PHẦN 1
12:02 SÁNG THỨ BA
CHƯƠNG 6

     incent Reynolds đang đi bộ xuôi theo những con phố lạnh lẽo khu SoHo, trong ánh sáng màu xanh lơ của bầu không gian vắng tanh vắng ngắt, phía đông Broadway, cách các nhà hàng và cửa hiệu thanh lịch ở khu vực ấy vài khối phố. Gã đi chừng mười lăm mét đằng sau cô gái bán hoa – Joanne, cô gái sẽ sớm là của gã.
Ánh mắt gã đặt lên người cô, và gã cảm thấy một cơn đói, mạnh mẽ, cồn cào, mãnh liệt tựa cơn đói gã cảm thấy trong cái đêm đầu tiên gặp Gerald Duncan, nó đã chứng tỏ đó là một khoảnh khắc rất quan trọng đối với Vincent Reynolds.
Sau sự kiện Sally Anne – lần đó Vincent bị bắt giữ vì không kiềm chế được bản thân mình – gã tự nhủ sẽ phải khôn ngoan hơn. Gã sẽ đeo mặt nạ trượt tuyết, sẽ chiếm lĩnh người phụ nữ từ phía sau để họ không thể nhìn thấy gã, sẽ sử dụng bao cao su (nó dù sao cũng khiến gã chậm rãi lại), sẽ hầu như không săn đuổi, sẽ thay đổi các kỹ thuật và địa điểm tấn công, sẽ lên kế hoạch cho các vụ cưỡng đoạt cẩn thận và chuẩn bị tinh thần bỏ đi nếu có nguy cơ bị tóm.
Ờ, đấy là lý thuyết của gã. Nhưng trong những năm qua, việc kiềm chế nỗi đói khát càng ngày càng khó khăn hơn. Các cơn ham muốn bất chợt thường xuyên thao túng gã, gã nhìn thấy một phụ nữ một mình trên phố, và nghĩ, mình phải có cô ta.
Nỗi đói khát khiến người ta như thế đấy.
Hai tuần trước, Vincent đang ăn một miếng bánh ngọt sôcôla và uống một lon Coke tại nhà hàng nhỏ ngược bên trên con phố có cái văn phòng gã hay đến làm việc. Gã liếc nhìn cô gái phục vụ, một cô gái mới. Gương mặt tròn, thân hình mảnh dẻ, những lọn tóc quăn màu vàng đồng. Gã để ý thấy chiếc áo cánh chặt khít màu xanh lơ cô ta mặc mở hai khuy và, sâu trong tâm hồn gã, bùng lên nỗi đói khát.
Cô ta mỉm cười với Vincent khi mang hóa đơn tới và gã quyết định rằng gã phải có cô ta. Ngay tức khắc.
Gã nghe thấy cô gái bảo người chủ là sẽ đi vào trong hẻm hút điếu thuốc. Vincent trả tiền và bước ra ngoài. Gã bước đến chỗ con hẻm, rồi liếc nhìn vào trong. Cô ta đứng đó, mặc chiếc áo khoác, tựa người vào bức tường, không nhìn về phía gã. Lúc ấy đã muộn – gã thích làm ca từ ba giờ chiều tới mười một giờ đêm – và mặc dù vỉa hè vẫn còn vài khách qua đường, con hẻm hoàn toàn vắng vẻ. Không khí lạnh giá, lớp sỏi hẳn lạnh giá hơn, nhưng gã không quan tâm, thân thể cô ta sẽ giữ cho gã được ấm áp.
Bất chợt, Vincent nghe thấy một giọng nói thì thầm vào tai gã: “Hãy đợi năm phút nữa”.
Vincent giật nảy mình và xoay lại nhìn một người đàn ông có khuôn mặt tròn, thân hình rắn chắc, ở tuổi năm mươi, mang một cung cách điềm tĩnh. Gã đang nhìn chằm chằm qua Vincent vào trong con hẻm.
“Cái gì?”
“Hãy đợi.”
“Anh là ai?” Chính xác thì Vincent không sợ - gã cao hơn người đàn ông chừng năm phân, nặng hơn phải tới chừng hai mươi mấy kí-lô – nhưng vẻ lạ lùng trong cặp mắt màu xanh biếc kia làm gã kinh hãi.
“Điều ấy chẳng thành vấn đề. Hãy giả vờ như chúng ta là bạn bè, đanng nói chuyện.”
“Mẹ kiếp.” Tim nện thình thịch, hai bàn tay run rẩy, Vincent bắt đầu bước đi.
“Hãy đợi”, người đàn ông nhắc lại nhẹ nhàng. Giọng gã như có tác dụng thôi miên.
Và yêu râu xanh đã đợi.
Một phút sau, gã thấy một cánh cửa mở ra ở tòa nhà phía bên kia con hẻm, đằng sau quán ăn. Cô gái phục vụ bước đến chỗ ngưỡng cửa và nói chuyện với hai người đàn ông. Một người mặc com lê, còn người kia mặc đồng phục cảnh sát.
“Lạy Chúa”, Vincent thì thầm.
“Một cái vỏ bọc đấy”, gã đàn ông nói. “Con bé đó là cảnh sát. Theo tao tay chủ quán ăn còn làm nhiệm vụ ghi xổ số[27]. Bọn chúng tạo vỏ bọc cho hắn.”
Vincent nhanh chóng lấy lại tinh thần. “Thế thì sao? Chuyện đó đối với tôi chẳng thành vấn đề.”
“Nếu mày đã thực hiện điều mày dự định trong đầu, bây giờ mày lại chưa bị còng tay ư. Hoặc bị bắn bỏ.”
“Dự định trong đầu?”, Vincent hỏi, cố gắng để giọng nghe có vẻ vô tội. “Tôi không biết anh đang nói về cái gì.”
Người lạ chỉ mỉm cười, nhìn ngược lên con phố hỏi Vincent: “Mày sống ở đây à?”
Vincent trả lời sau chút im lặng: “Ở New Jersey.”
“Mày làm việc trong thành phố?”
“Phải.”
“Mày biết rõ Manhattan chứ?”
“Cũng khá rõ.”
Người đàn ông gật đầu, nhìn Vincent từ đầu đến chân. Gã tự xưng danh là Gerald Duncan và đề nghị cùng tới nơi nào đó ấm áp nói chuyện. Hai gã đi bộ qua ba khối phố tới một quán ăn nhỏ và Duncan gọi cà phê còn Vincent gọi một miếng bánh nữa và một lon soda.
Bọn gã nói chuyện về thời tiết, ngân sách thành phố và khu trung tâm Manhattan lúc nửa đêm.
