buồng tắm, và những lối mà hắn có thể đã đi qua để tới các vị trí này. Cô cũng kiểm tra mái nhà. Cô báo cáo lại là gần đây mái nhà không được quét lại nhựa.
“Không có gì cả, Rhyme. Dường như chính hắn cũng mặc bộ đồ Tyvek. Hắn hoàn toàn chẳng để lại dấu vết gì.”
Edmond Locard, nhà hình sự học nổi tiếng người Pháp, đã xây dựng cái mà ông ta gọi là nguyên tắc trao đổi, nguyên tắc ấy nêu lên rằng, bất cứ khi nào xảy ra một tội ác về mặt cơ thể con người, sẽ có sự trao đổi chứng cứ giữa kẻ tội phạm với địa điểm xảy ra tội ác. Hắn để lại những dấu vết của bản thân hắn ở hiện trường, đồng thời lấy đi từ hiện trường những dấu vết. Tuy nhiên, nguyên tắc này lạc quan theo cái cách khiến người ta dễ dàng nhầm lẫn, bởi đôi khi dấu vết quá nhỏ nhặt tới nỗi bị bỏ qua và đôi khi nó được xác định chẳng khó khăn gì nhưng cung cấp những manh mối cũng chẳng hữu ích gì cho các nhân viên điều tra. Dù sao, nguyên tắc của Locard vẫn mang quan điểm là sẽ có sự trao đổi vật chất.
Nhưng Rhyme hay tự hỏi, liệu có tồn tại một kẻ tội phạm hiếm hoi thông minh bằng, hoặc hơn, chính Rhyme, và nếu một kẻ như thế có thể biết về khoa học giám định vật chứng đủ để thực hiện tội ác mà vẫn đánh đổ được nguyên tắc của Locard – không bỏ lại đằng sau, không mang theo dấu vết gì. Thợ Đồng Hồ là một kẻ như thế chăng?
“Hãy suy nghĩ xem, Sachs… Phải có cái gì đó. Cái gì đó chúng ta đang bỏ qua. Nạn nhân nói thế nào?”
“Cô ấy bị chấn động mạnh. Không thực sự tập trung.”
Sau một chút yên lặng, Rhyme nói: “Anh sẽ gửi đến vũ khí bí mật của chúng ta”.
Kathryn Dance ngồi đối diện Lucy Richter trong phòng khách của căn hộ khu Greenwich Village.
Người nữ quân nhân mặc chiếc áo một phía in hình Jimi Hendrix[64] và một phía in ảnh cưới vợ chồng cô, một người đàn ông có khuôn mặt tròn, vui vẻ, mặc bộ lễ phục sĩ quan quân đội.
Dance nhận ra rằng, trong hoàn cảnh hiện tại, người phụ nữ khá bình tĩnh, tuy nhiên, như Amelia Sachs đã nói, rõ ràng một điều gì đó đang làm cô lo lắng, Dance có ấn tượng phần nào nó là một điều gì đó nằm ngoài vụ tấn công. Cô không biểu lộ những phản ứng căng thẳng sau cơn chấn động vì hút chết. Sự lo lắng của cô mang tính căn bản hơn.
“Cảm phiền chị, chị thuật lại các chi tiết được chứ?”
“Bất cứ việc gì, nếu nó giúp đỡ các vị tóm cổ thằng chó đẻ ấy.” Lucy trình bày rằng, buổi sáng, cô đã đến phòng tập thể dục. Khi trở về, cô phát hiện ra chiếc đồng hồ.
“Tôi cảm thấy bối rối. Tiếng tích tắc…” Gương mặt Lucy lúc này bộc lộ một phản ứng sợ hãi rất khó nhận ra. Chiến đấu-hay-chuồn. Với sự khuyến khích của Dance, cô giải thích về những quả bom ở Iraq. “Tôi nghĩ nó là một món quà hoặc đại loại thế, nhưng nó khiến tôi cực kỳ bứt rứt. Rồi tôi cảm thấy có làn gió thổi, nên đi xem xung quanh nhà. Tôi nhận ra cửa sổ phòng ngủ mở. Đó là khi viên cảnh sát xuất hiện.”
“Không có gì khác bất bình thường à?”
“Không. Tôi không nhớ được.”
Dance đặt thêm một loạt các câu hỏi. Lucy Richter không biết Theodore Adams và Joanne Harper. Cô không nghĩ ra được ai lại muốn làm hại cô. Cô đã cố gắng nhớ , một ông lão. Hoặc một người ở cách anh năm cây số. Còn vũ khí? Không phải là bích kích pháo và xe tăng. Mà là những gói bé tí tạo ra thứ sương mù đắng nghét, những gói thuốc nổ TNT hoặc C4 hoặc C3 hoặc thuốc nổ bánh đánh cắp từ chính kho vũ khí của anh, cất giấu kín đáo đến nỗi anh không bao giờ trông thấy cho tới lúc … chao, sự thật là anh sẽkhông bao giờ được trông thấy.
Lucy lúc này đang lục lọi trong một chiếc tủ để tìm trà.
Sương mù đắng nghét…
Rồi cô dừng lại, Có âm thanh gì ấy nhỉ?
Lucy nghểnh đầu lắng nghe.
Gì thế?
Tiếng tích tắc. Nó khiến Lucy cảm thấy thắt bụng lại. Cô và Bob không có đồng hồ lên dây cót. Nhưng âm thanh đang phát ra nghe giống tiếng kêu của loại đồng hồ này.
Cái quái quỷ gì vậy?
