PHẦN 3
8:32 SÁNG THỨ NĂM
CHƯƠNG 35

     on Sellito quay lại nhà Rhyme, tức giận đi tới đi lui.
Có vẻ như luật sư của Duncan đã gặp viên trợ lý ủy viên công tố bang và đạt được thỏa thuận là với một bản khai thừa nhận tội lỗi, một khoản tiền một trăm nghìn đô la đền bù cho việc huy động cảnh sát và lực lượng cứu hỏa, cùng với một cam kết bằng văn bản rằng sẽ làm chứng buộc tội Baker, gã thoát mọi tội hình sự, và sẽ bị bắt lại nếu không giữ lời cam kết xuất hiện trước tòa làm chứng chống Baker. Gã chẳng hề bị lấy dấu vân tay hay ghi biên bản giam giữ.
Viên thám tử to béo quần áo nhàu nhĩ nhìn chằm chằm chiếc máy điện thoại, mắt quắc lên, tay chống nạnh, y như chính chiếc máy điện thoại là thằng ngốc bất tài đã thả một kẻ có khả năng giết người.
Sự tự vệ bộc lộ rõ ràng trong giọng ông công tố viên. “Chẳng còn cách nào khác để anh ta hợp tác”, người đàn ông nói. “Anh ta được đại diện bởi một luật sư của công ty Hoàng tử Reed. Anh ta chịu nộp hộ chiếu. Tất cả đều đúng quy tắc. Anh ta đồng ý vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của cơ quan pháp luật cho tới lúc xử Baker. Tôi đã bố trí cho anh ta ở tại một khách sạn trong thành phố, cắt cử một cảnh sát canh chừng. Anh ta sẽ không đi đâu. Có gì mà to chuyện? Tôi làm như thế này hàng trăm lần rồi.”
“Bên Westchester thì sao?”. Rhyme quát vào mic điện thoại “Cái xác bị đánh cắp thì sao?”
“Họ đồng ý không khởi tố. Tôi báo là chúng ta sẽ dành cho họ sự giúp đỡ mà họ đang cần với mấy vụ khác.”
Ông công tố viên có thể coi vụ này như chiếc nhẫn vàng trong sự nghiệp của ông ta, việc tiêu diệt được một đường dây cảnh sát tham nhũng sẽ khiến ông ta vụt nổi tiếng.
Rhyme lắc đầu, tức điên. Sự bất tài và thói tham vọng cá nhân khiến anh giận dữ. Thật khó khăn để làm công việc này mà không bị can thiệp bởi các quan chức. Chết tiệt thế nào mà chẳng có ai gọi cho anh trước khi thả Duncan ra? Thậm chí chưa có ý kiến của Kathryn Dance về đoạn băng phỏng vấn, cũng vẫn còn quá nhiều câu hỏi chưa được trả lời.
Sellitto quát: “Hắn đang ở đâu?”.
“Dù sao, bằng chứng nào...?”
“Hắn đang ở chỗ quái nào?”, Sellitto tức giận hỏi.
Ông công tố viên lưỡng lự nói cho họ biết tên một khách sạn ở khu Midtownvà số điện thoại di động của người cảnh sát canh chừng Duncan.
“Tôi gọi đây.” Cooper bấm số điện thoại.
Sellitto tiếp tục. “Và luật sư của hắn là ai?”
Viên trợ lý úy viên công tố bang cũng cho họ biết tên người này. Ông ta nóigiọng căng thẳng: “Tôi thật lòng không hiểu toàn bộ sự ầm ĩ này là…”.
Sellitto dập máy. Ông ta nhìn Dance. “Tôi chuẩn bị nhấn một số nút nghiêm trọng. Chị biết tôi đang nói gì chứ?”
Dance gật đầu. “Ở California, chúng tôi cũng gặp những trường hợp rất phiền phức. Nhưng tôi cảm thấy thoải mái với ý kiến của mình. Hãy làm bất cứ việc gì có thể để tìm thấy hắn. Tôi muốn nói là tất cả mọi việc. Tôi sẽ trình bày đúng ý kiến ấy với bất cứ ai anh muốn tôi trình bày. Giám đốc Sở, thị trưởng, thống đốc.”
Rhyme nói vói Sachs: “Thử xem vị luật sư biết gì về hắn”.
Cô lấy tên ông ta, mở điện thoại di động đánh tách. Tất nhiên, Rhyme biết về công ty Hoàng tử Reed. Đó là một công ty luật lớn, được kính trọng, ở mạn dướiBroadway. Các luật sư thuộc công ty này nổi tiếng với những vụ bảo vệ cho những tội phạm thuộc giới trí thức, thu hút nhiều sự chú ý.
Bằng giọng nghiêm trang. Cooper thông báo: “Chúng ta gặp phải một vấn đề. Liên quan đến người cảnh sát ở khách sạn, canh chừng Duncan. Anh ta vừa kiểm tra phòng hắn. Hắn biến mất rồi, Lincoln”.
“Cái gì?”
“Người cảnh sát nói tối hôm qua hắn đi ngủ sớm, bào rằng hắn cảm thấy không khỏe và hắn muốn hôm nay dậy muộn. Trông có vẻ hắn đã cạy khóa sang căn phòng sát bên cạnh. Người cảnh sát không biết việc này xảy ra khi nào. Chắc hẳn đêm hôm qua.”
Sachs nắm chặt chiếc điện thoại. “Hoàng từ Reed không cỏ luật sư nào mang tên như đã nói với ông công tố viên. Và Duncan chẳng phrave;i sản cá nhân của anh ta và tôi sẽ trả lại họ. Bản thân tôi sẽ chịu phí tổn tang lễ.”
“Chứng minh thư và những thứ trong ví mà chúng ta tìm thấy trên cái xác thì sao?”, Sachs hỏi.
“Giấy tờ giả mạo”, Duncan gật đầu. “Sẽ không qua được việc xem xét kỹ lưỡng, nhưng tôi chỉ cần người ta bị lừa trong vài ngày.”
“Anh đánh cắp cái xác, lái xe đưa nó đến con hẻm và bố trí nó với thanh sắt nén xuống cổ, nhằm làm cho người ta tưởng nạn đã chết từ từ.”
Duncan gật đầu.
“Rồi anh cũng để lại chiếc đồng hồ và lời ghi chú.”
“Đúng thế.”
Lon Sellitto hỏi: “Nhưng cái cầu tàu, ở phố Hai mươi hai? Người đàn ông anh giết tại đó thì sao?”.
Rhyme liếc nhìn Duncan. “Máu của anh thuộc nhóm AB phải không?”
Duncan cười thành tiếng. “Ông giỏi đấy.”
“Không hề có một nạn nhân trên cầu tàu, Lon ạ. Đó là máu của chính anh ta.” Quan sát kẻ bị tình nghi, Rhyme nói: “Anh để lại lời ghi chú và chiếc đồng hồ trên cầu tàu, đổ máu của anh ra xung quanh đấy và bôi lên chiếc vét tông rồi ném xuống sông. Anh tự tạo nên những vết móng tay cào. Anh lấy máu mình ở đâu? Anh tự lấy ra à?”
