CHƯƠNG 30

     teve Farr lại đưa Henry Davett vào la-bô. Nhà doanh nghiệp cảm ơn Farr và gật đầu chào Rhyme. Farr đi ra.
“Henry”, Rhyme nói. “Cảm ơn ông đã tới.”
Cũng giống như lúc trước, nhà doanh nghiệp không chú ý gì đến tình trạng của Rhyme. Tuy nhiên, lần này, thái độ của ông ta không đem đến cho anh nguồn an ủi. Nỗi lo lắng về Sachs đang xâm chiếm anh. Đầu óc anh cứ văng vẳng giọng Jim Bell.
Thông thường anh có hai mươi tư tiếng đồng hồ để tìm thấy nạn nhân, sau khoảng thời gian đó nạn nhân trở nên mất tính người dưới con mắt kẻ bắt cóc và hắn sẽ giết họ chẳng cần suy nghĩ gì.
Quy tắc này, lúc trước được áp dụng cho Lydia và Mary Beth, bây giờ thì nó có ảnh hưởng đến cả số phận của Amelia Sachs. Sự khác biệt, như Rhyme tin tưởng, chính là Sachs có lẽ sẽ có ít hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ nhiều.
“Tôi tưởng anh đã bắt được thằng nhãi. Tôi nghe nói vậy mà.”
Ben đáp lời: “Hắn đã trốn thoát”.
“Không!”. Davett cau mày.
“Chắc chắn hắn đã trốn thoát”, Ben nói. “Một cuộc vượt ngục xưa như diễm.”
Rhyme: “Tôi có thêm một số chứng cứ, nhưng tôi không biết phải hiểu chúng như thế nào. Tôi hy vọng lại được ông giúp đỡ”.
Nhà doanh nghiệp ngồi xuống. “Tôi sẽ làm những gì có thể.”
Một cái liếc mắt qua cây ghim cài cà vạt khắc các chữ cái WWJD.
Rhyme hất đầu về phía bảng chứng cứ, nói: “Ông làm ơn đọc qua danh sách kia được không?Danh sách ở bên tay phải ấy”.
“Cối xay – hắn đã ở đó à? Cái cối xay cũ kỹ nằm về phía đông bắc thị trấn?”
“Đúng vậy”.
“Tôi biết chỗ ấy.” Davett tức tối nhăn mặt. “Tôi đáng lẽ đã phải nghĩ tới nó.”
Các nhà hình sự học không thể để cụm từ “đáng lẽ đã phải” len lỏi vào vốn từ vựng của họ. Rhyme nói: “ Trong công việc này, không thể nào mà nghĩ tới tất cả mọi điều được. Nhưng xin hãy đọc bảng chứng cứ. Có gì xem ra là quen thuộc đối với ông không?”.
Davett thận trọng đọc.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Vừa đăm đăm nhìn bảng chứng cứ, Davett vừa nói với giọng hết sức bối rối: “Giống như một câu đố vậy”.
“Đó là bản chất công việc của tôi”, Rhyme nói.
“Tôi có thể suy đoán tới mức nào?”, nhà doanh nghiệp hỏi.
“Tới mức nào là tùy ý ông”, Rhyme trả lời.
“Được rồi”, Davett nói. Ông ta nghĩ ngợi một lát. “Một cái vũng nguyệt quế Carolina.”
Rhyme hỏi: “Là thế nào? Nước mưa à?”.
Davett liếc nhìn Rhyme xem liệu anh có đang đùa không, rồi đáp: “Không, đó là một đặc điểm địa chất mà người ta vốn vẫn thấy dọc bờ biển miền Đông. Tuy nhiên, phần lớn chúng xuất hiện ở khu vực Carolina, Bắc và Nam. Về cơ bản, chúng có dạng những cái áo hình bầu dục, sâu chừng ba, bốn feet, chứa nước ngọt. Chúng có thể rộng từ nửa mẫu Anh cho tới vài trăm mẫu[36]. Đáy những cái ao này chủ yếu là đất sét và rêu nước. Hoàn toàn đúng với chứng cứ trên bảng kia.”
“Nhưng đất sét và rêu nước – chúng cũng khá phổ biến xung quanh đây”, Ben nói.
“Phải”, Davett đồng tình. “Và nếu các anh chỉ tìm thấy hai thứ đó, tôi sẽ không có manh mối nào lần ra nguồn gốc của chúng đâu. Nhưng các anh còn tìm thấy một số thứ khác. Xem đây này, một trong những đặc điểm thú vị nhất về vũng nguyệt quế Carolina chính là các loài cây ăn thịt côn trùng mọc xung quanh nó. Có hàng trăm loài cây bắt ruồi, cây gọng vó, cây nắp ấm – có thể vì môi trường ao nước khiến côn trùng sinh sôi nhiều. Nếu các anh tìm thấy cây gọng vó cùng với đất sét và rêu nước thì chẳng còn nghi ngờ gì, thằng nhãi ấy từng quanh quẩn đâu đấy xung quanh một cái vũng nguyệt quế Carolina”.