Lucy bước vào phòng ngủ nhỏ mà hai vợ chồng chị chủ yếu sử dụng như gian chứa đồ. Đèn không sáng. Cô bật công tắc lên. Không, âm thanh không phát ra từ đây.
Lòng bàn tay Lucy đổ mồ hôi, hơi thở trở nên gấp gáp, tim đập thình thịch.
Mình đang tưởng tượng ra âm thanh này… Mình sắp phát điên. Những trái bom tự chế không kêu tích tắc. Thậm chí những trái bom hẹn giờ cũng có kíp điện tử.
Với lại, phải chăng cô đang thực sự nghĩ rằng ai đó đã đặt bom trong cửa hiệu của cô giữa thành phố New York?
Cô gái ơi, cô rất cần được cứu chữa.
Lucy đi tới ngưỡng cửa phòng ngủ lớn. Cánh cửa tủ quần áo mở, chắn tầm mắt cô khiến cô không nhìn được vào bàn trang điểm. Có thể nó là… Cô tiếp tục bước, Nhưng rồi lại dừng. Tiếng tích tắc phát ra từ một chỗ khác, không phải là chỗ này. Cô đi dọc hành lang đến phòng ăn và nhìn vào bên trong. Chẳng có gì cả.
Sau đó Lucy đi sang buồng tắm. Cô bật cười.
Trên trốc tủ đựng đồ vệ sinh, bên cạnh bồn tắm, là một chiếc đồng hồ. Trông nó có vẻ là một chiếc đồng hồ cổ. Nó màu đen và mặt có cửa sổ với một hình trăng tròn nhìn cô chằm chằm. Nó ở đâu ra? Dì cô lại dọn dẹp tầng hầm nhà cô chăng? Bob mua nó khi cô đang đi vắng chăng, và sáng hôm nay mới bày nó sau khi cô đến câu lạc bộ thẩm mỹ?
Nhưng tại sao lại là buồng tắm nhỉ?
Gương mặt kỳ quặc hình trăng nhìn Lucy với cái nhìn lạ lùng, gần như ác hiểm. Nó khiến cô nhớ tới gương mặt bầy trẻ con dọc các vỉa hè, những đôi môi trề ra biểu lộ một cái gì đó không hẳn là nụ cười, người ta không biết được điều gì đang xuất hiện trong đầu óc chúng. Khi chúng nhìn bạn, liệu chúng đang nhìn thấy những đấng cứu tinh? Hay những kẻ thù? Hay những sinh vật từ một hành tinh khác?
Lucy quyết định rằng cô sẽ goi cho Bob hoặc mẹ cô để hỏi về chiếc đồng hồ. Cô vào bếp pha trà và mang trà vào buồng tắm, mang theo cả điện thoại, rồi xả nước ra bồn.
Tự nhủ chẳng biết lần đầu tiên, sau hàng tháng trời, bồn nước ấm và đám bọt sữa tắm có rửa sạch được thứ sương mù đắng nghét bám trên cơ thể cô không.
Trên con phố phía trước căn hộ của Lucy, Vincent Reynolds quan sát hai cô bé nữ sinh đi bộ ngang qua đó.
Gã liếc nhìn hai cô bé nhưng chẳng cảm thấy tăng thêm nỗi đói khát lúc bấy giờ đã cào cấu cơ thể. Hai cô bé là nữ sinh trung học và quá ít tuổi đối với gã. (Sally Anne hồi ấy đang tuổi thiếu niên, đúng, tuy nhiên hồi ấy gã cũng đang tuổi thiếu niên, nên không vấn đề gì).
Vincent nghe thấy giọng Duncan thì thầm qua chiếc di động. “Tao đang trong phòng ngủ của nó. Nó đang trong buồng tắm, đang tắm… Như thế sẽ thuận lợi.”
Sàn nước…
Vì tòa nhà có nhiều người thuê và người ta có thể dễ dàng phát hiện ra gã đang mở trộm khóa. Duncan trèo lên nóc tòa nhà cao dăm tầng đó, đi đến vị trí căn hộ của Lucy, rồi leo xuống theo cầu thang thoát hiểm và vào phòng ngủ của cô. Gã thực sự rất khỏe mạnh (một điểm khác biệt nữa giữa hai kẻ đồng đảng).
“Được rồi. Tao hành động bây giờ đây.”
Cảm ơn…
Nhưng tiếp theo Vincent lại nghe thấy bảo: “Đợi đã”.
“Cái gì?”, Vincent hỏi. “Có chuyện không ổn à?”
“Nó gọi điện. Chúng ta phải đợi đã.”
Vincent Đói Khát ngồi ngả ra phía trước. Chờ đợi không thuộc sở trường của gã.
Một phút trôi qua, hai phút, năm phút.
“Thế nào rồi?”, Vincent thì thào.
“Nó vẫn gọi điện.”
Vincent tức giận.
Con bé trời đánh thánh vật… Gã ước gì gã c&oacut; chống trả, gã phải tự bảo vệ mình.
Rạch mắt…
Trông sẽ gớm ghiếc nhưng khuôn mặt máu me của Dance chẳng thành vấn đề đối với Vincent, dù sao gã vẫn thích người phụ nữ nằm sấp xuống.
Họ đang bước sâu hơn vào con hẻm. Vincent nhìn xung quanh và nhận ra tòa nhà, cách đó chừng mươi, mười lăm mét.
Dance lại dừng chân, mở cuốn sổ. Cô đọc những gì đang được viết xuống: “Con hẻm chạy đằng sau sáu, không, bảy tòa nhà ở của dân. Tại đây có bốn thùng Dumpster. Mặt hẻm trải nhựa. Thủ phạm chạy theo lối này, về phía nam”. Găng tay được đeo vào phủ kín những ngón tay run run của cô. Những ngón tay có móng sơn màu đỏ trông thật ngon mắt.