Rồi Duncan nói: “Chỉ là một ý nghĩ thôi, Vincent. Nếu mày quan tâm đến cái công việc nho nhỏ mà tao vốn vẫn muốn có thể sử dụng ai đó không quá băn khoăn về chuyện pháp luật. Và nó sẽ cho phép mày thực hiện… sở thích của mày”. Gã hất đầu trở lại hướng con hẻm.
“Sưu tầm những bộ phim sitcom[28] từ thập kỷ bảy mươi à?”, Vincent Láu hỏi.
Duncan lại mỉm cười và Vincent đi đến kết luận là gã ưa người đàn ông này.
“Anh muốn tôi làm gì?”
“Tao mới tới New York vài lần. Tao cần một người biết vẽ các con phố, đường tàu điện ngầm, mô hình giao thông, các khu vực… một người biết được gì đó về cách thức cảnh sát làm việc. Chi tiết thì tao sẽ để dành nói sau.”
Hừm.
“Anh làm ngành gì?”, Vincent hỏi.
“Kinh doanh. Chúng ta sẽ bắt đầu ở đó nhé.”
Hừm.
Vincent tự bảo mình hãy đứng dậy đi thôi. Nhưng gã cảm thấy sức quyến rũ trong những lời của người đàn ông đó – về việc thực hiện cái sở thích của gã. Bất cứ điều gì có thể giúp gã thỏa mãn cơn đói đều đáng để cân nhắc, thậm chí nếu nó đầy mạo hiểm. Bọn gã tiếp tục chuyện trò nửa tiếng nữa, chia sẻ một số thông tin, giữ lại một vài điều. Duncan nói sở thích của gã là sưu tầm đồng hồ cổ và gã tự sửa chữa chúng. Gã thậm chí từng lắm một số chiếc từ đầu.
Và sau khi kết thúc món tráng miệng thứ tư trong ngày, Vincent hỏi: “Làm sao anh biết cô ta là cảnh sát?”
Duncan có vẻ suy nghĩ trong giây lát. Rồi gã trả lời: “Tao đã kiểm tra một người ở quán ăn ấy. Cái lão ngồi cuối quầy thu ngân. Nhớ không? Lão mặc bộ com lê màu sẫm”.
Vincent gật đầu.
“Tao đã theo lão suốt tháng qua. Tao chuẩn bị giết lão.”
Vincent mỉm cười. “Anh đang đùa.”
“Tao không đùa tí nào đâu.”
Và Vincent hiểu ra rằng đó là sự thật. Không có Gerald Láu. Hay Gerald Đói Khát. Luôn luôn chỉ có một: Gerald Điềm Tĩnh và Thận Trọng, kẻ đêm hôm ấy bộc lộ ý định giết người đàn ông ở quán ăn – một người tên là Walter – với cùng cung cách mà sau đấy gã đã thực hiện thành công lời giao hẹn: cắt cổ tay “thằng con hoang” và quan sát ông ta chiến đấu cho tới lúc rơi từ cầu tàu xuống dòng nước băng giá màu nâu của sông Hudson.
Thợ Đồng Hồ tiếp tục nói với Vincent rằng gã ở thành phố để giết cả những người khác. Trong số đó có phụ nữ. Miễn là Vincent cẩn thận và đừng mất quá hai mươi hay ba mươi phút, gã sẽ có thân thể sau khi họ chết rồi – làm những gì gã muốn. Đổi lại, Vincent sẽ giúp đỡ Thợ Đồng Hồ – hướng dẫn về thành phố, về các con đường, hệ thống giao thông và đứng gác, và thỉnh thoảng lái chiếc xe chạy trốn.
“Vậy, mày có quan tâm đến đề nghị của tao không?”
“Tôi nghĩ là có”, Vincent đáp mặc dù câu trả lời trong thâm tâm gã còn nhiệt tình hơn thế nhiều.
Và bây giờ Vincent đang tích cực với công việc, bám theo nạn nhân thứ ba: Joanne Harper, cô gái bán hoa của bọn gã, Vincnet Láu đã gọi cô như thế. Gã quan sát cô rút ra chiếc chìa khóa và biến mất sau cánh cửa giao hàng. Gã dừng lại, chén một thanh kẹo và tựa người vào một cột đèn, nhìn qua ô kính cửa hiệu đầy bụi.
Bàn tay Vincent chạm vào chỗ cạp quần căng phồng, chỗ giắt con dao Buck. Gã nhìn chằm chằm hình dáng mờ mờ của Joanne, cô bật đèn, cởi áo khoác, đi lại xung quanh xưởng hoa. Cô chỉ có một mình.
Nắm chặt con dao.
Vincent tự nhủ liệu cô có tàn nhang không, gã tự nhủ không biết mùi nước hoa cô xức như thế nào. Gã tự nhủ liệu cô có racute; hát karaoke. Gọi là quán Đêm Martuney.”
“Tốt.”
“Tôi gặp một nhóm ở đấy. Chúng tôi hay đến lắm. Bạn bè. Bạn bè thân thiết.”
Dance nhận ra Cobb có cử chỉ ra ý sẽ bổ sung điều gì – có lẽ anh ta chờ đợi cô hỏi tên bọn họ. Quá sẵn sàng cung cấp chứng cứ ngoại phạm là một dấu hiệu của sự dối trá – đối tượng có xu hướng nghĩ rằng cung cấp chứng cứ là tốt rồi và cảnh sát sẽ chẳng mất công kiểm tra, hoặc sẽ chẳng đủ thông minh để tính toán được là việc tụ tập nhậu nhẹt lúc tám giờ không loại anh khỏi một tội ăn cướp lúc bảy giờ ba mươi.
“Anh rời khỏi quán lúc mấy giờ?”
“Khoảng chín giờ.”
“Và về nhà?”
“Đến khu Upper East Side.”
Một cái gật đầu.
“Anh đi limo à?”
“Phải, limo”, Cobb nói một cách châm chọc. “Không, tôi đi tàu điện ngầm.”
“Từ ga nào?”
“Phố Wall.”
“Anh đã đi bộ?”
“Vâng.”
“Như thế nào?”
“Cẩn thận”, Cobb vừa nói vừa nhe răng cười. “Băng đông trơn trợt.”
Dance mỉm cười. “Con phố ấy à?”
“Tôi đã đi bộ xuôi theo phố Wall, cắt qua Cedar sang Broadway, rồi về phía nam.”
“Và đó là quãng anh mất cái kẹp tiền. Trên phố Cedar. Sự việc xảy ra như thế nào?” Giọng điệu và nội dung câu hỏi Dance đặt ra hoàn toàn không có vẻ gì đe dọa. Cobb lúc bấy giờ đã bớt căng thẳng. Thái độ của anh ta đỡ hung hăng hơn. Những nụ cười và chất giọng trầm, điềm tĩnh của Dance khiến anh ta thấy thoải mái.
“Theo tôi nghĩ, khả năng cao nhất là nó rơi khi tôi lấy thẻ tàu điện ngầm.”