“Tốt”, Rhyme nói. Rồi, đăm đăm nhìn tấm bản đồ, anh hỏi: “Vũng nguyệt quế có nghĩa thế nào?”.
“Nó ám chỉ những cây nguyệt quế mọc xung quanh các ao nước này. Có đủ thứ chuyện hoang đường liên quan đến chúng. Những người tới định cư thuở xa xưa từng nghĩ chúng đã được những con quái vật biển khoét đất tạo thành hay do những mụ phù thủy niệm thần chú. Giả thuyết về dấu vết của thiên thạch rơi xuống trái đất tồn tại một số năm. Nhưng chúng thực sự chỉ là những chỗ lõm tự nhiên, kết quả của gió và các dòng chảy.”
“Chúng có phải đặc điểm riêng biệt của khu vực cụ thể nào xung quanh đây không?”, Rhyme hỏi, hy vọng các ao nước này sẽ giúp thu hẹp phạm vi tìm kiếm lại.
“Ở một mức độ nào đấy.” Davett đứng lên và bước tới trước tấm bản đồ. Ông ta dùng ngón tay khoanh tròn một khu vực rộng nằm về phía tây Tanner’s Corner. Từ ô B-2 đến ô E-2 và từ ô F-13 đến ô B-12. “Anh sẽ tìm thấy chúng phần lớn là ở đây, khu vực này, ngay trước khi anh tới chỗ các quả đồi”.
Rhyme cảm thấy nản. Khu vực Davett khoanh tròn phải rộng tới bảy mươi háy tám mươi dặm vuông.
Davett nhận ra phản ứng ở Rhyme. Ông ta nói: “Giá như tôi có thể giúp đỡ được nhiều hơn”.
“Không, không, tôi rất biết ơn ông. Ý kiến của ông sẽ hữu ích. Chúng ta chỉ cần thu hẹp thêm phạm vi các manh mối”.
Nhà doanh nghiệp đọc: “Đường, nước trái cây, dầu hỏa…”. Ông ta lắc đầu, mặt mày nghiêm trang. “Anh phải làm một công việc khó khăn đấy, Rhyme.”
“Đây là những vụ án phức tạp”, Rhyme giải thích. “Khi người ta không có manh mối nào, người ta được suy đoán thoải mái. Khi người ta có rất nhiều manh mối, thông thường người ta khá nhanh chóng đi đến được câu trả lời. Nhưng có một vài manh mối, như thế này… “Giọng Rhyme nhỏ dần.
“Chúng ta bị trói vào những thực tế đó”, Ben lẩm bẩm.
Rhyme quay sang anh ta. “Chính xác đấy, Ben ạ. Chính xác”.
“Tôi phải về nhà”, Davett nói. “Gia đình đang đợi tôi”. Ông ta ghi một số điện thoại lên tấm danh thiếp. “Anh có thể gọi cho tôi bất cứ lúc nào.”
Rhyme cảm ơn Davett lần nữa, rồi lại quay sang đăm đăm nhìn bảng chứng cứ.
Bị trói vào những thực tế đó…
Rich Culbeau mút máu khỏi vết gai mâm xôi cào sâu trên cánh tay. Gã nhổ vào một thân cây to.
Ba gã mất hai mươi phút vất vả luồn lách qua các bụi rậm mới tới được hàng hiên bên hông ngôi nhà nghỉ kiến trúc theo kiểu chữ A mà không bị đồ chó cái với khẩu súng bắn tỉa phát hiện. Đến cả Harris Tomel, bình thường trông cứ như vừa bước ra từ hàng hiên một câu lạc bộ thể thao ngoại ô, cũng lem luốc, đầy máu me.
Gã Sean O’Serian mới mẻ, lặng lẽ và trầm tư và, chà, tỉnh táo nữa, đang đứng đợi ngoài lối mòn, nằm trên mặt đất với khẩu súng đen sì y như một tên lính bộ binh đang nằm càu nhàu tại khe Sahn, sẵn sàng cản bước Lucy và những tay Việt Cộng khác bằng vài phát đạn xả vào đầu bọn họ, phòng trường hợp bọn họ đặt chân lên lối mòn dẫn về phía ngôi nhà.
“Mày sẵn sàng chưa?”, Culbeau hỏi Tomel, gã này gật đầu.