Nỗi đói khát ám ảnh Vincent. Gã cảm thấy mình héo quắt đi. Gã nắm chặt con dao trong bàn tay căng thẳng, thở gấp gáp.
Dance một lần nữa lại dừng chân.
Nào! Hãy chiếm đoạt cô ta.
Vincent chuẩn bị rút con dao khỏi túi áo khoác.
Nhưng tiếng còi hụ chói tai đột ngột xuyên qua không khí, từ đầu kia của con hẻm. Gã liếc nhìn về phía đó sửng sốt.
Và rồi gã cảm thấy có họng súng gí vào gáy mình.
Nữ nhân viên mật vụ quát to: “Giơ tay lên. Nào!”. Cô tóm chặt vai gã.
“Nhưng…”
“Nào.”
Dance ấn khẩu súng mạnh hơn vào đầu Vincent.
Không, không, không! Gã buông con dao và giơ tay lên.
Chuyện gì đang diễn ra vậy?
Chiếc xe cảnh sát phanh kít lại trước họ, một chiếc nữa ngay đằng sau chiếc này. Bốn cảnh sát cao lớn nhảy ra.
Không…Ôi, không…
“Nằm sấp xuống”, một cảnh sát ra lệnh. “Làm đi!”
Nhưng Vincent không thể cử động, gã quá choáng váng.
Rồi Dance bước lùi lại đằng sau khi các cảnh sát vây xung quanh gã, đẩy cho gã ngã xuống.
“Tôi chẳng làm gì cả! Tôi chẳng làm gì cả!”
“Mày!”, một trong số những người đàn ông quát to. “Bây giờ, nằm sấp xuống.”
“Nhưng lạnh lắm, bẩn lắm! Và tôi chẳng làm gì cả!”
Họ đẩy Vincent ngã xuống nền đất cứng. Gã rên lên.
Giống hệt như đối với Sally Anne, tất cả đang lặp lại.
Mày, thằng béo, đừng động đậy! Đồ đồi bại!...
Không, không, không!
Những bàn tay ghì chặt khắp người Vincent. Gã cảm thấy đau đớn khi hai cánh tay bị giật ra sau lưng và chiếc còng bập vào. Gã bị lục soát, túi áo túi quần bị lộn trái.
“Thấy một chứng minh thư, một con dao.”
Đó là bây giờ, hay đó là mười ba năm trước, Vincent hầu như không thể xác định được.
 “Tôi chẳng làm gì cả! Toàn bộ chuyện này là thế nào?”
Một cảnh sát nói với nữ nhân viên mật vụ: “Chúng tôi nghe được chị nói to và rõ ràng. Chị không cần phải đi vào con hẻm cùng với hắn”.
“Tôi sợ hắn bỏ chạy mất. Tôi muốn ở bên cạnh hắn càng lâu càng tốt.”
Chuyện gì đang xảy ra vậy? Vincent tự hỏi. Cô ta muốn nói gì?
Nữ nhân viên mật vụ liếc nhìn người cảnh sát và hất đầu về phía Vincent. “Hắn đã diễn rất đạt cho tới lúc chúng tôi vào quán cà phê. Sau khi ngồi xuống, tôi biết rằng hắn đang giả vờ.”
“Không, bà điên rồi. Tôi…”
Dance quay sang Vincent. “Giọng nói và vẻ mặt của anh thiếu nhất quán. Ngôn ngữ cơ thể của anh cho tôi biết anh hoàn toàn không thực sự trò chuyện với tôi. Anh có một kế hoạch khác, cố gắng lôi kéo tôi vì lý do nào đấy… Hóa ra là để đưa tôi đơn thương độc mã vào con hẻm.”
Dance giải thích rằng khi trả tiền cô đã lén rút điện thoại khỏi túi áo khoác và nhấn phím gọi lại, kết nối với một thám tử thuộc Sở cảnh sát New York mà cô vừa làm việc cùng. Cô thì thầm ngắn gọn kết luận của mình và yêu cầu anh ta điều cảnh sát tới. Cô không tắt máy, giấu nó dưới cuốn sổ.
Đó là lý do tại sao Dance đọc to tên các phố. Cô đang chỉ đường cho họ.
Vincent lúc ấy nhìn đôi bàn tay cô. Cô bắt gặp ánh mắt gã. Và giơ chiếc bút lên. “Phải. Đó là khẩu súng của tôi.”
Vincent nhìn lại những cảnh sát khác. “Tôi không biết chuyện gì đang diễn ra ở đây. Thật vớ vẩn.”
Một cảnh sát nói: “Nghe này, mày nên tiết kiệm hơi sức. Ngay trước lúc bà ấy gọi điện, bọn tao nhận được một thông báo là tên lái xe bỏ trốn trong vụ tấn công đã quay lại khu vực với chiếc xe đẩy chứa thực phẩm. Hắn ta là một gã da trắng, to béo”.
Tên cô ấy là Sally Anne, thằng béo. Cô ấy trốn thoát và gọi điện cho cảnh sát, nói cho bọn tao biết tất cả về mày…
“Đấy không phải tôi! Tôi chẳng làm gì. Các vị nhầm rồi. Các vị nhầm to rồi.”
“Ừ”, một trong số những cảnh sát mặc đồng phục nói với vẻ mặt hài hước. “Bọn tao thường xuyên nghe câu này. Đi thôi.”