“Anh thử nói lại xem bao nhiêu tiền?”
“Hơn ba trăm.”
“Ái chà…”
“Phải, nhiều đấy.”
Dance hất đầu về phía chiếc túi nhựa đựng chỗ tiền cùng với cái kẹp tiền. “Có vẻ như anh vừa rút tiền từ thẻ ATM. Thời điểm xui xẻo nhất để bị mất tiền, đúng không? Sau khi vừa rút tiền.”
“Vâng.” Cobb nở nụ cười nhăn nhó.
“Khi nào thì anh đến đường tàu điện ngầm.”
“Chín giờ ba mươi.”
“Anh chắc chắn là không muộn hơn thế chứ?”
“Tôi khẳng định. Tôi kiểm tra đồng hồ lúc đứng trên thềm ga mà. Chính xác là lúc chín giờ ba mươi lăm phút.” Cobb liếc xuống chiếc Rolex bằng vàng to tướng. Dance nghĩ, ý chừng muốn nói một chiếc đồng hồ đắt như thế này chắc chắn phải chạy cực kỳ chuẩn xác đây.
“Rồi sau đó?”
“Tôi về nhà và ăn tối tại quán bar gần tòa nhà tôi ở. Vợ tôi đi công tác. Cô ấy là luật sư. Làm những công việc liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Cô ấy chung phần mở văn phòng cùng người khác.”
“Chúng ta hãy quay lại phố Cedar. Phố có ngọn đèn nào sáng không? Mọi người đều ở trong nhà à?”
“Không, chỗ đó toàn cơ quan và cửa hiệu. Không có nhà dân.”
“Không nhà hàng?”
“Có vài nhà hàng nhưng chỉ phục vụ ăn trưa thôi.”
“Có công trình nào đang xây dựng không?”
“Họ đang cải tạo một tòa nhà ở mặt phía nam của phố.”
“Có ai đi bộ trên vỉa hè không?”
“Không.”
“Có chiếc xe nào chạy chậm, vẻ khả nghi không?”
“Không”, Cobb trả lời.
Dance mơ hồ nhận ra các sĩ quan khác đang quan sát cô và Cobb. Không nghi ngờ gì là họ đang sốt ruột, chờ đợi, giống như hầu hết mọi người, cái Phút Thú Nhận trọng đại. Cô phớt lờ họ. Chẳng có ai thực sự tồn tại ngoài cô và đối tượng của cô. Kathryn Dance ở trong một thế giới riêng biệt – một “miền” riêng biệt, đó là cách Wes, con trai cô, hay nói (cậu bé là chàng vận động viên trong gia đình).
Cô nhìn lướt qua phần vừa ghi chép. Rồi cô gập cuốn vở lại và thay một cặp kính khác, như thể cô quay sang kính viễn để đọc. Nhưng thực ra chỉ là cặp mắt tròn to và chiếc gọng màu nhạt được thay bằng cặp mắt nhỏ hình chữ nhật và chiếc gọng kim loại màu đen, khiến cô trông có dáng săn mồi. Cô gọi nó là “Kính Chiếu Yêu”. Dance ngả người về phía Cobb. Anh ta bắt tréo chân.
Với giọng gay gắt hơn nhiều, Dance hỏi: “Ari, thực sự chỗ tiền ấy ở đâu ra?”
“Chỗ…”
“Tiền ấy? Anh không rút ra từ thẻ ATM.” Lúc anh ta trình bày về chỗ tiền chính là lúc Dance để ý thấy anh ta căng thẳng hơn – mắt anh ta chẳng hề rời khỏi mắt cô, nhưng mí mắt thoáng cụp xuống và hơi thở thay đổi, hai sai lệch lớn so với xuất phát điểm không gian dối của anh ta.
“Tôi đã rút từ thẻ ATM”, Cobb phản công lại.
“Ngân hàng nào?”
Một chút im lặng. “Cô không thể bắt buộc tôi nói với cô điều này.”
“Nhưng chúng tôi có thể gửi trát yêu cầu ngân hàng của anh cung cấp các số liệu. Và chúng tôi sẽ giữ anh cho tới lúc chúng tôi nhận được các số liệu ấy. Có thể mất một hoặc hai ngày.”
“Rõ ràng là tôi đã rút tiền từ thẻ ATM.”
“Đó không phải là điều tôi hỏi anh. Tôi hỏi chỗ tiền mặt trong cái kẹp tiền của anh từ đâu ra.”
Cobb nhìn xuống.
“Anh đã không thành thật với tôi, Ari. Có nghĩa anh đang gặp vấn đề rất nghiêm trọng. Nào, về chỗ tiền?”
“Tôi không biết. Có lẽ một phần từ những khoảng tiền mặt lặt vặt ở công ty tôi.”
“Mà anh thu được ngày hôm qua?”
“Tôi nghĩ thế.”
“Bao nhiêu?”
“Tôi…”
“Chúng tôi cũng sẽ gửi trát yêu cầu được xem xét sổ sách của chủ anh.”
Cobb trông có vẻ choáng váng. Anh ta nói vội vàng: “Một nghìn đô la.”
“Số còn lại đâu? Ba trăm bốn mươi đô la trong cái kẹp tiền. Số còn lại đâu?”
“Tôi tiêu một ít tại quán Hanover. Nó là một khoản tiêu làm ăn. Nó hợp pháp. Một phần công việc của tôi…”
“Tôi đang hỏi số còn lại đâu.”
Một chút im lặng. “Tôi để một ít ở nhà.”
“Ở nhà? Vợ anh đã đi công tác về chưa? Cô ấy có thể xác nhận điều này không?”
“Cô ấy vẫn đi vắng.”
“Thế thì chúng tôi sẽ cử một cảnh sát đến tìm. Chính xác nó ở chỗ nào?”
“Tôi không nhớ.”
“Hơn sáu trăm đô la? Làm sao anh có thể không nhớ đã để hơn sáu trăm đô la ở chỗ nào?”
“Tôi không biết. Cô đang làm tôi bối rối.”
Dance tiếp tục tiến thêm về phía trước, đến một khoảng cách mang tính đe dọa.
“Anh thực sự đã làm gì lúc đó trên phố Cedar?”
“Đi bộ tới cái ga tàu điện ngầm chết tiệt ấy.”
Dance chộp lấy tấm bản đồ Manhattan. “Quán Hanover ở đây. Ga tàu điện ngầm ở đây.” Mỗi lần chỉ, ngón tay cô lại dằn mạnh thành tiếng trên thứ giấy dày in bản đồ. “Không có nghĩa gì khi đi bộ xuôi theo phố Cedar để từ quán Hanovertới ga tàu điện ngầm ở phố Wall cả. Tại sao anh đi như thế?”