“Không, tôi lấy ở một bệnh viện bên New Jersey. Tôi bảo họ là tôi muốn dự trữ nó vì tôi đang có kế hoạch làm phẫu thuật.”
“Đó là lý do tại sao xuất hiện chất chống đông.” Máu để dự trữ thông thường được pha chất làm loãng nhằm ngăn chặn quá trình đặc lại.
Duncan gật đầu. “Tôi tự hỏi liệu ông đã kiểm tra chưa mà biết điều ấy.”
Rhyme hỏi: “Còn cái móng tay?”.
Duncan giơ ngón đeo nhẫn lên. Nửa trên móng bị mất. Gã đã tự tước nó ra. Gã nói thêm: “Và tôi chắc chắn rằng Vincent nói với các ông về cậu thanh niên tưởng là bị tôi giết chết gần nhà thờ. Tôi chưa từng động đến cậu ta. Máu trên cái cắt hộp cũng như trên tờ báo nằm trong thùng rác gần đó, nếu nó vẫn còn nằm đó, là của tôi”.
“Việc ấy xảy ra như thế nào?”, Rhyme hỏi.
“Đó là một thời điểm rất bất tiện. Vincent nghĩ cậu thanh niên trông thấy con dao của gã. Bởi vậy tôi phải giả vờ là tôi đã giết cậu ta. Nếu không Vincent có thể ngờ vực tôi. Tôi đi theo cậu ta qua góc phố, rồi rẽ vào một con hẻm, tự cứa cánh tay mình và bôi ít máu của chính mình lên cái cắt hộp.” Duncan chìa ra vết thương còn mới trên cẳng tay. “Các ông có thể xét nghiệm ADN.”
“Ồ, yên tâm. Chúng tôi sẽ làm...” Một ý nghĩ nữa xuất hiện. “Còn vụ cướp xe, anh chưa hề giết ai để đánh cắp chiếc Buick?” Họ chẳng nhận được báo cáo gì về trường hợp sinh viên mất tích ở Chelsea hay về lái xe bị giết để cướp xe ở bất cứ địa điểm nào trong thành phố.
Lon Sellitto không cầm lòng được đành một lần nữa ngắt lời. “Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra vậy?”
“Anh ta không phải là kẻ giết người hàng loạt”, Rhyme đáp. “Anh ta không phải là kẻ giết người thuộc bất cứ thể loại nào. Anh ta dựng lên toàn bộ sự việc để anh ta trông giống như một kẻ giết người mà thôi.”
Sellitto hỏi: “Không có vợ bị chết vì tai nạn à?”.
“Chưa từng kết hôn.”
“Làm sao sếp xác định được tình hình?”, Pulaski hỏi Rhyme.
“Vì một điều Lon nói.”
“Tôi ấy à?”
“Thứ nhất, anh nhắc đến tên anh ta, Duncan.”
“Thế thì sao? Chúng ta đã biết cái tên đó.”
“Chính xác. Vì Vincent Reynolds nói cho chúng ta. Nhưng ngài Duncan là người đeo găng tay 24/24 nhằm không để lại dấu vân tay. Cái cung cách quá thận trọng ấy mà lại khai họ tên với một kẻ như Vincent, trừ phi anh ta bất cần chuyện chúng ta có phát hiện ra anh ta là ai hay không. Rồi anh bảo thật may mắn vì anh ta chưa giết thêm nạn nhân nào và chưa giết Amelia. Nghe điều này, đầu tiên tôi cảm thấy bực bội. Nhưng tôi phải suy nghĩ về nó. Anh đã đúng. Chúng ta không thực sự cứu được nạn nhân nào. Cô thợ cắm hoa ấy à? Joanne ấy à? Tôi đồ rằng anh ta có nhằm vào cô ấy, chắc chắn rồi, nhưng cô ấy là người gọi 911 sau khi nghe được một tiếng động trong xưởng, một tiếng động có lẽ anh ta cố ý gây ra.”
“Đúng thế,” Duncan tán thành. “Và tôi để lại cuộn dây kẽm trên sàn nhằm cảnh báo với cô ấy rằng có người đã đột nhập.”
Sachs nói: “Về Lucy, nữ quân nhân ở khu Greenwich Village, chúng ta nhận được cú điện thoại từ một nhân chứng không xưng danh thông báo vụ đột nhập. Nái chết của nạn nhân, Andrew Culbert. Nó chẳng cung cấp thông tin gì khác ngoài việc anh ta là một nhà doanh nghiệp tới từ Duluth và bị giết trong một trường hợp có vẻ là cướp của ở khu Midtown. Không phát hiện ra đối tượng tình nghi nào. Không thấy tiếp tục đưa tin.
Rhyme bảo Thom đặt bản báo cáo điều tra vào chiếc giá có chức năng giở trang và nhà hình sự học bắt đầu đọc. Như lệ thường, đối với một vụ án chưa giải quyết xong, các đoạn ghi chú được viết tay bởi một vài người, vì cuộc điều tra cứ được chuyển từ người này sang người khác – với nhiệt tình càng ngày càng giảm đi. Theo báo cáo khám nghiệm hiện trường, hầu như không có dấu vết, không có vỏ đạn (nạn nhân chết do hai phát súng bắn vào trán, đạn cỡ 38, nhưng khảo sát đường đạn những khẩu súng tịch thu của Baker và các cảnh sát khác đồn 118 thì thấy không phù hợp).
“Em đọc danh mục khám nghiệm hiện trường chưa?”, Rhyme hỏi Sachs.
“Để xem nào. Đây”, cô nói, nhấc tờ giấy lên. “Em sẽ đọc.”
Rhyme nhắm mắt lại để có hình dung rõ hơn về mỗi vật.
“Ví”, Sachs đọc. “Một chìa khóa phòng khách sạn St.Regis, một chìa khóa quầy bar mini, một chiếc bút hiệu Cross, một máy PDA[73], một hộp kẹo gôm, một tập giấy nhỏ với những chữ Phòng vệ sinh nam ở tờ trên cùng. Tờ thứ hai ghiChardonnay. Chấm hết. Thám tử chính thuộc bộ phận Án mạng là Ron Repetti.”
Phát điên lên được.
Vừa lắng nghe ca sĩ hát nhạc blue Blind Lemon Jefferson hát ca khúc See That My Grave Is Kept Clean qua máy iPod, Kathryn Dance vừa chằm chằm nhìn chiếc vali của mình, căng phồng, không chịu đóng hẳn lại.
Tất cả những gì mình mua là hai đôi giày, mấy món quà giáng sinh… ơ, ba đôi giày, một đôi gót thấp. Đôi này coi như không chiếm chỗ. Ôi, rồi lại chiếc áo len. Chiếc áo len là cả vấn đề.
Dance rút nó ra. Và thử lại. Những cái móc chỉ bập vào nhau nửa chừng, khoảng dăm bảy phân.
Điên lên được…
Mình phải làm sao trông cho thanh lịch. Dance tìm thấy chiếc túi dùng đựng đồ để người phục vụ phòng khách đem đi giặt, trút vào đấy quần bò, một bộ vét, những cái cuốn tóc, lũ bít tất dài và chiếc áo len to đùng, xấu xí. Cô thử đóng vali một lần nữa.