Họ tóm chặt bắp tay Vincent và thô bạo đẩy gã ra xe cảnh sát. Gã nghe thấy tiếng Gerald Duncan trong đầu.
Tao xin lỗi. Tao đã làm mày thất vọng. Tao sẽ đền bù cho mày…
Và một cái gì đó trở nên cứng rắn trong gã Vincent Reynolds phì nộn. Gã quyết định rằng họ sẽ chẳng thể làm gì khiến gã phản bội bạn gã.
Gã đàn ông to béo, thân hình trông như quả lê, ngồi bên cạnh ô cửa sổ phía trước phòng thí nghiệm của Lincoln Rhyme, hai bàn tay bị còng sau lưng.
Bằng lái xe của gã và dữ liệu của Cơ quan Quản lý Xe gắn máy cho thấy gã không phải Tony Parson, mà là Vincent Reynolds, nhân viên xử lý văn bản hai mươi tám tuổi, sống tại New Jersey và làm việc cho dăm cơ sở tạm thời, chẳng cơ sở nào biết kỹ lưỡng về gã, ngoại trừ những thông tin điều tra cơ bản khi tuyển dụng và trong sơ yếu lý lịch nói chung, gã là một người làm công ăn lương điển hình.
Với tâm trạng pha trộn giữa tức giận và lo lắng, Vincent hết liếc nhìn sàn nhà lại liếc nhìn những sĩ quan vây xung quanh gã – Rhyme, Sachs, Dance, Baker và Sellitto.
Chưa có lệnh bắt giữ gã và việc khám xét căn hộ tồi tàn của gã ở New Jersey không để lộ ra mối liên quan rõ ràng nào giữa gã với Thợ Đồng Hồ. Không bằng chứng về người yêu, bạn bè thân thiết hoặc cha mẹ. Cảnh sát tìm thấy một bức thư gã đang viết cho em gái ở Detroit. Sellito lấy được số điện thoại của cô ta từ cảnh sát bang Michigan và đã gọi. Ông ta để lại lời nhắn yêu cầu cô ta gọi cho họ.
Vincent làm việc vào đêm hôm thứ hai, thời gian xảy ra các vụ án mạng ở cầu tàu và phố Cedar, nhưng kể từ đó, gã không đi làm.
Mel Cooper gửi theo email đến cửa hiệu hoa cho Joanne Harper một bức ảnh kỹ thuật số chụp gã. Người phụ nữ thông báo rằng đúng là gã trông giống gã đàn ông quan sát cô qua cửa sổ, nhưng cô không khẳng định được, vì ánh nắng chói, vì ô kính bụi bặm và vì cặp kính râm của gã.
Mặc dù họ nghi ngờ Vincent là tòng phạm của Thợ Đồng Hồ, chứng cứ kết nối gã với hai hiện trường rất sơ sài. Dấu giày ở gara nơi chiếc SUV bị bỏ lại và giày gã có cùng cỡ, cỡ 13, tuy nhiên không có dấu vết đặc biệt nào để ghép chúng vào nhau một cách chắc chắn. Trong số hàng hóa – mà Rhyme nghi ngờ gã đã mua ngụy trang, hòng tiếp cận Dance hoặc một nhân viên điều tra khác – có khoai tây chiên, bích quy và các thức ăn lặt vặt khác. Nhưng những túi đồ này chưa mở và lục soát quần áo gã cũng chẳng phát hiện ra những mẩu vụn có thể phù hợp với đống mẩu vụn tìm thấy trên chiếc SUV.
Họ giữ Vincent chỉ vin vào việc gã sở hữu con dao bất hợp pháp và làm ảnh hưởng tới hoạt động của cảnh sát – cách buộc tội thông thường được áp dụng cho một nhân chứng dỏm.
Tuy nhiên, nhiều người ở Toà thị chính và Sở Cảnh sát New York muốn thử đòn Abu Ghraib[67] với Vincent và đe dọa gã tới chừng nào gã tiết lộ thông tin. Đây là hướng được Dennis Baker ưu tiên, viên trung úy đang phải chịu áp lực từ Tòa thị chính, họ yêu cầu tìm thấy Thợ Đồng Hồ càng sớm càng tốt.
Nhưng Kathryn Dance nói: “Không có tác dụng đâu. Bọn chúng thu mình lại như những con bọ cuộn và cung cấp cho các anh toàn thông tin vô nghĩa”. Cô nói thêm: “Theo thống kê thì tra tấn rất ít hiệu quả trong việc lấy được thông tin chính xác”.
Và bởi vậy Rhyme và Baker đã đề nghị Dance phỏng vấn Vincent. Họ cần tìm thấy Thợ Đồng Hồ càng sớm càng tốt.
Lúc này, nữ nhân viên mật vụ California kéo những tấm rèm cửa sổ lại, ngồi xuống đối diện với Vincent, chẳng có gì giữa họ. Cô kéo ghế về phía trước tới cách gã chừng một mét.  Rhyme đồ rằng như thế là để xâm nhập được vào khoảng không gian của gã và dễ dàng phá vỡ sự kháng cự của gã hơn. Nhưng anh cũng nhận ra rằng nếu Vincent nổi khùng lên gã có thể lao đến gây thương tích nặng nề cho cô bằng răng và đầu.
Dance chắc chắn ý thức được điều này, tuy nhiên không hề biểu lộ rằng mình cảm thấy nguy hiểm. Cô mỉm cười dè dặt và điềm tĩnh nói: “Chào anh, Vincent. Tôi biết là anh đã được biết về các quyền của mình và đã đồng ý trò chuyện với chúng tôi. Chúng tôi đánh giá cao việc ấy”.