Culbeau khe khẽ xoay quả đấm cửa tiền sảnh và đẩy cho cánh cửa mở vào, gã giương súng, sẵn sàng nhả đạn. Tomel theo sau gã. Hai gã bước rón rén như mèo, biết rằng cô ả cớm tóc đỏ với khẩu súng trường săn hươu mà cô ả chắc chắn thông thạo cách sử dụng có thể đang chờ đợi hai gã ở bất cứ ngóc ngách nào bên trong ngôi nhà.
“Mày có thấy gì không?”, Culbeau thì thầm.
“Chỉ nghe thấy tiếng nhạc.” Đó là thể loại soft rock – thể loại mà Culbeau vẫn nghe vì gã ghét thứ nhạc đồng quê miền Tây.
Hai gã đàn ông di chuyển từ từ dọc theo dãy hành lang lờ mờ tối, súng giương lên, đã kéo cò. Hai gã bước chậm lại. Phía trước hai gã là căn bếp, nơi Culbeau lúc trước, khi nhìn qua kính ngắm của khẩu súng trường, đã trông thấy ai đó – có lẽ là thằng nhãi kia – đi đi lại lại. Gã hất đầu về phía căn bếp.
“Tao nghĩ bọn nó không nghe thấy ta đến đâu”, Tomel nói. Tiếng nhạc được vặn lên khá to.
“Ta cùng vào. Nhằm cẳng chân hoặc đầu gối bọn nó mà bắn. Đừng làm hắn ngoẻo đấy – ta vẫn còn cần hắn khai xem Mary Beth đang ở đâu.”
“Cả cô ả kia nữa à?”
Culbeau nghĩ một lát. “Ừ, sao không? Bọn ta có lẽ sẽ muốn giữ cho cô ả sống thêm tí chút. Mày biết để làm gì rồi”.
Tomel gật đầu.
“Một, hai… ba”.
Hai gã ập vào căn bếp và nhận ra mình suýt nữa nã cho tay dự báo thời tiết trên chiếc tivi màn hình rộng mấy phát đạn. Hai gã khom người xoay một vòng, tìm kiếm thằng nhãi và cô ả cớm. Không trông thấy đâu. Rồi Culbeau nhìn chiếc tivi, nhận ra nó vốn chẳng được kê trong căn bếp này. Ai đó đã vần nó từ phòng khách sang và kê nó phía trước lò nướng, màn hình hướng về phía cửa sổ.
Culbeau ngó qua tấm mành. “Mẹ kiếp. Hai đứa nó kê chiếc tivi ở đây để bọn ta từ bên kia bãi đất, từ chỗ lối mòn ấy, trông thấy. Và nghĩ có người trong nhà.” Gã dứt những ngôi sao đính trên tấm mành ra, hai cái một.
“Khoan”, Tomel kêu to. “Ả đang ở trên gác, có súng.”
Nhưng tất nhiên tóc đỏ hoàn toàn chẳng ở trên gác. Culbeau đạp cửa xô vào cái phòng ngủ mà lúc trước gã trông thấy nòng khẩu súng trường và chiếc kính ngắm chĩa về phía mình. Bây giờ thì gã phát hiện ra những thứ gần đúng như dự đoán của gã: một đoạn ống hẹp trên đỉnh được gắn với một đít vỏ chai bia Corona bằng băng dính.
Gã nói trong cơn phẫn nộ: “Đấy là khẩu súng và chiếc kính ngắm ấy đấy. Lạy Chúa. Hai đứa nó đã bố trí để bịp bọn ta. Khiến bọn ta mất đứt nửa tiếng đồng hồ. Và đám cảnh sát chết tiệt có lẽ chỉ còn cách đấy năm phút. Bọn ta phải rời khỏi chỗ này thôi.”
Culbeau chạy ào qua Tomel. Gã này vừa bắt đầu mở miệng: “Khôn ngoan như ả…”. Nhưng, nhìn thấy ánh mắt tức giận của Culbeau, gã quyết định không nói nốt câu.
Hết ắc quy, cái động cơ điện bé tí im bặt.
Chiếc xuồng hẹp họ đánh cắp từ ngôi nhà nghỉ trôi theo dòng Paquenoke, xuyên qua màn sương đặc quánh như dầu bao trùm trên sông. Trời đã chạng vạng. Mặt nước không còn màu ánh vàng nữa mà chuyển sang màu xám ảm đạm.
Garrett Hanlon cầm một mái chèo từ dưới đáy xuồng lên, chèo vào bờ. “Chúng ta phải cập bờ ở chỗ nào đó”, gã nói. “Trước khi trời, nói chung, tối hẳn.”
Amelia Sachs nhận ra quang cảnh đã thay đổi. Cây cối đã thưa thớt đi và những vũng lầy lớn gặp gỡ dòng sông. Gã trai nói đúng, một chỗ ngoặt sai lầm sẽ có thể đưa họ vào một ngóc ngách của bãi lầy nào đấy mà không thể thoát ra được.