Tách.
Chẳng cần đến thấy phù thủy nào cả.
Máy điện thoại trong phòng đổ chuông và nhân viên lễ tân thông báo rằng Dance có khách.
Vừa kịp.
“Mời họ lên”, Dance nói, và năm phút sau, Lucy Richter đã ngồi trên chiếc đi văng nhỏ trong phòng cô.
“Chị muốn uống gì không?”
“Không, cảm ơn. Tôi không ở lâu được.”
Dance hất đầu chỉ chiếc tủ lạnh nhỏ. “Ai nghĩ ra quầy bar mini thật tệ. Những thanh kẹo và khoai tây chiên. Những thứ khiến tôi sa sút. Chà, tất cả đều khiến tôi sa sút. Và miệng nói tay đấm, xốt sansa[74] giá tận mười đô la.”
Lucy, trông có vẻ như chưa bao giờ phải tính toán đến một ca-lo hay gam mỡ thừa nào trong đời, bật cười. Rồi cô nói: “Tôi nghe nói họ đã bắt được hắn. Người gác cửa tòa nhà tôi ở bảo tôi thế. Nhưng ông ta không có thông tin chi tiết.”
Nữ nhân viên mật vụ trình bày về Gerald Duncan, về việc anh ta hoàn toàn vô tội, và về vụ bê bối tại một đồn cảnh sát khu vực thuộc Sở cảnh sát New York.
Lucy lắc đầu trước thông tin này. Rồi cô nhìn xung quanh căn phòng nhỏ. Cô nêu vài bình luận vu vơ về những bức tranh đóng khung treo trên tường, về quang cảnh bên ngoài cửa sổ. Bồ hóng, tuyết và một đường ống thông khí, đó là những chi tiết chủ yếu.
“Tôi đến chỉ để nói lời cảm ơn.”
Không, không phải thế, Dance tự nhủ thầm, nhưng cô đáp: “Chị không cần cám ơn tôi. Đó là công việc của chúng tôi mà”.
Dance để ý thấy hai cánh tay Lucy không còn khoanh trước ngực và người phụ nữ lúc này đang ngồi vẻ thoải mái, hơi ngả ra đằng sau, vai buông lỏng, nhưng không rũ xuống. Một sự thú nhận, hoặc cái gì đại loại thế, đang đến.
Dance chờ đợi sự im lặng kết thúc. Lucy hỏi: “Chị là một nhà tư vấn tâm lý à?”
“Không. Chỉ là một cảnh sát.”
Tuy nhiên, trong quá trình phỏng vấn, các đối tượng cũng thường xuyên giãi bày sau khi đã thú nhận, chia sẻ những lầm lỗi khác về đạo đức, những ông bố bà mẹ bị căm ghét, sự ghen tức với các anh chị em, những người vợ, người chồng không chung thủy, những nỗi giận dữ, những niềm vui, hy vọng. Tâm sự, tìm kiếm lời khuyên. Không, Dance không phải một nhà tư vấn tâm lý. Nhưng cô là mộti khách hàng của họ.”
“Ôi, mẹ kiếp”, Rhyme quát to.
“Thôi được”, Sellitto nói. “Tới lúc phải mời đến kỵ binh.” Ông ta gọi cho Bo Haumann chỉ huy Đơn vị Phản ứng nhanh và bảo rằng họ cần bắt đối tượng tình nghi lại ngay. “Chỉ có điều chúng tôi chẳng biết chính xác hắn đang ở đâu.”
Sellitto cung cấp cho vị sĩ quan chỉ huy chiến thuật những chi tiết ít ỏi mà họ đang nắm. Phản ứng của Haumann, mà Rhyme không nghe thấy, tuy nhiên suy ra được từ lời Sellitto. “Anh chẳng cần nói với tôi, Bo ạ.”
Sellitto để lại lời nhắn cho chính ủy viên công tố bang, rồi gọi cho Tòa nhà Lớn thông báo tình hình.
“Tôi muốn tìm hiểu thêm về hắn”, Rhyme nói với Cooper “Chúng ta đã tự mãn quá đáng. Chúng ta chưa hỏi đầy đủ.” Anh liếc nhìn Dance. “Kathryn, tôi thực sự không muốn đề nghị việc này…”
Cô đang cất điện thoại di động. “Tôi đã hủy chuyến bay rồi.”
“Tôi xin lỗi. Đây không hẳn là vụ của chị.”
“Nó là vụ của tôi kể từ lúc tôi phỏng vấn tay Cobb hôm thứ Ba”, Dance nói, cặp mắt màu xanh lá cây lạnh lùng và đôi môi bĩu ra.
Cooper đang chạy những thông tin họ đã biết được về Gerald Duncan. Anh ta lập một danh sách số điện thoại và bắt đầu gọi. Sau mấy cuộc trao đổi, anh ta nói: “Nghe này. Hắn không phải là Duncan. Cảnh sát bang Missouri đã điều xe tới cái địa chỉ ghi trên bằng lái Đúng, chủ sỡ hữu ngôi nhà mang tên Gerald Duncan,nhưng không phải gã Gerald Duncan của chúng ta. Người đàn ông sống ở đó đã chuyển đến Anchorage do yêu cầu công việc cách đây sáu tháng. Ngôi nhà hiện tại bỏ không và đang chờ cho thuê. Ảnh anh ta đây”.
Bức ảnh lấy từ bằng lái xe chụp một người đàn ông rất khác gã đàn ông họ bắt ngày hôm qua.
Rhyme gật đầu. “Xuất sắc. Hắn đọc báo để kiểm tra các tin rao cho thuê nhà, tìm thấy một ngôi nhà đã được rao lâu rồi và tính toán rằng trong vòng vài tuần nữa nó vẫn chưa được cho thuê vì vướng lễ Giáng sinh. Cũng giống như đối với ngôi nhà thờ vậy. Và hắn làm giả tấm bằng lái xe mà chúng ta xem. Cả hộ chiếu nữa. Chúng ta đánh giá quá thấp gã này ngay từ đầu.”
Cooper, nhìn chằm chằm vào máy vi tính, gọi to: “Chủ sở hữu ngôi nhà kia,Duncan thật, gặp một số vấn đề về thé tín dụng. Thông tin cá nhân bị đánh cắp”.
Lincoln Rhyme cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc thân mình, phần cơ thể mà theo lý thuyết anh không cảm thấy được gì cả. Anh có cảm giác rằng một tai họa vô hình đang lộ ra nhanh chóng.
Dance nhìn gương mặt bất động của Duncan cũng chăm chú y như Rhymenhìn các bảng chứng cứ. Cô nói với vẻ trầm ngâm: “Hắn thực sự đang toan tính điều gì?”.
Một câu hỏi họ chưa thể bắt đầu trả lời được.
Ở trên tàu điện ngẩm, Charles Vespasian Hale, gã đàn ông đã giả dạng Gerald Duncan, Thợ Đồng Hồ, kiểm tra chiếc đồng hồ đeo tay (chiếc đồng hồ Breguet bỏ túi mà gã yêu quý không phù hợp với vai trò gã chuẩn bị sắm).