“Tôi muốn tập thể dục một tí. Đi bộ qua những cửa hiệu bán món cánh gà rán và mở các ca khúc của nhóm Cosmopolitans.”
“Với vỉa hè đóng băng và trời lạnh mười mấy độ[31]? Anh làm việc đó thường xuyên à?”
“Không. Chỉ là đêm hôm qua thôi.”
“Nếu anh không đi bộ qua đó thường xuyên sao anh lại biết về phố Cedar nhiều vậy? Rằng không có nhà dân, thời gian các nhà hàng đóng cửa và công trình xây dựng kia?”
“Tôi biết đấy. Tất cả những điều này là cái quái quỷ gì?” Mồ hôi lấm tấm trên trán Cobb.
“Vào lúc đánh rơi tiền, anh đã tháo găng tay để lấy thẻ tàu điện ngầm ra khỏi túi áo khoác chứ?”
“Tôi không biết.”
“Tôi cho rằng anh đã tháo găng tay. Anh không thể thò tay vào túi áo khoác khi đang đeo loại găng mùa đông được.”
“Được rồi”, Cobb nói gay gắt. “Cô thông thạo quá, vậy thì tôi đã tháo găng.”
“Với nhiệt độ thấp như thế, tại sao anh lại tháo găng mười phút trước khi đến ga tàu điện ngầm?”
“Cô không thể nói với tôi theo cái cách này được.”
Dance nói bằng giọng trầm, kiên quyết. “Và anh đã chẳng xem giờ khi đứng trên thềm ga tàu điện ngầm, đúng chứ?”
“Có, tôi đã xem. Lúc đó là chín giờ ba mươi lăm phút.”
“Không, anh đã không xem. Anh sẽ không chìa ra một chiếc đồng hồ trị giá năm nghìn đô la trên thềm ga tàu điện ngầm ban đêm.”
“Thôi được, thế đấy. Tôi sẽ không nói gì nữa.”
Khi một nhân viên thẩm vấn đương đầu với một đối tượng gian dối, kẻ đó trải qua những trạng thái cực kỳ căng thẳng và phản ứng theo nhiều cách khác nhau để cố gắng thoát khỏi những trạng thái căng thẳng ấy – những chướng ngại vật trước sự thật, Dance gọi như vậy. Trạng thái phản ứng mang tính phá phách nhất và khó chế ngự nhất là trạng thái giận dữ, tiếp theo là chán nản, rồi đến phủ nhận, và cuối cùng là thương lượng. Vai trò của nhân viên thẩm vấn là xác định xem đối tượng đang ở trạng thái nào và trung hòa nó – cũng như tất cả các trạng thái tiếp theo – cho tới lúc rút cục đối tượng đi đến trạng thái chấp thuận, tức là thú nhận, khi mà anh ta cuối cùng sẽ thành thật.
Dance đã đánh giá rằng, mặc dù Cobb thể hiện trạng thái giận dữ, anh ta cơ bản đang ở trong trạng thái sẵn sàng phủ nhận – những đối tượng thế này rất láu cá, hay đổ tội cho trí nhớ và trách móc nhân viên thẩm vấn hiểu nhầm. Cách tốt nhất để khuất phục một đối tượng đang ở trong trạng thái phủ nhận là làm như Dance vừa rồi – kỹ thuận được gọi là “tấn công vào các sự thật”. Đối với một kẻ thuộc loại hướng ngoại, phải đánh mạnh và đánh trúng lần lượt từng điểm yếu và mâu thuẫn trong câu chuyện của kẻ đó cho tới lúc mọi lời biện hộ vỡ tan tành.
“Ari, anh rời khỏi văn phòng lúc bảy giờ ba mươi và đến quán Hanover. Chúng tôi biết thế. Anh ở đó khoảng một tiếng rưỡi. Sau đấy, anh đi bộ qua hai khối phố đến phố Cedar. Anh rành rẽ về phố Cedar vì anh vốn vẫn đến đây kiếm gái. Buổi tối hôm qua, trong khoảng từ chín giờ đến chín giờ ab mươi, một cô gái điếm đã đỗ xe gần con hẻm. Anh ra khỏi xe lúc khoảng mười giờ mười lăm. Đó chính là lúc anh đánh rơi tiền bên lề đường, chắc khi anh kiểm tra điện thoại di động xem vợ anh trước đó có gọi không hay lấy thêm ít tiền boa chẳng hạn. Lúc này, kẻ giết người đã vào trong con hẻm, anh để ý thấy và quan sát được điều gì đó. Điều gì? Anh đã nhìn thấy gì?”
“Không…”
“Có”, Dance đáp lại chắc chắn. Cô nhìn Cobb chằm chằm và không nói thêm gì nữa.
Cuối cùng, anh ta cúi đầu và buông chân đang bắt tréo xuống. Môi anh ta run run. Anh ta chưa thú nhận nhưng Dance đã đẩy anh ta lên thêm một bước trong chuỗi các trạng thái căng thẳng – từ chỗ phủ nhận chuyển sang thương lượng. Bây giờ, Dance phải thay đổi đường lối hành động. Cô sẽ vừa phải bày tỏ sự thông cảm vừa phải mở cho anh ta lối nào đấy để giữ thể diện. Thậm chí các đối tượng có tinh thần hợp tác nhất trong trạng thái thương lượng cũng sẽ tiếp tục dối trá hoặc gây bế tắc nếu bạn không tạo điều kiện cho họ giữ lại chút nhân phẩm và thấy một lối thoát khỏi những hậu quả tồi tệ nhất của việc họ đã làm.
Dance tháo kính và ngồi ngả người ra sau. “Nghe này, Ari, chúng tôi chẳng muốn phá hoại cuộc đời anh. Anh hoảng sợ. Điều đó dễ hiểu. Nhưng đây là một kẻ rất nguy hiểm mà chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn. Hắn giết hai người rồi và có thể sẽ giết thêm nhiều người nữa. Nếu anh giúp đỡ chúng tôi tìm thấy hắn, những gì chúng tôi biết về anh ở đây hôm nay chẳng cần thiết phải công khai. Không trát, không điện thoại cho vợ hay chủ anh.”
Dance liếc nhìn thám tử Baker, anh ta nói: “Tuyệt đối đúng như thế”.
Cobb thở dài. Mắt cắm xuống sàn, anh ta lẩm bẩm: “Mẹ kiếp. Ba trăm đô la chết tiệt. Vì lẽ quái quỷ gì mà tôi quay lại đó sáng hôm nay cơ chứ?”.
Tham lam và ngu ngốc, Kathryn Dance nghĩ. Nhưng cô nói dịu dàng: “Tất cả chúng ta đều mắc sai lầm.”
Một chút ngập ngừng. Rồi Cobb lại thở dài. “Đấy, cái chuyện điên rồ này. Chẳng nhiều nhặn gì, ý tôi là điều tôi trông thấy. Cô có thể không tin tôi. Tôi hầu như không trông thấy gì. Tôi thậm chí không trông thấy ai.”