“Này cô, sao vậy?”, Garrett hỏi, trông thấy vẻ lo lắng trên gương mặt Sachs.
“Tôi đang cách quá xa Brooklyn.”
“Chỗ đó ở New York à?.”
“Phải”, Sachs nói
Garrett búng móng tay. “Và vì đang không ở đấy mà cô không yên lòng?”
“Chắc chắn là thế.”
Vừa lái xuồng vào bờ, Garrett vừa nói: “Đó là điều bọn côn trùng sợ hãi nhất”.
“Điều gì?”.
“Nói chung, thật kì lạ. Bọn chúng không ngại lao động, cũng không ngại chiến đấu. Tuy nhiên bọn chúng đều hoảng hốt hết cả khi rơi vào một môi trường xa lạ. Thậm chí nếu đấy là một môi trường an toàn. Bọn chúng ghét điều đó, không biết phải làm gì.”
Được, Sachs nghĩ, tôi cho rằng tôi là một con côn trùng mang thẻ cảnh sát. Cô thích cách diễn đạt của Lincoln hơn: cá trên cạn.
“Người ta luôn luôn nhận ra được khi nào thì một con côn trùng thực sự lo lắng. Nó cọ đi cọ lại râu… Râu của côn trùng bộc lộ tâm trạng của chúng. Giống như bộ mặt chúng ta vậy. Chỉ có điều…”, Garrett nói thêm đầy ẩn ý, “chúng không mang những bộ mặt giả vờ. Giống như chúng ta”. Gã cất tiếng cười kì cục - Sachs chưa nghe thấy tiếng cười kiểu ấy bao giờ.
Garrett nhẹ nhàng đu qua mạn xuồng bước xuống nước và kéo chiếc xuồng lên bờ. Sachs trèo ra. Gã dẫn cô đi xuyên rừng và dường như biết chính xác sẽ phải đi đến đâu bất chấp bóng tối chạng vạng và không có lối mòn nào mà cô trông thấy được cả.
“Làm sao cậu biết phải đi đến đâu?”, Sachs hỏi.
Garrett nói: “Tôi cho rằng tôi là loài Vương Điệp. Tôi có khả năng xác định phương hướng khá tốt”.
“Vương Điệp?”.
“Cô biết đấy, một loài bướm ấy mà. Chúng di cư xa cả nghìn dặm và biết chính xác phải bay đến đâu. Thực sự rất hay nhé – chúng xác định phương hướng theo mặt trời và tự động đổi đường bay phụ thuộc vào đường chân trời. Ồ, và khi trời u ám hoặc đêm tối, chúng sử dụng một giác quan khác – chúng cảm nhận được từ trườngte; sống trong một cái nhà lưu động đỗ tại bãi đỗ không? Hay người ta lái nó đi lung tung, giống như lái những chiếc Winnebago?”.
“Tôi cho rằng người ta sống trong đó. Chúng có kích thước tám nhân hai mươi. Không phải loại lái đi chỗ này chỗ khác được. Dù sao thì chúng cũng không có động cơ. Khi di chuyển, người ta phải kéo chúng.”
“Cảm ơn, Mel. Ngủ một chút đi.”
Rhyme cúp máy. “Anh nghĩ thế nào, Jim? Có bãi đỗ nhà lưu động nào xung quanh đây không?”
Viên cảnh sát trưởng xem chừng ngờ vực. “Có mấy bãi đỗ dọc theo đường 17 và đường 158. Nhưng chúng thậm chí không ở gần địa điểm mà Garrett và Amelia đang nhắm đến. Lại đông đúc nữa. Khó lòng ẩn trốn được ở một chỗ như thế. Tôi nên cử ai đó đi kiểm tra chăng?”.
“Cách đây bao xa?”
“Bảy, tám mươi dặm”.
“Không, Garrett có lẽ đã phát hiện được một cái nhà lưu động bị bỏ hoang ở chỗ nào đấy trong rừng và chiếm lấy nó”. Rhyme liếc nhìn tấm bản đồ. Anh nghĩ: Và nó đỗ ở chỗ nào đấy giữa một trăm dặm vuông hoang vu.
Anh cũng băn khoăn tự hỏi: Gã trai đã tháo tay khỏi còng chưa? Hắn có lấy được khẩu súng của Sachs chưa? Ngay lúc này đây liệu cô có đang ngủ, không cảnh giác đề phòng, liệu Garrett có đang đợi tới lúc cô thiếp đi chẳng còn biết gì. Gã ngồi dậy, bò đến gần cô với một tảng đá hoặc một tổ ong bắp cày…
Nỗi sốt ruột chạy dọc cơ thể Rhyme. Anh ngả đầu ra phía sau, nghe thấy một khớp xương kêu đánh cắc. Anh cứng người, lo sợ tình trạng co rút nhức nhối thi thoảng cứ tra tấn các bắp thịt vẫn còn liên hệ với những tế bào thần kinh chưa chết. Có vẻ hoàn toàn bất công khi chính cái chấn thương khiến cho phần lớn cơ thể người ta tê liệt đồng thời lại khiến các vùng vẫn còn cảm giác phải chịu đau đớn kinh khủng.