Tất cả đã theo đúng kế hoạch. Gã đang đáp chuyến tàu xuất phát từBrooklyn, nơi gã có ngôi nhà bí mật đầu tiên, mang tâm trạng đề phòng và cả hổi hộp nữa.
Tất nhiên, câu chuyện về bản thân mình trong quá khứ mà Hale kể choVincent Reynolds hầu như chả có gì là sự thật. Nó không thể nào là sự thật được. Gã đã lập kế hoạch dài hơi với cái công việc của gã và gã biết rằng kẻ hiếp dâm xốp xồm xộp kia sẽ khai tông tốc tất cả cho cảnh sát ngay khi vừa bi đe dọa.
Ra đời tại Chicago, Hale là con trai một thầy giáo dạy tiếng Latin bậc trung học (vì thế gã có cái tên lót đặt theo tên một vị hoàng đế La Mã cao quý) và mộtphụ nữ quản lý gian bán các món đồ đẹp đẽ xinh xinh ở một cửa hiệu ngoại ô thuộc hệ thống công ty Sears. Cặp vợ chồng chẳng bao giữ nói nhiều, chẳng làm nhiều. Tối tối, sau bữa ăn yên lặng, cha gã đến chỗ những cuốn sách, mẹ gã đến chỗ chiếc máy khâu. Đối với họ, một hoạt động kiểu gia có thể là ngồi vào hai chiếc ghế riêng rẽ, trước chiếc ti vi nhỏ, theo dõi những bộ phim sitcom vớ vẩn và những vở kịch vụ án vừa xem vừa đoán được tình tiết chúng tạo ra cho họ thứ phương tiện giao tiếp độc nhất vô nhị – bằng cách bình luận về những diễn biến trên màn hình, họ bày tỏ vói nhau những mong mỏi, những nỗi bất mãn mà họ không có đủ can đảm để thổ lộ trực tiếp.
Yên lặng...
Đứa con trai hầu như suốt đời là kẻ cô độc. Gã là đứa con xuất hiện bất ngờ và cha mẹ gã cư xử với gã bằng cung cách trang trọng, lãnh đạm, giễu cợt, y như gã là một loài thực vật mà họ không chắc chắn phải tưới nước, bón phân ra sao. Biết bao nhiêu tiếng ? Vẫn còn điều gì nữa, phải không?”.
Một tiếng cười yếu ớt. “Vâng, đây là vấn đề. Chị thấy đấy, chuyến du lịch của tôi được lên lịch vào tháng sau. Nhưng tôi cảm thấy tội lỗi vì chuyện Pete tới mức tôi đã đến Sở chỉ huy nói tôi sẽ tái ngũ.”
Dance gật đầu.
“Đó là nội dung lần tuyên dương này. Nó không phải về việc bị thương. Ngày nào chúng tôi chả bị thương. Nó là về việc tái ngũ. Quân đội đang gặp nhiều khó khăn trong tuyển quân. Họ sẽ sử dụng những người xin tái ngũ làm một thứ áp phích cổ động. Rằng chúng tôi thích cuộc sống quân ngũ tới mức chúng tôi muốn tiếp tục. Đại khái thế.”
“Và chị đang suy nghĩ lại?”
Lucy gật đầu. “Việc này đang khiến tôi phát điên. Tôi không thể ngủ được. Tôi không thể làm chuyện ấy với chồng tôi. Tôi không thể làm gì… Tôi cô đơn, tôi sợ hãi. Tôi nhớ gia đình. Nhưng tôi cũng biết chúng tôi đang làm một việc quan trọng ở đó, một việc tốt đẹp cho nhiều người. Tôi không thể quyết định nổi. Đơn giản là tôi không thể quyết định.”
“Điều gì sẽ xảy ra nếu chị nói với họ rằng chị đã suy nghĩ lại?”
“Tôi không biết. Họ có lẽ sẽ bực bội. Tuy nhiên chúng ta sẽ không nói tới tòa án binh. Nó là vấn đề của tôi nhiều hơn. Tôi sẽ khiến mọi người thất vọng. Tôi sẽ từ bỏ một cái gì đó. Điều tôi chưa từng làm trong đời. Tôi sẽ không giữ được lời hứa.”
Dance suy nghĩ một lát, nhấm nháp chút nước. “Tôi không thể bảo chị nên hành động như thế nào. Nhưng tôi sẽ nói điều này: Công việc của tôi là tìm kiếm sự thật. Hầu hết những người tôi tiếp xúc là các đối tượng, những kẻ tội phạm. Bọn họ biết sự thật và bọn họ nói dối để giữ thân. Tuy nhiên, cũng có nhiều người tôi gặp tự nói dối chính mình. Và thông thường họ thậm chí không biết điều ấy.
Nhưng dù chị lừa dối cảnh sát hay mẹ mình, hay chồng mình, hay bạn bè, hay chính bản thân chị, các dấu hiệu luôn luôn giống nhau. Chị bị căng thẳng, giận dữ, chán nản. Sự lừa dối khiến người ta xấu xa đi. Sự thật khiến người ta tốt đẹp… Tất nhiên, đôi khi xem chừng sự thật là cái cuối cùng người ta mong muốn. Nhưng tôi không thể nói với chị đã bao nhiêu lần tôi khiến một đối tượng tự thú và anh ta cho tôi thấy vẻ mặt này, nó giống như sự nhẹ nhõm hoàn toàn vậy. Điều kỳ lạ nhất là đôi khi họ thậm chí còn cảm ơn.”
“Chị muốn nói tôi biết sự thật?”
“Ồ, vâng. Chị biết. Nó ở đó. Được che giấu kỹ. Và chị có thể không thích nó khi chị tìm thấy nó. Nhưng nó ở đó.”
“Làm sao tôi tìm thấy nó? Tự thẩm vấn chính mình?”
“Chị biết đấy, đó là một cách rất hay. Chắc chắn rồi, việc chị làm là xem xét những thứ mà tôi cũng xem xét: sự giận dữ, chán nản, phủ nhận, những lời bào chữa, ngụy biện. Khi nào chị cảm thấy như thế và tại sao? Đằng sau tình cảm này hay tình cảm kia là gì? Và đừng để cho bản thân chị trốn tránh bất kỳ điều gì. Hãy kiên trì xem xét. Chị sẽ tìm thấy cái chị thực sự mong muốn.”
Lucy Richter vươn người về phía trước và ôm lấy Dance – một việc hầu như chưa đối tượng nào từng làm.
Người nữ quân nhân mỉm cười. “Này, tôi có một ý tưởng. Chúng ta hãy viết một cuốn sách dạy cách rèn luyện bản thân. Hướng dẫn của một phụ nữ trẻ về việc tự thẩm vấn[76]. Nó sẽ là một cuốn sách bán chạy.
“Bằng tất cả thời gian rảnh rỗi của chúng ta nhé”, Dance bật cười.
Họ chạm hai chai nước vào nhau kêu keng một tiếng.