“Nếu anh thành thật với chúng tôi, chúng tôi sẽ tin anh. Tiếp tục đi.”
“Khoảng mười giờ ba mươi, muộn hơn một chút. Sau khi tôi ra khỏi xe của… cô gái, tôi bắt đầu đi bộ đến ga tàu điện ngầm. Cô nói đúng. Tôi dừng lại và lấy điện thoại di động ra khỏi túi áo khoác. Tôi bật máy lên kiểm tra tin nhắn. Tôi nghĩ đó là lúc tiền rơi ra. Ở đầu con hẻm. Tôi liếc nhìn xuống cuối con hẻm và thấy đèn hậu của một chiếc xe.”
“Loại xe gì?”, Sachs hỏi.
“Tôi không nhìn thấy xe, chỉ đèn hậu thôi. Tôi xin thề.”
Dance tin điều này. Cô gật đầu với Sachs.
“Hẵng khoan”, Rhyme nói đột ngột. “Cuối con hẻm à?”
Rốt cuộc nhà hình sự học đã lắng nghe từ nãy tới giờ.
“Vâng. Tít cuối. Rồi đèn báo hiệu lùi bật lên và xe bắt đầu lùi về phía tôi. Người lái cho xe lùi khá nhanh nên tôi tiếp tục bước. Rồi tôi nghe thấy tiếng kít hãm xe, anh ta dừng lại và tắt máy. Anh ta vẫn ở trong con hẻm. Tôi tiếp tục bước. Tôi nghe thấy tiếng cửa xe đóng đánh sầm và một âm thanh. Giống như là một thanh kim loại lớn rơi xuống đất. Tất cả đấy. Tôi không trông thấy ai. Tôi chỉ đi qua con hẻm vào thời điểm ấy. Thực sự là vậy.”
Rhyme liếc nhìn Dance, cô gật đầu tỏ ý rằng Cobb nói thật.
“Hãy mô tả cô gái điếm”, Dennis Baker nói. “Tôi cũng muốn hỏi cả cô ta.”
Cobb trả lời vội vã: “Ở tuổi ba mươi, người Mỹ gốc Phi, tóc quăn ngắn. Tôi nghĩ xe của cô ta là xe Honda. Tôi không nhìn thấy biển số xe. Cô ta đẹp.” Anh ta bổ sung chi tiết này như một lời bào chữa không thỏa đáng.
“Tên?”
Cobb thở dài. “Tefanee. Hai chữ e chứ không phải y.”
Rhyme khẽ cười. “Gọi cho Vice, tìm hiểu về các cô gái làm việc thường xuyên trên phố Cedar.” Anh yêu cầu chàng phụ tá mảnh khảnh, trán đã bắt đầu hói.
Dance đặt thêm một số câu hỏi, rồi gật đầu, liếc nhìn Lon Sellitto và nói: “Tôi nghĩ ông Cobb đây đã trình bày với chúng ta tất cả những gì ông ấy biết”. Cô nhìn người đàn ông, nói vẻ chân thành: “Xin cảm ơn anh đã hợp tác”.
Cobb chớp mắt, không chắc chắn về ẩn ý trong câu nói của Dance. Nhưng Kathryn Dance chẳng hề mỉa mai. Cô chưa từng cảm thấy bị xúc phạm bởi lời lẽ hay ánh mắt giận dữ (đôi khi thậm chí cả nước bọt hoặc các vật bị ném) từ đối tượng. Một người phỏng vấn dựa trên giám định ngôn ngữ hình thể phải nhớ rằng kẻ thù không bao giờ là chính bản thân đối tượng mà đơn giản là những chướng ngại vật trước sự thật mà anh ta dựng lên, đôi khi thậm chí do vô tình.
Sellitto, Baker và Sachs thảo luận vài phút rồi quyết định thả người đàn ông mà không buộc tội anh ta. Kẻ “háo ngọt” đi ra, với ánh mắt dành cho Dance mà cô đã rất quen thuộc: có phần kính sợ, có phần ghê tởm, có phần căm ghét đơn thuần.
Sau khi Cobb đi ra rồi, Rhyme, lúc ấy đang nhìn một sơ đồ hiện trường vụ án mạng trong con hẻm, nói: “Điều này thật lạ lùng. Vì sao đó mà đối tượng lại quyết định rằng hắn không muốn bỏ nạn nhân ở cuối con hẻm, nên hắn đã lùi xe và chọn vị trí cách vỉa hè bốn mét rưỡi… Một thực tế đáng quan tâm. Nhưng liệu nó có hữu ích chăng?”
Sachs gật đầu. “Anh biết đấy, có thể. Phía cuối con hẻm xem ra không bị tuyết phủ tí nào. Họ hẳn đã không rải muối ở đó. Chúng ta có thể lấy được dấu chân hay vết bánh xe.”
Rhyme gọi một cú điện thoại – bằng chương trình nhận diện tiếng nói đầy ấn tượng – và cử mấy cảnh sát quay lại hiện trường vụ án. Không lâu sau, họ gọi lại và báo cáo rằng họ tìm thấy các vết bánh xe còn mới phía cuối con hẻm, cùng một sợi vải màu nâu dường như phù hợp với những sợi vải bám trên giày và đồng hồ đeo tay của nạn nhân. Họ tải các bức ảnh kỹ thuật số chụp sợi vải và vết bánh xe, kèm theo các kích thước giữa trục trước và trục sau xe lên mạng.
Mặc dù ít quan tâm đến lĩnh vực giám định vật chứng, Dance thấy thứ vũ ba lê này làm cho mình tò mò. Rhyme và Sachs là một nhóm rất hiểu biế. Cô không thể nào không bị ấn tượng khi mười phút sau đó, người kỹ thuật viên, Mel Cooper, rời mắt khỏi màn hình máy vi tính, nói: “Với kích thước giữa trục trước và trục sau xe, cùng những sợi vải màu nâu ấy,nó có lẽ là một chiếc Ford Explorer, đã chạy hai, ba năm.”
“Nhiều khả năng là ba năm rồi”, Rhyme nói.
Tại sao anh ta phán đoán như vậy? Dance băn khoăn.
Sachs nhìn thấy cái cau mày của cô và trả lời: “Phanh xe kêu to”.
À.
Sellitto quay sang Dance. “Rất tốt, Kathryn ạ. Chị đã phát giác ra sự gian dối của anh ta.”
Sachs hỏi: “Chị làm thế nào vậy?”