 “Chắc chắn rồi. Bất cứ việc gì tôi có thể làm. Đây là một…”, gã nhún vai, “…một sự hiểu lầm lớn, bà biết đấy”.
 “Thế thì chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này. Đầu tiên, tôi chỉ cần một số thông tin cơ bản.”
Dance hỏi họ tên đầy đủ của Vincent, địa chỉ, tuổi, nơi gã làm việc, gã từng bị bắt giữ bao giờ chưa.
Gã cau mày. “Tôi đã nói với ông ta rồi.” Một cái nhìn về phía Sellito.
“Tôi xin lỗi. Tay trái, rồi tay phải, anh biết đấy. Nếu anh không ngại khai lại.”
“Ôi, thôi được.”
Rhyme hiểu rằng trong lúc Vicent cung cấp các thực tế đã được xác minh, Dance sẽ hình thành nên xuất phát điểm cho việc phân tích. Bây giờ, khi Kathryn Dance đã làm thay đổi được quan niệm của nhà hình sự học về phỏng vấn và nhân chứng, quá trình thực hiện phỏng vấn khiến anh quan tâm.
Dance gật đầu nhã nhặn, ghi chép các câu trả lời của Vincent và thi thoảng lại cảm ơn thái độ hợp tác của gã. Vẻ lịch sự của cô khiến Rhyme bối rối. Bản thân anh sẽ cứng rắn hơn rất nhiều.
Vincent nhăn mặt. “Nghe này, tôi có thể, bà biết đấy, trò chuyện với bà bao lâu tùy ý bà. Nhưng tôi hy vọng bà sẽ cử ai đó đi tìm kiếm gã đàn ông tôi đã trông thấy. Bà không muốn hắn trốn thoát. Điều ấy khiến tôi lo lắng. Tôi cố gắng giúp đỡ bà, và hãy xem chuyện gì xảy ra. Đây là chuyện của cả đời tôi”.
Tuy nhiên, những thông tin về đối tượng mà Vincent nói với Dance và các cảnh sát tại hiện trường không hữu ích. Tòa nhà gã khẳng định kẻ sát nhân đã đi vào và biến mất không bộc lộ dấu hiệu nào là ai đó mới đây vừa vào.
 “Bây giờ, nếu anh có thể trình bày sự việc một lần nữa, hãy cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Chỉ có điều, nếu anh không cảm thấy phiền, tôi muốn anh cho tôi biết theo trình tự ngược lại”.
 “Sao cơ?”
 “Theo trình tự thời gian ngược lại. Đó là một cách tốt để khởi động trí nhớ. Bắt đầu với sự kiện cuối cùng trước và đi ngược lại thời gian. Đối tượng, hắn đang bước qua cửa tòa nhà cũ ấy trong con hẻm…Hãy bắt đầu với một vài chi tiết cụ thể. Màu của cánh cửa.”
Vincent cựa quậy trên ghế, cau mày. Lát sau, gã trình bày sự việc, bắt đầu với chi tiết gã đàn ông đang bước qua cửa tòa nhà (gã không nhớ được màu của cánh cửa). Rồi Vincent thuật lại chi tiết xảy ra ngay trước đó – gã đàn ông chạy dọc con hẻm. Rồi lúc gã chạy vào con hẻm. Và trước đó, gã chạy xuôi theo phố. Cuối cùng, Vincent nói tới chi tiết phát hiện ra một gã đàn ông trên phố Barrow, nhìn xung quanh vẻ lo lắng, rồi đột ngột chạy.
 “Được rồi”, Dance vừa ghi chép vừa nói. “Cám ơn anh, Vincent.” Cô thoáng cau mày. “Nhưng tại sao anh nói với tôi tên anh là Tony Parsons?”
“Tại tôi sợ. Tôi làm một việc tốt, tôi nói với bà những gì tôi đã trông thấy, nhưng tôi sợ kẻ giết người sẽ giết tôi nếu hắn phát hiện ra tên tôi.” Quai hàm Vincent run rẩy. “Tôi ước là tôi chẳng nói những gì tôi đã trông thấy. Nhưng tôi trót nói mất rồi và tôi sợ. Tôi đã bảo với bà là tôi sợ.”
Giọng rên rỉ của gã đàn ông khiến Rhyme phát cáu. Tra khảo hắn đi, anh thầm giục giã Kathryn Dance.
Nhưng cô chỉ nhã nhặn đề nghị: “Hãy cho tôi biết về con dao”.
 “Được thôi, đáng lẽ tôi không nên có nó. Nhưng cách đây mấy năm tôi bị trấn lột. Vụ trấn lột thật kinh khủng. Tôi ngu ngốc quá. Tôi đáng lẽ phải để nó ở nhà. Tôi vẫn hay để nó ở nhà. Tôi chẳng nghĩ gì cả. Và rồi nó đẩy tôi vào rắc rối.”
Đến đây, Dance tuột chiếc áo khoác ra, đặt nó lên chiếc ghế dựa cạnh mình.
Vincent tiếp tục: “Mọi người đều đủ thông minh để không dính dáng vào. Tôi nói vài câu và hãy xem chuyện gì đã xảy ra đấy”. Gã nhìn chằm chằm xuống sàn, nỗi chán ngán giật giật khóe miệng gã.
Dance hỏi chi tiết xem bằng cách nào mà Vincent biết về những vụ giết người của Thợ Đồng Hồ và gã ở đâu vào thời gian xảy ra những vụ tấn công kia.