Mười lăm phút sau, họ đang thưởng thức cà phê và món bánh nướng nhân việt quất gọi từ bộ phận phục vụ phòng thì chuông điện thoại di động của Dance cất lên lanh lảnh. Cô nhìn số máy hiển thị, lắc đầu và bật cười.
Chuông cửa nhà Rhyme kêu. Một lát sau, Thom bước vào phòng thí nghiệm cùng với Kathryn Dance. Tóc cô bỏ xõa, chứ không tết chặt như trước, và bộ tai nghe máy iPod đung đưa quanh cổ. Cô cởi chiếc áo choàng mỏng, chào Sachs và Mel Cooper cũng mới tới.
Dance cúi xuống nựng chú chó Jackson.
Thom nói: “Hừm, chị thích một món quà chia tay như thế nào?”. Và hất đầu chỉ chú chó giống Havanese.
Dance bật cười. “Nó rất đáng yêu, nhưng ở nhà tôi số lượng động vật đã đến mức tối đa rồi, đều thuộc loài hai chân và bốn chân cả”.
Đó là Rhyme gọi điện, hỏi liệu cô có thể giúp đỡ họ một lần nữa không? “Tôi xin hứa đây sẽ là lần cuối cùng”, anh nói khi cô đang ngồi cạnh bên anh lúc này.
Hết giờ này sang giờ khác, gã ở bên ngoài – đi bộ hoặc trèo cây. Vì một lý do nào đấy mà người ta dễ chịu đựng tình trạng cô đơn hơn khi người ta ở bên ngoài trời. Luôn luôn có cái gì đó khiến người ta phân tán tư tường, luôn luôn có cái gỉ đó người ta sẽ tìm thấy bên kia ngọn đồi tiếp theo, ở cái cành tiếp theo trên cây thích. Gã tham gia câu lạc bộ sinh học ngoài trời ở trường. Gã tham gia các cuộc thám hiểm của tố chức Huấn luyện Dã ngoại[77] và bao giờ cũng là người đầu tiên vượt qua chiếc cầu treo, lao xuống nước từ các vách đá, tụt xuống sườn núi theo dây thừng.
Nếu bắt buộc phải ở trong nhà, Charles hình thành thói quen lấp đầy thời gian bằng việc sắp xếp ngăn nắp các vật. Việc sắp xếp các dụng cụ văn phòng phẩm, những cuốn sách vả đồ chơi có thể không ngừng lấp đầy biết bao nhiêu tiếng đồng hồ nhức nhối. Gã không lẻ loi khi làm việc ấy, gã không đau đớn bởi buồn chán, gã không sợ sự yên lặng.
Mày có biết không, Vincent, rằng từ meticulous (thận trọng, tỉ mỉ) xuất phát từ từ meticulosus trong tiếng Latin, có nghĩa là sợ hãi?
Khi các thứ không chính xác và lộn xộn, Charles hay rơi vào trạng thái bị kích động, thậm chí nếu sai sót chỉ là cái gì đó ngớ ngẩn như một thanh ray tàu hỏa bị lệch hay một nan hoa xe đạp bị cong. Gã sợ bất cứ cái gì không trôi chảy cũng giống như người khác sợ tiếng móng tay dí ken két trên một tấm bảng đen vậy.
Cuộc hôn nhân của cha mẹ gã chẳng hạn. Sau khỉ cha mẹ gã ly dị, gã chưa bao giờ nói chuyện lại với họ. Cuộc đời phải trật tự và hoàn hảo. Khi nó không thể anh nên được tự do loại bỏ tất cả các yếu tố lộn xộn. Gã chẳng cầu nguyện (chẳng có bằng chứng thực tế nào cho thấy người ta làm cho cuộc đời trật tự hay đạt được mục tiêu thông qua sự giao tiếp với thánh thần), nhưng giả dụ như gã cầu nguyện, gã sẽ cầu nguyện cho tất cả các yếu tố lộn xộn biến mất.
Hale tham gia quân đội hai năm, ở đó gã phát triển mạnh mẽ trong môi trường của kỷ cương trật tự. Gã đi học tại trường đào tạo hạ sĩ quan và được các giáo sư chú ý. Sau khi gã được phong hàm sĩ quan, họ đề nghị gã dạy lịch sử quân sự và xây dựng kế hoạch chiến lược, chiến thuật, những lĩnh vực mà gã rất xuất sắc.
Giải ngũ, Hale dành một năm cho môn đi bộ việt dã và leo núi ở châu Âu. Rồi gã trở về Mỹ và làm nghề huy động vốn đầu tư mạo hiểm, học thêm luật buổi tối.
Gã làm luật sư một thời gian và xuất sắc trong việc xây dựng các hợp đồng kinh doanh. Gã kiếm được rất nhiều tiền, nhưng nỗi cô đơn không rời khỏi cuộc đời gã. Gã lảng tránh những mối quan hệ vì chúng đòi hỏi sự ứng biến và đầy những hành vi phi lý. Càng ngày niềm đam mê lập kế hoạch và đưa mọi vật vàotrật tự càng thay thế vai trò của một người tình. Và cũng giống như bất cứ ai thay thế một mối quan hệ có thật bằng một nỗi ám ảnh. Hale nhận ra mình đang tìm kiếm những cách mạnh mẽ để thỏa mãn bản thân.
Sáu năm trước, gã tìm thấy giải pháp hoàn hảo. Gã đã giết nạn nhân đầu tiên.
Sống ở San Diego, Hale biết chuyện một người cộng tác kinh doanh với gã bị thương nặng. Một thằng lái xe say rượu đâm vào xe anh ta. Tai nạn khiến phần hông anh ta nát bét và cả hai chân đều gãy đôi – một chân phải cắt bỏ. Thằng lái xe không bày tỏ bất cứ chút ăn năn nào, khăng khăng không chịu nhận mình đã sai, chẳng những thế còn đổ lỗi gây ra tai nạn lên chính nạn nhân. Thằng du côn bị kết án nhưng, vì là lần đầu tiên phạm tội, hắn được hưởng án nhẹ. Rồi hắn bắt đầu quấy rối người bạn làm ăn của Hale để vòi tiền.
Hale quyết định rằng không thể cho thằng kia tiếp tục. Gã đi đến một kế hoạch tỉ mỉ nhằm khiến thằng ranh con phải phát khiếp mà dừng lại. Nhưng khi gã xem xét toàn bộ kế hoạch, gã nhận ra nó làm gã cảm thấy thiếu thoải mái, bực bội. Kế hoạch ấy có cái gì đó vụng về. Nó không trật tự một cách chính xác như ý gã muốn. Cuối cùng, gã nhận ra vấn đề. Kế hoạch của gã khiến nạn nhân khiếp sợ, tuy nhiên vẫn sống. Nếu thằng nhãi kia chết, thì kế hoạch mới hoàn hảo và chẳng còn dấu vết nào dẫn tới Hale hay người bạn bị thương được.
Nhưng liệu gã có thể thực sự giết người không? Cái ý tưởng nghe hoàn toàn trái với lẽ thường.
Có hay không?
Vào một đêm tháng Mười mưa gió, Hale đi đến quyết định.