Lần này sự đau đớn không xuất hiện, nhưng Thom để ý thấy vẻ hốt hoảng trên gương mặt sếp mình.
Anh chàng phụ tá nói: “Lincoln, cẩn thận đấy … Tôi sẽ đo huyết áp cho anh và anh sẽ đi nằm. Không tranh luận gì cả”.
“Được rồi, Thom, được rồi. Chỉ có điều chúng ta phải gọi một cú điện thoại trước đã.”
“Hãy nhìn xem mấy giờ rồi… Bây giờ thì ai còn thức nữa?”
“Vấn đề không phải là ai còn thức”, Rhyme mệt mỏi nói. “Vấn đề là ai sẽ thức dậy.”
Nửa đêm. Trong đầm lầy.
Tiếng côn trùng. Những bóng dơi chao liệng. Một, hai con cú. Ánh trăng bàng bạc như băng.
Lucy và mấy đồng nghiệp đi bộ bốn dặm đến đường 30, nơi chiếc xe cắm trại đợi họ. Bell đã tác động và “trưng dụng” được chiếc xe từ Công ty Fred Fisher Winnebagos. Steve Farr lái nó tới đây đợi đội tìm kiếm, để họ có chỗ nghĩ qua đêm.
Họ bước vào lòng xe chật chội. Jesse, Trey và Ned ăn ngấu nghiến bánh sandwich kẹp thịt bò nướng do Farr mang tới. Lucy uống một chai nước, không ăn. Farr và Bell – quý hóa làm sao – cũng đã chuẩn bị những bộ đồng phục sạch sẽ cho mấy người.
Cô gọi và bảo Bell  rằng đội tìm kếm đã lần theo dấu vết hai kẻ kia tới một ngôi nhà nghỉ kiến trúc theo kiểu chữA trước đó đã bị đột nhập. “Xem chừng bọn họ đã ngồi xem tivi, anh có thể tin như thế.
Nhưng trời tối quá rồi không lần theo dấu vết được nữa và đội tìm kiếm quyết định đợi đến bình minh sẽ tiếp tục.
Lucy cầm lên bộ quần áo sạch, bước vào buồng tắm. Trong cái buồng tắm đứng bé tí, cô vặn nhỏ dòng nước cho chảy dọc xuống thân mình. Hai bàn tay cô vò tóc, rồi xoa mặt, cổ, và lần nào cũng vậy, xoa bộ ngực phẳng một cách ngập ngừng, cảm nhận những đường gờ lên của cái sẹo, rồi hai bàn tay trở nên dứt khoát hơn khi di chuyển xuống bụng và đùi.
Lucy băn khoăn không biết tại sao cô có sự ác cảm như thế đối với việc sử dụng silicon hay phẫu thuật tái tạo, mà theo lời bác sĩ giải thích thì là lấy mỡ ở đùi hoặc mông để làm lại ngực. Thậm chí có thể làm lại được cả núm vú – hay xăm hình.
Vì, cô tự nhủ, đó là của giả. Vì đó chẳng phải của thật.
Và, thế thì, tại sao lại phải mất công chứ?
Nhưng rồi, Lucy nghĩ, hãy nhìn cái người tên là Lincoln Rhyme đó. Anh ta chỉ là một kẻ tàn tật. Chân tay anh ta là của giả - là một chiếc xe lăn và một anh chàng phụ tá. Tuy nhiên, nghĩ đến anh ta cô lại nghĩ đến Amelia Sachs và nỗi tức giận lại thiêu đốt cô. Cô gạt những ý nghĩ ấy sang bên, lau khô người và mặc chiếc áo phông vào, lơ đãng nghĩ tới ngăn kéo đựng áo  lót ở cái tủ gương trang điểm trong phòng dành cho khách trong ngôi nhà của cô – nhớ ra rằng cô định vứt chúng đi suốt hai năm qua. Nhưng, vì lý do nào đấy, cô chưa làm. Tiếp theo, cô mặc bộ đồng phục. Cô bước ra khỏi buồng tắm. Jesse đang gác điện thoại.
“Có thông tin gì không?”.
“Không”, anh ta nói. “Họ vẫn đang nghiên cứu các chứng cứ, Jim và ông Rhyme.”