Dance giải thích quá trình cô đã áp dụng. “Tôi bắt đầu lục lọi. Tôi kiểm tra lại tất cả những gì anh ta khai với chúng ta, quán bar sau giờ làm việc, ga tàu điện ngầm, chỗ tiền mặt và cái kẹp tiền, con hẻm, trình tự các sự kiện xảy ra và địa thế khu vực. Tôi xem xét biểu hiện cơ thể của anh ta ở mỗi câu trả lời. Chỗ tiền mặt là vấn đề đặc biệt nhạy cảm. Anh ta đang làm gì không nên làm với chỗ tiền ấy? Một người kinh doanh thuộc loại hướng ngoại, đầy tự tôn như anh ta? Tôi xác định hoặc là ma túy hoặc là sex. Nhưng một người môi giới chứng khoán phố Wall không mua ma túy ngoài phố, anh ta phải có mối. Vậy còn lại gái. Đơn giản thế thôi.”
“Một cách xác định hữu hiệu, anh có nghĩ vậy không, Lincoln?”, Cooper hỏi.
Dance ngạc nhiên thấy nhà hình sự học có thể nhún vai. Rồi anh nói lửng lơ: “Xác định giỏi đấy. Chúng ta đã có một số chứng cứ mà đáng lẽ phải mất thêm thời gian chúng ta mới có được”. Cặp mắt anh quay lại với tấm bảng.
“Linc, thôi nào. Chúng ta đã có nhãn hiệu xe của thủ phạm. Nếu không nhờ cô ấy chúng ta sẽ không có nó đâu.” Sellitto bảo Dance: “Chị đừng tự ái. Anh ấy vốn vẫn không tin tưởng các nhân chứng”.
Dance gật đầu. “Anh nói buồn cười. Tôi vẫn giảng bài cho mọi người đúng như thế mà: rằng công việc chính của cảnh sát chúng ta không phải là ném những kẻ xấu xa vào tù mà là tìm kiếm sự thật.” Cô cũng nhún vai. “Chúng tôi vừa có một vụ ở hành án. Một thám tử tư bạn tôi đã điều tra ba năm cho luật sư của anh ta để đi đến tận cùng sự thật. Anh ta hoàn toàn không chấp nhận mọi việc như vẻ bề ngoài. Người tử tù cách cái chết mười ba tiếng đồng hồ và hóa ra anh ta vô tội… Nếu viên thám tử tư ấy không duy trì tìm kiếm sự thật suốt mấy năm, người tử tù bây giờ đã hết đời.”
Rhyme lên tiếng: “Tôi biết chuyện xảy ra. Tòa đã buộc tội bị cáo vì lời khai man của nhân chứng, và phân tích ADN trả tự do cho anh ta, đúng không?”
Dance quay sang đáp: “Không, thực tế vụ án không có nhân chứng. Thủ phạm thật đã giăng những vật chứng giả.”
“Chuyện đó thì sao”, Sellitto nói, ông ta và Sachs đều cười. Rhyme liếc nhìn cả hai với vẻ lạnh nhạt. “Được rồi”, anh nói với Dance. “Thật may mắn là tình hình đã được xử lý theo cách tốt nhất… Bây giờ tôi phải quay lại với công việc.” Và cặp mắt anh quay lại với tấm bảng trắng.
Dance chào tạm biệt tất cả và mặc áo khoác khi Lon Sellitto tiễn cô ra cửa. Ở ngoài phố, Dance đi bộ tới lề đường, đứng lại và đeo tai nghe iPod rồi bật máy. Danh sách các bài hát chọn lọc này bao gồm rock chuyển thể từ dân ca, các bài hát Ireland và một số bản rock đích thực của Rolling Stones (một lần tại một chương trình ca nhạc cô đã thực hiện phân tích ngôn ngữ hình thể đối với Mick Jagger và Keith Richards để hướng dẫn cho các bạn cô).
Cô đang vẫy một chiếc taxi thì nhận ra một cảm giác kỳ lạ không yên trong lòng. Lát sau cô mới xác định được cảm giác đó. Cô đang cảm thấy nuối tiếc day dứt rằng sự liên quan ngắn ngủi của cô với vụ Thợ Đồng Hồ đã kết thúc.
Joanne Harper đang vui vẻ.
Cô gái ba mươi hai tuổi vóc dáng gọn ghẽ có mặt tại xưởng hoa cách cửa hiệu bán lẻ khu SoHo của cô mấy khối phố về phía đông. Cô đang ở giữa những người bạn.
Đó là nói những bông hồng, địa lan, thiên điểu, loa kèn và hồng môn.
Xưởng hoa là một khu vực tầng trệt rộng trong một nhà kho cũ. Nó lạnh lẽo, gió lùa hun hút, và Joanne giữ cho hầu hết các phòng tối để bảo quản hoa. Tuy nhiên, cô vẫn thích nơi này, cái mát mẻ, ánh sáng lờ mờ, mùi tử đinh hương và phân bón. Phải, ô ở giữa Manhattan, nhưng nó dường như giống một khu rừng yên tĩnh hơn.
Cô gái bỏ thêm mốp cắm hoa vào chiếc bình gốm lớn trước mặt cô.
Tâm trạng vui vẻ.
Vì một số lý do: vì cô đang làm cho một dự án sinh lợi mà cô có toàn quyền thiết kế.
Và vì cảm giác thích thú sau cuộc hẹn hò buổi tối hôm trước.
Với Kevin, người biết rằng lan tiêu cần phải được thoát nước cực kỳ tốt để phát triển mạnh, rằng sống đời nở hoa đỏ thẫm dọc các con đường suốt tháng Chín, và rằng Donn Clendenon đã đánh ba quả qua tường giúp đội Mets đánh bại đội Baltimore năm 1969 (cha cô chụp được hai trong số ba quả đó bằng chiếc Kodak của ông).
Chàng trai dễ thương Kevin, Kevin với lúm đồng tiền và nụ cười tươi tắn. Hiện không có và chưa bao giờ có vợ cả.
Liệu câu chuyện còn có thể tốt đẹp hơn thế chăng?
Một cái bóng lướt ngang cửa sổ đằng trước, Joanne liếc nhìn lên, nhưng không thấy ai. Đây là quãng vắng vẻ về phía đông của phố Spring và hiếm có ai đi bộ qua. Cô kiểm tra cẩn thận các cửa sổ. Thực sự phải gọi Ramon đến rửa chúng thôi. Được, cô sẽ đợi tới lúc trời ấm hơn.
Joanne tiếp tục bố trí bình hoa và lại nghĩ về Kevin. Liệu họ có đi đến chuyện gì không?
Có thể.
Có thể không.
Chẳng thành vấn đề cho lắm (ừ, chắc chắn là thành vấn đề rồi, nhưng một phụ nữ thành phố độc thân ba mươi hai tuổi thì phải chọn đường lối chẳng-thành-vấn-đề-gì-cho-lắm). Tuy nhiên, điều quan trọng là Joanne thích được ở bên cạnh anh ta. Đã chơi trò hẹn hò hậu ly dị ở Manhattan mấy năm nay, cô cảm thấy mình có quyền hưởng chút vui vẻ với một người đàn ông khác.