Vụ án mạng diễn ra hoàn hảo và cảnh sát chẳng hề ngờ vực cái chết của tay thanh niên là c&Trước khi bắt đầu tôi đã nghiên cứu luật và các quy định về kết án rồi. Tôi quyết định rằng vạch mặt được Baker thì vào ngồi tù cũng đáng. Nhưng tôi sẽ không hành động như thế nếu có bất cứ nguy cơ nào khiến người vô tội bị làm hại.”
“Dù sao anh vẫn đặt người ta vào chỗ nguy hiểm”, Sellitto lẩm bẩm. “Pulaski bị tấn công trong cái ga ra đỗ xe mà anh bỏ chiếc SUV lại. Cậu ấy có thể bị giết chết.”
Duncan bật cười.
“Không, không, tôi là người đã cứu anh ta. Sau khi chúng tôi bỏ chiếc Explorer lại và đang chạy khỏi ga ra, tôi phát hiện ra gã vô gia cư đó. Tôi không thích bộ dạng của gã. Gã cầm trong tay một cái gậy tày hay một cái móc lốp bằng sắt hay đại loại vậy. Sau khi Vincent và tôi mỗi người đi một hướng, tôi quay lại ga ra để chắc chắn rằng gã kia không làm hại ai. Khi gã bắt đầu tiến về phía anh – Duncan liếc nhìn Pulaski – tôi tìm thấy một nắp trục bánh xe trong thùng rác và ném nó vào tường để làm anh quay lại, nhìn thấy gã.”
Chàng cảnh sát trẻ gật đầu. “Sự việc xảy ra như thế thật. Tôi cứ nghĩ gã đàn ông trượt chân và tự gây ra tiếng động. Nhưng dù sao chăng nữa, tôi cũng đã sẵn sàng chiến đấu khi gã tiến đến tôi. Và có một nắp trục bánh xe ở gần đấy thật.”
“Còn Vincent?”, Duncan tiếp tục. “Tôi đã đảm bảo rằng hắn không bao giờ tiếp cận gần bất cứ phụ nữ nào đủ để làm hại họ. Tôi luôn luôn là người gọi 911 và trình báo về hắn. Tôi có thể chứng minh điều này.” Anh ta khai chi tiết thời gian và địa điểm những lần kẻ hiếp dâm bị bắt – khẳng định rằng anh ta là người đã gọi cảnh sát.
Vị công tố viên trông như thể cần nghỉ giải lao. Ông ta liếc nhìn các ghi chép, rồi Duncan, xoa xoa cái đầu hói bóng loáng. Đôi tai ông ta đỏ ửng lên vì lạnh. “Tôi phải trao đổi với ủy viên công tố bang về vụ này.” Ông ta ngoảnh sang hai thám tử của Sở Cảnh sát New York đã gặp ông ta ở đây. Vị công tố viên hất đầu chỉ Duncan và nói: “Đưa anh ta vào trung tâm. Và cử một người canh chừng anh ta cho sát sao, hãy nhớ rằng anh ta đang tố cáo những cảnh sát biến chất. Bọn họ có thể muốn bắn gục anh ta”.
Duncan được kéo đứng dậy.
Amelia Sachs hỏi: “Tại sao anh không đơn giản là đến chỗ chúng tôi và nói với chúng tôi những gì đã xảy ra? Hoặc ghi âm lời Baker thừa nhận những việc hắn đã làm? Như thế thì anh đã có thể tránh được toàn bộ trò đố chữ này”.
Duncan bật tiếng cười gằn. “Và ai tôi có thể tin tưởng? Ai tôi có thể gửi băng ghi âm? Làm sao tôi biết ai trung thực và ai đang hợp tác với Baker?... Đó là một thực tế của cuộc đời, chị biết đấy.”
“Cái gì cơ?”
“Những cảnh sát biến chất.”
Rhyme để ý thấy Sachs không hề bộc lộ phản ứng nào trước lời bình luận này, trong lúc hai sĩ quan mặc đồng phục dẫn đối tượng của họ ra xe cảnh sát.

*

Họ lại là, ít nhất cũng tạm thời, một nhóm.
Anh và em, Sachs...
Vụ của Lincoln Rhyme đã trở thành vụ của Amelia Sachs và nếu Thợ Đồng Hồ hóa ra vô hại, vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Vụ bê bối tham nhũng ở đồn 118 bây giờ trở thành “ưu tiên số một”, theo lời của Sellitto. Kẻ hoặc những kẻ giết Benjamin Creeley và Frank Sarkowski phải được xác định danh tính, đặc biệt trong số các cảnh sát bị tình nghi mắc tội đồng lõa. Và vụ Baker phải được điều tra ghép vào với vụ này, cũng như mối liên hệ ở Maryland – cùng đường dây tống tiền – phải được khám phá.
Kathryn Dance tình nguyện phỏng vấn Baker, nhưng gã không chịu nói một lời nên cả nhóm lại phải dựa vào công việc khám nghiệm hiện trường và điều tra kiểu truyền thống.
Theo chỉ đạo của Rhyme, Pulaski đang kiểm tra các cuộc điện thoại của Baker, nghiên cứu sổ sách ghi chép và thiết bị Palm Pilot[70] của gã, cố gắng tìm hiểu xem gã hay gặp gỡ ai nhất, và hay gặp gỡ ai nhất ở đồn 118, nhưng không phát hiện được gì hữu ích. Mel Cooper và Sachs thì phân tích các chứng cứ từ xe, ngôi nhà ở Long Island và văn phòng ở Sở Cảnh sát New York của Baker, cũng như nơi ở của vài cô bạn gái gã đang hẹn hò gần đây (hóa ra chẳng cô nào biết cô nào). Sachs đã khám xét tất cả bằng sự cần mẫn đặc trưng của cô và quay lại chỗ Rhyme với một đống hộp đựng quần áo, dụng cụ, sổ séc, tài liệu, ảnh, vũ khí và dấu vết từ ta lông bánh xe.
Sau một tiếng đồng hồ nghiên cứu kỹ lưỡng toàn bộ những thứ đó, Cooper tuyên bố: “A! Có một cái gì đây”.
“Cái gì?”, Rhyme hỏi.
Sachs nói với anh: “Tìm thấy ít tro trong mớ quần áo lấy từ xe của Baker.
“Và?”, Sellitto hỏi.
Hale chuẩn bị tinh thần là minh sẽ cảm thấy hối hận. Nhưng không, gã đã không cảm thấy hối hận gì. Thay vào đó là sự mê ly. Kế hoạch được thực hiện quá hoàn hảo, cái thực tế là hắn vừa giết người không thành vấn đề.
Con nghiện muốn có thêm thuốc.
Chẳng bao lâu sau đó, Hale tham gia vào một dự án kinh doanh ở Mexico City – xây dựng những khu vực điền trang sang trọng. Tuy nhiên, một quan chức tham nhũng đã gây ra đủ các trở ngại hòng khiến vụ làm ăn thất bại. Đối tác người Mexico của Hale cho biết kẻ ti tiện này đã hành động như vậy nhiều lần.
“Thật đáng tiếc nếu không loại bỏ được hắn”, Hale nói nhũn nhặn.