Lucy lắc đầu từ chối suất ăn Jesse đưa cho cô, rồi ngồi xuống bên bàn, rút khẩu súng lục công vụ ra khỏi bao. “Steve?”, cô gọi.
Anh chàng trẻ tuổi tóc cắt cua ngẩng lên khỏi tờ báo đang đọc, nhướn một bên lông mày.
“Cậu có mang theo thứ tôi yêu cầu không?”
“Ồ, có.” Farr lục khoang đựng đồ dưới bảng đồng hồ và đưa cho Lucy hộp đạn Remington sơn hai màu vàng – xanh. Cô tháo những viên đạn đầu tròn ra khỏi khẩu súng lục và ổ nạp nhanh, thay thế những viên đạn mới – loại đầu lõm, có sức sát thương mạnh hơn, gây tổn hại lớn hơn nhiều đối với các mô mềm khi xuyên vào cơ thể.
Jesse Corn chăm chú quan sát cô, tuy nhiên một lát sau mới nói, và cô biết rằng anh ta sẽ nói “Amelia không nguy hiểm đâu”. Anh ta nói thấp giọng, chỉ để cho cô nghe.
Lucy đặt khẩu súng xuống, nhìn vào mắt Jesse. “Jesse, tất cả mọi người đều bảo Mary Beth đang ở ngoài biển nhưng hóa ra cô ấy lại ở hướng ngược lại. Tất cả mọi người đều bảo Garrett chỉ là một thằng nhãi ngốc nghếch nhưng hắn lại khôn ngoan như cáo và gạt được chúng ta dăm bảy lần rồi. Chúng ta chẳng biết bất cứ điều gì khác nữa. Có thể Garrett đang có cả kho vũ khí ở chỗ nào đó và có kế hoạch này nọ để tiêu diệt chúng ta khi chúng ta sa vào bẫy của hắn.”
“Nhưng Amelia đi cùng hắn. Cô ấy sẽ ngăn chặn việc như thế xảy ra.”
“Amelia là kẻ phản bội đáng chết và chúng ta không thể tin tưởng cô ta một chút nào. Nghe này, Jesse, tôi đã trông thấy vẻ mặt anh khi anh nhận ra cô ta không ở phía chiếc thuyền. Anh đã nhẹ cả người. Tôi biết anh nghĩ rằng mình thích cô ta và hy vọng được cô ta đáp lại… Không, không, để tôi nói nốt. Nhưng cô ta đã cứu một tên giết người ra khỏi nhà giam. Và nếu anh đã ở ngoài sông chứ không phải Ned, Amelia cũng sẽ bắn anh ngay như thế thôi.”
Jesse định phản đối, tuy nhiên ánh mắt lạnh lẽo của Lucy khiến anh ta im lặng.
“Thật dễ dàng si mê một người như thế.” Lucy tiếp tục. “Cô ta xinh đẹp và từ một nơi khác đến, một nơi sôi động đầy sức hấp dẫn… Nhưng cô ta không hiểu cuộc sống ở đây. Và cô ta không hiểu Garrett. Anh biết hắn – đó là một thằng nhãi bệnh hoạn và nếu ngay lúc này hắn chưa chơi trò giết người thì chỉ là chuyện may rủi thôi.”
“Tôi biết rằng Garrett nguy hiểm. Tôi không tranh luận việc ấy. Tôi đang nghĩ tới Amelia”.
“Chà, tôi thì tôi nghĩ tới chúng ta và tất cả những người khác ở Bến tàu kênh Nước đen mà thằng nhãi có thể đang lên kế hoạch giết hại vào ngày mai hoặc tuần sau hoặc năm sau nếu hắn thoát khỏi tay chúng ta. Đó là việc hắn hoàn toàn có thể làm. Nhờ cô ta đấy. Bây giờ, tôi cần biết tôi có tin tưởng được anh không. Nếu không, anh có thể trở về nhà và chúng tôi sẽ bảo Jim cử người khác tới thay thế anh.”
Jesse liếc nhìn hộp đạn, rồi lại nhìn Lucy. “Chị có thể, Lucy. Chị có thể tin tưởng tôi.”
“Tốt. Anh nên nghiêm túc về điều này. Vì ngay khi trời sáng tôi sẽ tiếp tục lần theo dấu vết bọn họ và đưa cả hai quay về. Tôi hy vọng trong tình trạng còn sống nhưng, tôi nói để anh biết, cho tới lúc này thì cũng không nhất thiết phải vậy”.
Mary Beth McConnell ngồi một mình trong ngôi nhà gỗ, kiệt sức nhưng chẳng dám ngủ.
Cô nghe thấy tiếng động ở khắp nơi.