Các câu hỏi khiến Rhyme thấy kỳ lạ. Thiển cận. Dance không xem xét theo cái cách mà, nếu là anh, anh sẽ làm, yêu cầu cung cấp chứng cứ ngoại phạm và xé toạc câu chuyện bịa đặt của Vincent. Những gì xem chừng là manh mối quan trọng, cô để tuột hết. Dance không một lần hỏi rằng liệu gã có lý do khác khi dẫn cô vào con hẻm không, cái lý do mà tất cả hộ đều nghi ngờ là để sát hại cô – thậm chí có thể là để tra tấn hòng bắt buộc cô nói ra những gì cảnh sát đã biết về Thợ Đồng Hồ.
Nữ nhân viên mật vụ chẳng bộc lộ phản ứng gì trước các câu trả lời của Vincent, chỉ ghi chép. Cuối cùng, cô nhìn qua lưng Vincent về phía Sachs, “Amelia, cô làm ơn được không?”
“Được.”
 “Cô có thể cho Vincent xem dấu chân mà chúng ta tìm thấy không?”
Sachs đứng dậy đi lấy hình ảnh in tĩnh điện. Cô giơ nó lên cho Vincent nhìn.
“Thế thì sao?”, gã hỏi.
“Đó là cỡ giày của anh, phải không?”
“Có vẻ.”
Dance tiếp tục im lặng nhìn Vincent chằm chằm. Rhyme cảm nhận được là cô đang giương lên một cái bẫy hết sức thông minh. Anh thận trọng quan sát cả hai người…
 “Cảm ơn”, Dance nói với Sachs lúc này lại ngồi xuống.
Nữ nhân viên mật vụ ngả người ra phía trước, có vẻ đã xâm nhập sâu hơn vào khoảng không gian riêng của đối tượng.
 “Vincent, tôi tò mò muốn biết. Anh đã mua số thực phẩm đó ở đâu vậy?”
Một thoáng chần chừ. “Chà, tại đại lý của Food Emporium.”
Rhyme rốt cuộc đã hiểu. Dance đang moi thông tin về số thực phẩm và rồi sẽ hỏi tại sao gã lại mua nó ở Manhattan nếu gã sống ở New Jersey – vì tất cả những thứ trên chiếc xe đẩy đều có bán ở gần nhà gã và có thể với giá còn rẻ hơn. Cô ngả người về phía trước, tháo cặp kính.
Bây giờ – cô đang chuẩn bị cho gã sập bẫy.
Kathryn Dance mỉm cười và nói: “Cảm ơn anh, Vincent. Tôi đã nghĩ thế. Này, anh khát không?”. Nữ nhân viên mật vụ hỏi thêm: “Anh muốn một lon soda chứ?”
Vincent gật đầu. “Vâng. Cảm ơn.”
Dance liếc nhìn Rhyme. “Chúng ta có thể cho anh ấy uống gì đó không?”
Rhyme chớp mắt và chiếu một cái nhìn bối rối về Sachs, cô cũng đang cau mày. Dance đang nghĩ quái quỷ gì vậy? Cô chưa lấy được tí thông tin nào từ Vincent. Nhà hình sự học tự nhủ: Lãng phí thời gian. Đó là tất cả những gì cô ta sẽ hỏi hắn? Và bây giờ cô ta đóng vai bà chủ nhà? Rhyme miễn cưỡng gọi Thom mang cho Dance một lon Coke.
Dance cắm ống hút vào và giơ lon nước lên cho gã đàn ông bị còng tay uống. CHỉ vài giây là gã uống cạn.
 “Vincent, cảm phiền anh cho chúng tôi trao đổi riêng mấy phút, và tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ giải quyết dứt điểm vấn đề.”
 “Được. Chắc chắn rồi.”
Người cảnh sát tuần tra áp giải Vincent ra ngoài. Dance đóng cánh cửa lại đằng sau gã.
Dennis Baker lắc đầu, bất mãn nhìn nữ nhân viên mật vụ. Sellitto lẩm bẩm: “Vô ích”.
Dance cau mày. “Không, không, chúng ta đang làm tốt mà.”
“Chúng ta?”, Rhyme hỏi.
“Đang đi đúng hướng… Nào, tình hình là như thế này. Tôi đã có xuất phát điểm phân tích và rồi yêu cầu hắn thuật lại các sự việc theo trình tự ngược, một cách tốt để bắt giò những đối tượng vừa gian dối ứng biến. Người ta sẽ thuật lại được chuỗi các sự việc có thật theo bất kỳ trình tự nào, từ đầu đến cuối hay ngược lại, không khó khăn gì. Nhưng nếu người ta bịa đặt thì người ta sẽ chỉ thuật lại được theo chiều từ đầu đến cuối. Khi họ cố gắng tái hiện chúng theo chiều ngược lại, họ không có những gợi ý mà họ đã sử dụng khi dựng lên khung cảnh và họ bị vấp. Bởi vậy, tôi biết ngay hắn là trợ thủ của Thợ Đồng Hồ.”
 “Chị biết rồi?” Sellitto bật cười.
 “Ồ, điều ấy rất hiển nhiên. Những phản ứng của hắn chệch với xuất phát điểm. Và hắn không lo sợ cho sự an toàn cá nhân như hắn khẳng định. Không, hắn biết Thợ Đồng Hồ, và hắn tham gia vào các vụ phạm tội, nhưng theo một cách mà tôi không thể xác định được. Không đơn thuần là nhiệm vụ lái xe chạy trốn.”
 “Nhưng chị chẳng hỏi gì về việc ấy cả”, Baker nêu ý kiến. “Sao chúng ta không tìm kiếm những chỗ thiếu cơ sở khi hắn nói hắn ở đâu vào thời điểm xảy ra các vụ tấn công tại xưởng hoa và căn hộ Greenwich Village?”