“Ổ, chẳng bao giờ loại bỏ được hắn đâu”, người bạn Mexico nói. “Anh có thể bảo là hắn bất khả xâm phạm.”
Điều này khiến Hale chú ý. “Tại sao?”
Tay ủy viên hội đồng thành phố này, người bạn Mexico giải thích, bị ám ảnh về vấn đề an ninh. Hắn đi một chiếc SUV bọc sắt to tướng, một chiếc Cadillac đặt sản xuất riêng, và luôn luôn mang theo vệ sĩ có trang bị vũ khí. Công ty nhận bảo vệ cho hắn liên tục thay đổi các tuyến đường để đi lại giữa nhà hắn và văn phòng, các cuộc gặp gỡ. Hắn chuyển gia đình từ ngôi nhà này sang ngôi nhà khác một cách ngẫu nhiên, và thường xuyên thậm chí không ở trong những ngôi nhà của chính hắn mà ở nhà bạn bè hoặc nhà thuê. Và hắn thường xuyên đi ra ngoài cùng đứa con trai còn ít tuổi – người ta đồn đại rằng hắn giữ thằng bé ở gần làm tấm mộc. Tay ủy viên hội đồng cũng được một bộ trưởng nội vụ liên bang cao cấp che chở.
“Vậy, anh có thể bảo là hắn bất khả xâm phạm”, người bạn Mexico nói trong lúc rót đầy hai ly Patrón, loại rượu tequila rất đắt tiền.
“Bất khả xâm phạm”, Hale trầm ngâm thì thầm. Gã gật đầu.
Chẳng bao lâu sau cuộc gặp gỡ, năm bài báo có vẻ không liên quan gì đến nhau xuất hiện trên tờ El Heraldo de Mexico số ra ngày 23 tháng Mười.
•  Một vụ hỏa hoạn xảy ra tại Mexicana Seguridad Privado, công ty cung cấp các dịch vụ an ninh, khiến toàn bộ nhân viên phải sơ tán. Không có báo cáo nào về thương vong và thiệt hại không đáng kể.
•  Một hacker đã làm tắt máy chủ của một nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động, khiến dịch vụ bị gián đoạn tại một phần Mexico City và khu vực ngoại ô phía nam trong hai tiếng đồng hồ.
•  Một chiếc xe tải bốc cháy giữa quốc lộ 160, phía nam Mexico City, gẩn Chalco, gây tắc nghẽn hoàn toàn tuyến giao thông lên phía bắc.
•  Henri Porfirio, Chủ tịch ủy ban cấp giấy phép kinh doanh bất động sản thành phố, qua đời khi chiếc SUV của ông làm sập cây cầu một làn đường, rơi thẳng từ trên cao mười hai mét xuống một xe tải chở propane[78] đang đỗ và nổ tung. Tai nạn xảy ra khi các lái xe đang theo những hướng dẫn từ bốt chỉ đường để rời khỏi quốc lộ, rẽ vào một đường nhánh để tránh một vụ ùn tắc giao thông lớn. Các xe khác trước đó đã vượt qua cây cầu an toàn, tuy nhiên, xe ông ủy viên hội đồng, vì bọc thép, quá nặng đối với cây cầu cũ kỹ, mặc dù có một tấm biển báo cây cầu chịu được trọng lượng xe SUV. Người phụ trách an ninh của Porfirio biếtvề vụ ùn tắc giao thông và cố gắng liên lạc để hướng dẫn cho ông một tuyến an toàn hơn nhưng không được, vì không kết nối được với điện thoại di động của ông. Xe ông là xe duy nhất rơi khỏi cầu.
Con trai Porfirio không ở trong chiếc SUV, đáng lẽ nó sẽ đi cùng ông. Ngày hôm trước bị ngộ độc nhẹ do thức ăn, cậu bé ở nhà với mẹ.
•  Erasmo Saleno, quan chức nội vụ cao cấp thuộc chính quyền liên bang Mexico, bị bắt sau khi một nguồn tin bí mật đưa cảnh sát tới ngôi nhà nghỉ mùa hè của ông ta, tại ngôi nhà họ tìm thấy vũ khí và cocaine được cất giấu (điều kỳ lạ là các phóng viên cũng được báo động, trong đó có một nhiếp ảnh gia có quan hệ với tờ Thời báo Los Angeles).
Tất cả là những tin tức được đăng trong một ngày.
Một tháng sau, dự án bất động sản của Hale bắt đầu triển khai và gã nhận từ người bạn làm ăn ở Mexico khoản chia thêm năm trăm nghìn đô la tiền mặt.
Gã hài lòng với món tiền. Tuy nhiên, gã còn hài lòng hơn với những mối quan hệ gã thiết lập được thông qua nhà doanh nghiệp Mexico. Chẳng bao lâu sau, nhà doanh nghiệp này lại giới thiệu gã với một người ớ Mỹ có nhu cầu về các dịch vụ tương tự.
Bây giờ, mỗi năm vài lần, giữa các dự án kinh doanh. Hale lại nhận một nhiệm vụ như thế. Thông thường là sát nhân, tuy nhiên gã cũng tham gia vào những âm mưu tài chính, lừa đảo bảo hiểm, và ăn trộm tinh vi. Hale làm việc cho bất cứ ai, vì bất cứ động cơ gì, những việc ấy không can hệ đến gã. Gã chẳng quan tâm tại sao ai đó lại muốn một tội ác được thực hiện. Gã đã hai lần giết những ông chồng lăng mạ vợ. Gã giết một kẻ gạ gẫm trẻ con một tuần trước khi giết một nữ doanh nhân là một Mạnh Thường Quân lớn cho Con đường thống nhất[79].
Định nghĩa tốt và xấu của Charles Vespasian Hale khác với của mọi người. Tốt là sự hào hứng về tinh thần. Và xấu là sự buồn chán. Tốt là một kế hoạch tinh vi được thực hiện suôn sẻ, và xấu là một kế hoạch cẩu thả hoặc một kế hoạch được thực hiện bất cẩn.
Nhưng âm mưu hiện tại của Hale – chắc chắn là âm mưu tinh vi và có ảnh hưởng nhất – đang được thực hiện một cách hoàn hảo.
Chúa sáng tạo ra bộ máy phức tạp của vũ trụ, ri lên dây cót và cho nó bắt đầu chạy...
Hale rời tàu điện ngầm và leo lên phố, mũi gã đau nhói vì lạnh, cặp mắt chảy nước, và gã bắt đầu đi bộ dọc theo vỉa hè. Gã chuẩn bị nhấn nút để những chiếc kim trên thiết bị bấm giờ đích thực của gã bắt đầu chạy.
Điện thoại của Lon Sellitto đổ chuông và ông ta nhận cuộc gọi. Cau mày, ông ta trao đổi mấy câu ngắn gọn. “Tôi sẽ xem xét.”
Rhyme ngẩng nhìn vẻ chờ đợi.