Joanne Harper, vẻ bề ngoài giống nữ diễn viên tóc hoe hoe đỏ trong bộ phimSex and the city đến mảnh đết này cách đây mười năm để trở thành họa sĩ nổi tiếng, sống tại xưởng vẽ phía trước một cửa hiệu ở East Village và bán tranh trong một phòng tranh khu Tribecca. Nhưng thế giới nghệ thuật có những tư tưởng khác. Nó quá khắc nghiệt, quá nhỏ nhen, và, ờ, cũng quá phi nghệ thuật. Nó phải gây sốc, phiền phức, rắc rối, biết làm tình hoặc giàu có. Joanne từ bỏ nghệ thuật và thử làm thiết kế đồ họa một thời gian nhưng rồi lại không bằng lòng. Với ý thích bất chợt, cô nhận công việc tại một công ty tạo phong cảnh nội thất và cảm thấy yêu công việc này. Cô quyết định rằng nếu cô có chết đói thì ít nhất cô cũng chết đói khi đang làm những công việc cô say mê.
Tuy nhiên, chuyện hài hước là Joanne đã thành công. Cô xoay xở mở được một công ty riêng mấy năm trước. Nó bao gồm cả cửa hiệu bán lẻ trên đường Broadway và chỗ này – cơ sở thương mại phố Spring, phục vụ các công ty và các tổ chức, cung cấp hoa hàng ngày cho các văn phòng, thiết kế những mẫu hoa lớn cho các cuộc hội họp, lễ lạt và sự kiện đặc biệt.
Joanne tiếp tục bố trí thêm mốp, lá, cành bạch đàn và cẩm thạch cho các bình hoa – hoa sẽ được cắm vào sau cùng. Joanne thoáng rùng mình vì khí lạnh. Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ treo trên bức tường lờ mờ tối của xưởng. Cũng chẳng phải đợi chờ quá lâu, cô nghĩ. Hôm nay Kevin phải đi giao hàng vài nơi trong thành phố. Buổi sáng, anh đã gọi điện cho cô và bảo cô rằng buổi chiều anh sẽ tới cửa hiệu. Và, này, nếu em không bận bịu lúc áy, mình sẽ đi uống cappuccino hay cái gì đó.
Cà phê vào hôm sau một cuộc hẹn hò à? Bây giờ thì…
Một cái bóng nữa đổ trên ô cửa sổ.
Joanne lại vội vã ngẩng nhìn. Không có ai. Nhưng cô cảm thấy lo lắng. Ánh mắt cô nhìn sang cửa chính mà cô chẳng bao giờ sử dụng. Những chiếc hộp được xếp thành chồng phía trước cánh cửa. Đã khóa… hay chưa nhỉ?
Joanne nheo mắt nhưng ánh mặt trời chói khiến cô không thể nói nó đã được khóa chưa. Cô bước vòng qua chiếc bàn cắm hoa để đến kiểm tra.
Cô thử cái chốt cửa. Ừ, đã khóa rồi. Joanne ngẩng nhìn và há hốc miệng.
Cách cô chỉ khoảng một mét, trên vỉa hè phía bên ngoài, một gã đàn ông khổng lồ đang nhìn chằm chằm vào cô. Cao và to béo, anh ta đang ngả người về phía trước và nhìn chằm chằm qua ô cửa sổ với cặp mắt được che chắn. Anh ta đeo chiếc kính râm kiểu phi công đã lỗi mốt có tròng phản quang, đội chiếc mũ chơi bóng chày và mặc chiếc áo khoác ngắn bằng da liễn mũ trùm màu kem. Vì ánh nắng chói và lớp bụi bám trên cửa sổ, anh ta không thể nhìn thấy cô đang ở ngay trước mặt.
Joanne đông cứng người lại. Thi thoảng cũng có người nhìn trộm, tò mò về chỗ này, nhưng một sự tập trung cao độ trong tư thế của anh ta, trong cái cách anh ta lảng vảng, khiến cô rất lo lắng. Cửa chính không làm bằng loại kính đặc biệt, bất cứ ai với một chiếc búa hay một viên gạch đều đột nhập được. Và với việc rất ít người đi bộ qua lại khu vực này của SoHo, một cuộc tấn công có thể xảy ra mà hoàn toàn chẳng bị chú ý.
Joanne lùi lại.
Có lẽ cặp mắt anh ta đã quen dần với ánh sáng hoặc anh ta tìm thấy một khoảng kính cửa sổ sạch, anh ta nhận ra cô. Anh ta giật mình lùi lại, ngạc nhiên. Xem chừng anh ta cân nhắc gì đó. Rồi anh ta quay đi và biến mất.
Bước lên phía trước, Joanne áp mặt vào cửa sổ, nhưng cô không thể nhìn thấy anh ta đã đi đằng nào. Ở anh ta có vẻ gì đó ghê rợn – cái cách anh ta vừa đứng đấy, lom khom cúi về phía trước, đầu nghểnh, hai bàn tay nhét trong túi áo khoác, chiếu ánh mắt chằm chằm qua cặp kính râm kỳ quái.
Joanne xoay những cái bình sang bên cạnh và lại nhìn ra ngoài. Không thấy bóng dáng gã đàn ông. Tuy nhiên, cô chẳng thể nào cưỡng được ý muốn rời khỏi xưởng và đi về cửa hiệu, kiểm tra các thứ hóa đơn buổi sáng và tán gẫu với nhân viên của cô cho tới lúc Kevin đến. Không thấy bóng dáng anh ta. Cô bắt đầu bước về phía Broadway, theo hướng tây, hướng gã đàn ông to lớn biến mất. Cô bước trong một luồng ánh nắng chói chang, có vẻ gần như nóng. Ánh sáng rực rỡ khiến cô lóa mắt. Cô nheo mắt, lo sợ rằng mình không nhìn được rõ. Joanne dừng bước, chẳng muốn đi qua con hẻm bên trên phố kia. Liệu gã đàn ông có rẽ vào đấy không? Liệu anh ta có đang núp ở đấy, chờ cô không?
Joanne quyết định đi theo hướng đông, hướng ngược lại, và theo phố Price vòng sang Broadway. Lối ấy còn vắng vẻ hơn, nhưng ít nhất cô sẽ không phải đi qua bất cứ con hẻm nào. Cô kéo cho áo khoác quấn chặt thêm xung quanh người và vội vã bước, đầu cúi xuống. Hình ảnh gã đàn ông to béo nhanh chóng tuột khỏi tâm trí cô và cô lại nghĩ về Kevin.
Dennis Baker vào khu trung tâm để báo cáo những tiến triển trong cuộc điều tra, những thành viên khác của nhóm tiếp tục xem xét các chứng cứ.