Rhyme cũng có nhận xét như vậy.
 “Ồ, không. Đó là cách làm dở nhất. Nếu tôi hỏi tới những điểm ấy, hắn sẽ ngay lập tức đưa chúng ta vào chỗ bế tắc”, Dance tiếp tục. “Hắn là con người phức tạp, có rất nhiều xung đột bên trong hắn, và tôi có cảm giác rằng hắn ở trạng thái thứ hai của phản ứng căng thẳng, trạng thái chán nản. Về bản chất, nó là nỗi tức giận lặn vào bên trong. Và rất khó khăn để phá vỡ nó. Với cá tính của hắn, tôi cần tạo nên mối thông cảm gi/a>
  • CHƯƠNG 3
  • CHƯƠNG 4
  • CHƯƠNG 5
  • CHƯƠNG 6
  • a chúng tôi và sẽ mất hàng ngày, có thể hàng tuần, để đạt được sự thật bằng các phương pháp thẩm vấn truyền thống. Nhưng chúng ta lấy đâu ra hàng ngày trời. Cơ hội duy nhất của chúng ta là thử một cái gì đấy quyết liệt.”
     “Sao cơ?”
    Dance hất đầu chỉ chiếc ông hút Vincent đã sử dụng. “Anh có thể yêu cầu xét nghiệm ADN được không?”, cô hỏi Rhyme.
     “Vâng. Nhưng không có ngay kết quả được.”
     “Chẳng sao, miễn chúng ta có thể nói một cách trung thực là chúng ta đã yêu cầu xét nghiệm nó.” Dance mỉm cười. “Đừng bao giờ nói dối. Tuy nhiên anh không phải nói hết với một đối tượng mọi điều.”
    Rhyme lăn xe sang khu vực chính của phòng thí nghiệm, nơi Mel Cooper và Pulaski vẫn đang xem xét các chứng cứ. Anh giải thích việc họ cần làm và Cooper đóng gói chiếc ống hút vào túi nhựa, rồi điền một bản yêu cầu phân tích AND. “Đó. Về nguyên tắc, đã có yêu cầu. Phòng xét nghiệm chỉ chưa biết có yêu cầu ấy thôi.” Anh cười thành tiếng.
    Dance trình bày: “Có sự thật gì đó quan trọng hắn đang giấu tôi. Hắn rất lo lắng về sự thật này. Câu trả lời của hắn trước câu hỏi của tôi về việc đã từng bị bắt giữ hay chưa là một câu trả lời gian dối, nhưng cũng là một câu trả lời được chuẩn bị cẩn thận. Tôi nghĩ rằng hắn từng bị tóm cổ, tuy nhiên lâu rồi. Không dấu vân tay lưu trữ nên hắn lách qua kẽ hở đó, có thể do một sự cẩu thả ở phòng kỹ thuật, có thể do lúc ấy hắn vẫn còn vị thành niên. Nhưng tôi biết rằng trước đây hắn từng gặp vấn đề với pháp luật. Và rốt cuộc tôi đã có thể cảm nhận được nó là vấn đề gì. Đó là lý do tại sao tôi cởi áo khoác và đề nghị Amelia đi qua đi lại xung quanh hắn. Hắn nhìn như ăn tươi nuốt sống chúng tôi. Hắn đã cố gắng không thể nhưng không đừng được. Biểu hiện đó khiến tôi nghĩ trước đây hắn từng một, hai lần cưỡng dâm. Tôi muốn đánh lừa hắn và sử dụng chuyện ấy chống lại hắn”.
     “Vấn đề là…”, Dance tiếp tục, “…hắn có thể thách thức tôi làm. Rồi chúng ta sẽ mất khả năng thương lượng và sẽ tốn nhiều thời gian để chế ngự hắn”.
    Sellitto nói với Rhyme: “Tôi biết anh thấy ưu, nhược điểm của kế hoạch này”.
    Phải, rõ khỉ, Rhyme nghĩ: “Hãy thử liều xem.”
    Sellitto hỏi: “Còn anh, Dennis?”
    “Tôi nên gọi vào trung tâm thì hơn. Nhưng chúng ta sẽ lỡ cơ hội nếu họ trả lời là không. Cứ tiến hành đi.”
    Nữ nhân viên mật vụ nói: “Một việc nữa tôi cần làm. Tôi phải gạt bản thân mình ra khỏi tình huống này. Dù hắn đã có ý đồ gì với tôi trong con hẻm, chúng ta cũng phải bỏ qua đi. Nếu tôi đã động đến nó, nó sẽ đưa mối qua hệ vừa được thiết lập tới một vị trí khác, và hắn sẽ không nói chuyện với tôi nữa, chúng ta sẽ phải bắt đầu lại từ đầu”.
     “Nhưng chị biết hắn đã có ý đồ gì với chị chứ?”, Sachs hỏi.
     “Ồ, tôi biết chính xác điều hắn toan tính trong đầu. Nhưng chúng ta phải tập trung vào mục đích của mình, đó là phát hiện ra Thợ Đồng Hồ. Đôi khi, người ta phải buông trôi những thứ khác.”
    Sellitto nhìn Baker và gật đầu.
    Nữ nhân viên mật vụ bước tới chiếc máy vi tính gần nhất gõ một số lệnh, rồi tên truy cập và mật khẩu. Cô nheo mắt nhìn khi website đó xuất hiện, gõ thêm một số lệnh nữa. Một trang cung cấp kết quả phân tích AND của một đối tượng nào đấy cuộn trên màn hình.