“Haumann. Anh ấy vừa nhận một cú điện thoại từ người quản lý một công ty chuyên phát bưu phẩm ở cùng tầng với cái công ty mà Thợ Đồng hồ đột nhập tại khu Midtown. Người quản lý nói một khách hàng vừa gọi điện. Một phong bì đáng lẽ phải giao ngày hôm qua lại chẳng thấy đâu cả. Xem chừng ai đó đã đột nhập và đánh cắp nó vào khoảng thời gian chúng ta đang rà soát văn phòng tìm kiếm đối tượng. Người quản lý hỏi liệu chúng ta có biết gì không.”
Ánh mắt Rhyme đưa sang những bức hình Sachs chụp dãy hàng lang. Chúa phù hộ cho cô, cô đã chụp toàn bộ tầng đó. Phía dưới tên công ty chuyển phát bưu phẩm là dòng chứ An ninh nghiêm ngặt – Chuyển phát bảo đảm những thứ có giá trị.
Rhyme nghe thấy tiếng mọi người nói lao xao xung quanh anh. Tuy nhiên anh không nghe thấy rõ ràng từng lời. Anh đăm đăm nhìn bức ảnh, rồi lại nhìn các chứng cứ khác.
“Sự tiếp cận vấn đề”. Rhyme thì thào.
“Sao cơ?”, Sellitto cau mày hỏi.
“Chúng ta quá tập trung vào Thợ Đồng Hồ và các vụ giết người giả, rồi tiếp theo vào kế hoạch tiêu diệt Baker của hắn, chúng ta đã không xem xét điều gì khác đang diễn ra.”
“Là điều gì?”, Sachs hỏi.
“Việc đột nhập. Tội mà hắn thực tế đã phạm là tội xâm nhập trái phép. Tất cả những văn phòng ở tầng đó đều không được gác mất một lúc. Khi người ta sơ tán tòa nhà, người ta để các cửa mở?”
“Chà, phải, tôi cho là vậy”, viên thám tử to béo nói.
Sachs tiếp lời: “Có nghĩa trong lúc chúng ta tập trung vào công ty thiết kế sàn, Thợ Đồng Hồ hẳn đã khoác lên người một bộ đồng phục hoặc chỉ cần đeo vào cổmột tấm phù hiệu rồi đi vào công ty chuyển phát hàng hóa và dễ dàng lấy cái phong bì kia”.
Sự tiếp cận vn đ...
“Hãy gọi cho công ty chuyển phát bưu phẩm. Tìm hiểu xem có gì bên trong phong bì, ai gửi nó và gửi đi đâu. Tiến hành ngay.”

Ghi chú

[77] Outward Bound expeditions: một tổ chức phi lợi nhuận xây dựng các chương trình thám hiểm thế giới hoang dã.
[78] Khí cháy, không màu, không mùi, bốc cháy ở 465°C.
[79] United Way: liên minh các tổ chức từ thiện ở Mỹ.

Truyện TRĂNG LẠNH .................. CHƯƠNG 1 < này.
- Không có đối tượng tình nghi.
- Giết người/cướp của?
+ Bị bắn chết trong một tình huống có vẻ là một vụ cướp của. Vũ khí thu được tại hiện trường – một khẩu súng làm nhái kiểu Smith & Wesson, cỡ 38, không dấu vân tay, không sổ đăng ký. Thám tử chịu trách nhiệm vụ này cho rằng đây là một vụ giết người thuê chuyên nghiệp.
- Chuyện kinh doanh đi xuống?
- Bị giết ở Queens – chưa biết chắc chắn ông ta sang đó làm gì.
+ Tại một khu vực hoang vắng, gần các bể chứa khí tự nhiên.
- Hồ sơ và chứng cứ thất lạc.
+ Hồ sơ được chuyển đến đồn 158 vào/gần ngày 28 tháng Mười một. Không được trả lại. Không xác định được sĩ quan yêu cầu.
+ Không xác định được nơi hồ sơ đến tại 158.
+ Phó Thanh tra Jefferies không hợp tác.
- Tỏ ra không có quan hệ với Creeley.
- Không có tiền án tiền sự – bản thân Sarkowski cũng như công ty.
- Tin đồn – tiền được chuyển cho cảnh sát đồn 118. Dừng lại ở một ai đó/một chỗ nào đó lien quan đến Maryland. Băng nhóm Baltimore có dính líu?
+ Không manh mối.
+ Không có dấu hiệu băng nhóm dính líu vào.
+ Chưa tìm thấy các mối liên hệ khác với Maryland.
THỢ ĐỒNG HỒ
HIỆN TRƯỜNG NĂM
Địa điểm:
- Tòa văn phòng, góc phố Ba mươi bảy và đại lộ Bảy.
Nạn nhân:
- Amelia Sachs/ Ron Pulaski.
Đối tượng:
- Dennis Baker, Sở Cảnh sát New York.
Phương thức hành động:
- Sử dụng súng (mưu sát).
Chứng cứ:
- Súng ngắn Autauga Mk II cỡ 32.
- Găng tay cao su.
- Thu được từ xe, nhà và văn phòng của Baker:
+ Cocaine.
+ 50.000 đô la tiền mặt.
+ Quần áo.
+ Hóa đơn từ các câu lạc bộ và quán bar, bao gồm cả quán Thánh James.
+ Những sợi thảm từ chiếc Explorer.
+ Sợi vải phù hợp với đoạn dây được sử dụng trong cái chết của Creeley.
+ Tro tìm thấy tại nhà Baker giống hệt tro tìm thấy trong lò sưởi nhà Creeley.
+ Hiện đang lấy mẫu đất tại khu vực Sarkowski bị giết.
+ Cát và rong biển. Mối liên hệ với vùng ven biển Maryland chăng?
Các chi tiết khác:
- Gerald Duncan dựng lên toàn bộ sự việc để vạch mặt Dennis Baker và những kẻ khác đã giết bạn Duncan. Tám hay mười sĩ quan khác đồn 118 có liên quan, chưa biết chắc chắn những người nào. Một người nữa, ngoài các cảnh sát đồn 118, cũng dính líu vào. Duncan không còn là đối tượng tình nghi giết người nữa.

Ghi chú

[70] Thiết bị ổ cứng của hãng Palm Inc., một hãng chuyên sản xuất thiết bị máy vi tính cầm tay đặt trụ sở tại Sunnyvale, California, cho phép người sử dụng kết nối với các mạng máy tính, có thể soạn, trả lời, quản lý thư điện tử từ xa.
[71] &Ali onClick="noidung1('tuaid=15547&chuongid=3">CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 CHƯƠNG 23 CHƯƠNG 24 CHƯƠNG 25 CHƯƠNG 26 CHƯƠNG 27 CHƯƠNG 28 CHƯƠNG 23 CHƯƠNG 24 CHƯƠNG 25 CHƯƠNG 26 CHƯƠNG 27 CHƯƠNG 28 CHƯƠNG 29 CHƯƠNG 30 CHƯƠNG 31 CHƯƠNG 32 CHƯƠNG 33 CHƯƠNG 34 CHƯƠNG 35 CHƯƠNG 36 CHƯƠNG 37 CHƯƠNG 38 CHƯƠNG 39 CHƯƠNG 40 CHƯƠNG 41 CHƯƠNG 42 CHƯƠNG 43 LỜI TÁC GIẢ