Cô đã rời khỏi chiếc đi văng. Cô sợ nếu cô cứ ngồi đấy thì cô sẽ nằm dài ra mà ngủ thiếp đi mất, rồi thức dậy thấy nhà truyền giáo và gã Tom đang chằm chằm nhìn cô qua cửa sổ, chuẩn bị đột nhập vào. Vì thế cô ngồi trên một chiếc ghế trong phòng ăn, mặt ghế cứng như đá.
Những tiếng động…
Mary Beth không biết mấy giờ rồi. Cô thậm chí chẳng dám ấn cái nút bật sáng mặt đồng hồ đeo tay – vì nỗi sợ hãi điên rồ rằng ánh sáng lóe lên sẽ như ra hiệu cho hai kẻ tấn công cô.
Kiệt sức. Quá mệt mỏi thậm chí không buồn băn khoăn tự hỏi thêm lần nữa tại sao chuyện này lại xảy ra với cô, liệu cô có thể đã làm được gì để ngăn chặn nó.
Làm ơn mắc oán…
Mary Beth đăm đăm nhìn ra bãi cỏ phía trước ngôi nhà gỗ, bây giờ hoàn toàn là một màu đen. Ô cửa sổ tựa như cái khung đóng lấy số phận cô: nó sẽ cho thấy ai đang tiến đến gần qua bãi cỏ? Những kẻ sát hại cô hay những người giải cứu cô?
Cô lắng nghe.
Âm thanh đó là gì: một cái cành cây nứt vỏ? Hay tiếng quẹt diêm?
Cái đốm sáng trong rừng kia là gì: một con đom đóm, hay một ánh lửa trại?
Cái bóng di động kia: một con hươu bỏ chạy vì ngửi thấy mùi linh miêu hay nhà truyền giáo và gã đồng đảng đang ngồi bên đống lửa uống bia, đánh chén, rồi mò mẫm xuyên rừng đến chỗ cô, tiếp tục thỏa mãn nhu cầu cơ thể chúng?
Mary Beth McConnell không tài nào nói chắc được. Đêm hôm nay, mới nhiều làm sao, cô toàn cảm thấy các cái mơ hồ.
Mày phát hiện được di tích của những người tới định cư đã chết từ ngày xửa ngày xưa nhưng mày lại băn khoăn không biết liệu giả thuyết mày đưa ra có hoàn toàn sai lầm không.
Cha mày qua đời vì chứng ung thư – một cái chết kéo dài, uổng phí, mà bác sĩ nói là chẳng tránh khỏi, nhưng mày lại nghĩ: Biết đâu có thể tránh khỏi.
Hai gã đàn ông đang ở ngoài kia, trong rừng, lên kế hoạch cưỡng đoạt và sát hại mày.
Nhưng có thể chẳng phải vậy.
Có thể bọn chúng đã từ bỏ ý định. Có thể bọn chúng đã bất tỉnh vì rượu lậu. Hay bọn chúng đã sợ hãi trước ý nghĩ về những hậu quả, đi đến kết luận rằng các mụ vợ mập mạp hoặc đôi bàn tay chai sạn thì an toàn hơn, hoặc dễ dàng hơn, việc bọn chúng định làm với Mary Beth.
Dang tay dang chân ra ở chỗ này…
Một tiếng nổ đanh vang khắp đêm tối. Mary Beth bật dậy. Một tiếng súng. Có vẻ như nó vang lên từ chỗ lúc trước cô đã trông thấy ánh lửa. Lát sau, tiếng súng thứ hai. Gần hơn.
Sợ hãi hít thở nặng nhọc, nắm chặt cây chùy. Không thể nhìn qua ô cửa sổ đen ngòm, cũng không thể không nhìn ra. Khiếp sợ sẽ trông thấy bộ mặt xanh xao của gã Tom từ từ xuất hiện trong khung cửa, nhăn nhở cười. Bọn tao sẽ quay lại.
Gió nổi lên, thổi rạp cây cối, bụi rậm, cỏ.
Mary Beth cho rằng cô nghe thấy tiếng cười của một người đàn ông, tiếng cười nhanh chóng tan biến trong gió hun hút như tiếng gọi của một trong những linh hồn Manitou thuộc bộ lạc Weapeneoc.
Cô cho rằng cô nghe thấy tiếng một gã đàn ông gào lên: “Mày hãy sẵn sàng đi, sẵn sàng đi…”
Nhưng có thể chẳng phải.
“Mày nghe thấy tiếng súng chứ?”, Rich Culbeau hỏi Harris Tomel.
Ba gã ngồi xung quanh đống lửa đang lụi dần. Ba gã mang tâm trạng lo lắng và chưa say như trong một chuyến săn bình thường, chưa say như chính ba gã đang mong muốn. Đơn giản là món rượu lậu không có tác dụng.