    Dance mở xắc lấy cặp kính cừu non ra đeo thay cặp kính sói già. “Bây giờ là đến phần thú vị đây.” Cô bước ra mở cửa, yêu cầu đưa Vincent quay lại phòng.
    Gã đàn ông to béo, mồ hôi đọng thành vết trắng dưới cánh tay, ì ạch quay lại phòng và ngồi xuống chiếc ghế dựa, chiếc ghế kêu lên ken két vì trọng lượng của gã. Gã có vẻ thận trọng.
    Dance phá vỡ sự im lặng. “Tôi e rằng chúng ta có một vấn đề, Vincent.”
    Cặp mắt gã híp lại.
    Dance giơ lên chiếc túi nhựa đựng chứng cứ bên trong là cái ống hút gã đã sử dụng. “Anh biết về ADN, phải không?”
     “Bà đang nói về cái gì vậy?”
    Rhyme tự hỏi: Liệu việc này có tác dụng không? Liệu Vincent có bị bịp không?
    Liệu Vincent có khiến cuộc phỏng vấn chấm dứt, câm như hến và đòi một luật sư không? Gã có mọi quyền làm việc đó. Sự dọa nạt sẽ thất bại hoàn toàn và họ có thể chẳng bao giờ lấy được thông tin từ gã cho tới lúc Thợ Đồng Hồ giết chết nạn nhân tiếp theo.
    Dance điềm tĩnh hỏi: “Anh đã từng nhìn thấy kết quả phân tích ADN của mình chưa, Vincent?”
    Dance quay màn hình mấy vi tính về phía Vincent. “Tôi không biết anh có biết Hệ thống danh mục phân tích ADN của FBI hay không. Chúng tôi gọi nó là CODIS. Nếu xảy ra bất cứ vụ cưỡng dâm nào mà đối tượng không bị bắt, các chất dịch, da và tóc của hắn sẽ được thu thập. Thậm chí với việc sử dụng bao cao su thì thông thường vẫn có một số thứ vương lại trên người hoặc gần nạn nhân, những thứ này mang ADN. Phân tích ADN được lưu giữ, và khi cảnh sát bắt một đối tượng tình nghi, phân tích ADN của người này được đem đối chiếu với danh mục phân tích ADN. Hãy nhìn đây.”
    Gã đàn ông hoàn toàn bất động, tuy hơi thở của gã nặng nề. Rhyme thấy cặp mắt gã lộ vẻ thách thức. “Chuyện này thật vô nghĩa.”
    “Anh biết đấy, Vincent, chẳng ai đánh bại được một vụ án lập trên cơ sở vững chắc là ADN. Và chúng tôi từng tiến hành kết án nhiều năm sau khi sự việc xảy ra.”
    “Bà không thể…” Vincent nhìn chằm chằm cái ống hút đựng trong túi.
    “Vincent”, Kathryn Dance nói nhẹ nhàng, “Anh gặp rắc rối đấy.”
    Về nguyên tắc thì đúng như vậy, Rhyme tự nhủ thầm. Vincent đang sở hữu một thứ vũ khí chết người.
    Đừng bao giờ nói dối…
    “Nhưng anh có thứ chúng tôi muốn.” Một thoáng ngừng lại, rồi Dance tiếp tục. “Tôi không biết về thủ tục pháp lý của New York, nhưng ở California, các ủy viên công tố có rất nhiều quyền hạn làm việc với những đối tượng tình nghi có thái độ hợp tác.”
    Dance nhìn Sellitto, người chịu trách nhiệm. “Phải. Vincent, ở đây cũng giống như thế. Các ủy viên công tố sẽ lắng nghe những khuyến cáo của chúng tôi.”
    Bối rối với các vạch trên màn hình máy vi tính, hai hàm răng nghiến chặt, Vincent không nói gì.
    Baker tiếp tục. “Đây là sự thỏa thuận: Nếu anh giúp đỡ chúng tôi bắt được Thợ Đồng Hồ và thú nhận những lần xâm hại tình dục đã thực hiện, chúng tôi sẽ miễn trừ cho anh tội giết người cũng như tội tấn công hai nạn nhân hôm trước. Chúng tôi đảm bảo rằng một trung tâm điều trị sẽ tiếp nhận anh.”
    Dance nói dứt khoát: “Nhưng anh phải giúp đỡ chúng tôi. Ngay bây giờ, Vincent. Anh nói sao?”
    Gã đàn ông liếc nhìn màn hình thể hiện một bản phân tích ADN không có bất cứ sự liên quan nào tới gã. Chân gã hơi rung rung – dấu hiệu cho thấy sự cân nhắc đang dấy lên trong gã.
    Gã chuyển ánh mắt thách thức sang Kathryn Dance.
    Có hay không? Sẽ là có hay không?
    Đúng một phút trôi qua. Rhyme chỉ nghe thấy tiếng những chiếc đồng hồ của Thợ Đồng Hồ kêu tích tắc.
    Vincent nhăn mặt. Gã ngẩng nhìn mọi người với ánh mắt lạnh lẽo. “Anh ta là doanh nhân đến từ vùng Midwest. Tên anh ta là Gerald Duncan. Anh ta đang ở lại một nhà thờ khu Manhattan. Tôi có thể xin một lon Coke nữa không?”

    Ghi chú

    [67] Ám chỉ nhà tù Abu Ghraib ở thành phố Abu Ghraib, Iraq. Năm 2003, nhà tù này bị tai tiếng quốc tế vì những cáo buộc về hành động tra tấn và lạm dụng tù nhân của quân đội Mỹ.