Máy fax kêu và Rhyme ngẩng nhìn cái máy một cách háo hức với hy vọng có thông tin gì đó hữu ích. Nhưng bản fax là gửi cho Amelia Sachs. Rhyme quan sát cô kỹ càng trong lúc cô đọc bản fax. Anh biết vẻ mặt ấy. Giống như một con chó đuổi theo một con cáo vậy.
“Gì đấy, Sachs?”
Cô lắc đầu. “Phân tích chứng cứ thu được tại nhà Ben Creeley ở Westchester. Hệ thống hợp nhất nhận diện dấu vân tay tự đồng không cung cấp kết quả gì nhưng phát hiện những dấu vết của chất liệu da trên một số chi tiết lò sưởi và trên bàn làm việc của Creeley. Ai đã mở các ngăn kéo bàn làm việc khi đi găng?”
Tất nhiên, chẳng có cơ sở dữ liệu về dấu găng tay, nhưng nếu Sachs tìm thấy một đôi trong đống đồ vật của một đối tượng nào đấy phù hợp với những dấu vết này, đó sẽ là chứng cứ gián tiếp đáng tin cậy đặt hắn vào hiện trường, cũng đáng quy gần bằng một dấu vân tay rõ ràng.
Cô tiếp tục đọc. “Và thứ bùn em phát hiện ra phía trước lò sưởi thì sao? Nó không phù hợp với loại đất ở sân nhà Creeley. Nồng độ acid cao hơn và chứa một số chất ô nhiễm. Có vẻ là từ một khu công nghiệp.” Sachs tiếp tục. “Cũng thấy dấu hiệu của cocaine được đốt trong lò sưởi.” Cô nhìn Rhyme và nở nụ cười châm biếm. “Thật đáng thất vọng nếu nạn nhân vụ án mạng đầu tiên của em hóa ra lại tệ nạn đến vậy.”
Rhyme nhún vai. “Nữ tu sĩ hay kẻ buôn bán ma túy, án mạng vẫn là án mạng thôi, Sachs. Em còn có gì nữa nào?”
“Chỗ tro em phát hiện ra trong lò sưởi, phòng kỹ thuật không khôi phục lại được nhiều nhưng họ tìm thấy những cái này.” Sachs giơ lên bản chụp các loại giấy tờ tài chính, trông giống như một bảng tính hoặc một sổ cái, xem chừng thể hiện những dữ liệu nhập vào tổng cộng hàng triệu đô la. “Họ tìm thấy một phần của một logo hay biểu tượng gì đó trên số giấy tờ. Nhân viên kỹ thuật vẫn đang xác định. Và họ sẽ gửi các dữ liệu tài chính đến một nhân viên giám định kế toán, xem anh ta có hiểu về chúng không. Ngoài ra, họ tìm thấy một phần lịch công việc của ông ta. Những thứ đại loại như là thay dầu xe, hẹn cắt tóc… dù sao, cũng khó mà là lịch cho cái tuần anh chuẩn bị tự tử. Rồi vào hôm trước khi chết, ông ta đã tới Tửu quán Thánh James.” Cô đập đập tờ giấy – bản khôi phục lại lịch làm việc của ông ta.
Một lời nhắn do Nancy Simpson gửi mô tả về quán rượu kia. “Quán ở phố Chín Đông. Một khu vực nhớp nhúa. Tại sao một viên kế toán giàu có lại đến đó? Xem ra lạ lùng.”
“Cũng không hẳn.”
Sachs liếc nhìn Rhyme rồi bước tới góc phòng. Anh hiểu ý và lăn chiếc xe Storm Arrow màu đỏ đi theo.
Sachs khom người xuống bên cạnh anh. Anh phân vân tự hỏi liệu cô có cầm tay anh không (kể từ khi một vài cảm giác trở lại với cổ tay và những ngón tay bên phải của anh, việc cầm tay đã trở nên vô cùng quan trọng đối với cả hai). Nhưng có một ranh giới rất mong manh giữa đời tư và công việc của họ và bây giờ cô đang duy trì ở khía cạnh nghề nghiệp thuần túy.
“Rhyme”, Sachs thì thầm.
“Anh biết…”
“Hãy để em làm xong.”
Rhyme hầm hừ trong họng.
“Em phải điều tra vụ này.”
“Hãy xác định sự ưu tiên. Vụ của em ít nghiêm trọng hơn vụ Thợ Đồng Hồ, Sachs ạ. Dù chuyện gì đã xảy ra đối với Creeley, thậm chí nếu ông ta bị giết, đối tượng có lẽ cũng không phải là kẻ giết người hàng loạt. Thợ Đồng Hồ thì là một kẻ như thế. Hắn phải là ưu tiên của chúng ta. Bất cứ chứng cứ gì về Creeley cũng vẫn ở đó cho tới lúc chúng ta tóm xong gã kia.”
Sachs lắc đầu. “Em không nghĩ thế, Rhyme. Em đã nhấn nút. Em đã bắt đầu đặt câu hỏi. Anh biết những cái đó có tác động như thế nào. Người ta đang bàn tán về vụ án rồi. Chứng cứ và các đối tượng có thể biến mất ngay lúc này.”
“Và Thợ Đồng Hồ cũng có thể đang nhằm vào một nạn nhân khác ngay lúc này. Hắn có thể đang giết một người khác ngay lúc này… Và, hãy tin anh, nếu có một án mạng nữa và chúng ta để tuột mất bóng chúng ta sẽ phải trả giá đắt đấy. Baker bảo anh rằng yêu cầu đặt ra cho chúng ta là từ cấp cao nhất.”
Yêu cầu…
“Chúng ta không để tuột mất bóng. Chúng ta có một hiện trường khác, em sẽ giải quyết nó. Em sẽ ở đó, nếu Bo Haumann tổ chức một hoạt động mang tính chiến thuật.”
Rhyme cau mày một cách cường điệu. “Chiến thuật? Em không dùng món tráng miệng chừng nào em chưa ăn xong món rau.”
Sachs bật cười, và lúc này Rhyme đã cảm thấy sức nặng của bàn tay cô. “Nào, Rhyme, chúng ta ở trong ngành cảnh sát. Chẳng ai một lúc chỉ giải quyết một vụ. Hầu hết các ngăn kéo bàn của bộ phận Các vụ trọng án đều chất đầy hàng tá hồ sơ. Em có thể xử lý được hai vụ.”
Lo lắng bởi một linh tính anh không xác định được rõ ràng, Rhyme ngập ngừng rồi nói: “Chúng ta hãy hy vọng, Sachs ạ. Chúng ta hãy hy vọng.”
Đó là lời chúc tốt đẹp nhất anh có thể nói với Sachs.
Ghi chú
[31] oF, khoảng -10oC.