“Súng lục”, Tomel nhận xét. “Đạn cỡ lớn. Mười milimet hoặc súng cỡ.44,.45 tự động”.
“Vớ vẩn”, Culbeau nói. “Mày không thể bảo đấy là súng tự động hay không tự động được”.
“Có thể chứ”, Tomel giảng giải. “Súng ổ quay thì tiếng nổ to hơn – vì khoảng cách giữa ổ đạn và nòng súng. Tất nhiên.”
“Vớ vẩn”, Culbeau nhắc lại. “Cách đây bao xa?”
“Không khí nhiều hơi ẩm. Ban đêm… Tao cho rằng cách đây bốn, năm dặm”, Tomel thở dài. “Tao muốn chuyện này kết thúc. Tao chán ngấy rồi.”
“Tao hiểu”, Culbeau nói. “Ở Tanner’s Corner thì dễ dàng hơn. Bây giờ tình hình đang trở nên phức tạp.”
“Đám côn trùng chết tiệt”, Tomel đập một con muỗi.
“Mày nghĩ ai bắn gì vào cái giờ khuya khoắt này? Phải gần một giờ rồi”.
“Gấu trúc lục thùng rác, gấu đen mò vào lều, hay một thằng nào đấy mần vợ người.”
Culbeau gật đầu. “Nhìn kìa – Sean đã ngủ. Thằng đó ngủ được mọi lúc, mọi nơi”. Gã đá những cục than hồng cho nguội bớt.
“Nó đang dùng thứ thuốc chết tiệt.”
“Thế à? Tao không biết.”
“Đó là lý do tại sao nó ngủ mọi lúc, mọi nơi. Nó đang cư xử một cách kỳ cục, mày có nghĩ vậy không?”, Tomel hỏi, liếc nhìn gã thanh niên gầy nhẳng y như gã là một con rắn biết “kéo gỗ”.
“Khi chẳng hiểu nổi nó thì thấy nó dễ ưa hơn. Bây giờ nó đứng đắn quá, nó làm tao sợ phát khiếp. Cứ giương khẩu súng đó lên như giương cái con b. nó không bằng.”
“Về việc ấy mày nói đúng”, Tomel lẩm bẩm, rồi nhìn chằm chằm vào cánh rừng âm u mất mấy phút. Gã thở dài, bảo: “Tao sẽ bị ăn tươi nuốt sống ở đây mất. Và đưa tao chai rượu bên cạnh mày kia”.
Amelia Sachs mở mắt khi nghe thấy tiếng súng nổ.
Cô nhìn vào phòng ngủ của ngôi nhà lưu động, nơi Garrett đang nằm ngủ trên tấm nệm. Gã không nghe thấy gì.
Một tiếng súng nổ nữa.
Tại sao lại có ai bắn gì vào cái giờ khuya khoắt này? Sachs băn khoăn tự hỏi.
Tiếng súng nổ khiến Sachs nhớ tới sự việc xảy ra trên sông – Lucy và mấy người cảnh sát kia nã đạn vào chiếc thuyền mà họ nghĩ có cô và Garrett phía dưới. Cô hình dung lại từng cột nước vọt lên không trung sau mỗi tiếng súng nổ kinh hoàng.
Cô thận trọng lắng nghe nhưng không nghe thấy thêm tiếng súng nổ nào nữa. Không có gì ngoài tiếng gió thổi. Và tiếng ve sầu, tất nhiên.
Cuộc đời của chúng hết sức kỳ lạ… Ấu trùng đào đất chui xuống và ở dưới ấy, nói chung, hai mưoi năm, trước khi nở…
Tất cả ngần ấy năm trong lòng đất, ẩn trốn, trước khi bò ra làm con ve sầu trưởng thành.
Nhưng chẳng mấy chốc tâm trí Sachs lại bị xâm chiếm bởi những ý nghĩ xuất hiện trước khi có tiếng súng nổ.
Amelia Sachs trước đó đang nghĩ ngợi về chiếc ghế trống.
Không phải kỹ thuật trị liệu của Tiến sĩ Penny. Hay những gì Garrett đã nói với cô về cha gã và cái buổi tối kinh khủng cách đây năm năm. Không, cô đang nghĩ ngợi về một chiếc ghế khác – chiếc xe lăn Storm Arrow màu đỏ của Lincoln Rhyme.
Suy cho cùng thì đó là việc họ sẽ làm dưới Bắc California này. Rhyme đang đánh liều mọi thứ, tính mạng, phần sức khỏe còn lại, cuộc sống của anh với Sachs, cốt để anh có thể tiến gần hơn đến chỗ rời khỏi được chiếc ghế đó. Bỏ nó lại sau lưng anh, trống không.
Và, nằm đây, trong ngôi nhà lưu động bẩn thỉu này, làm một kẻ đã phạm tội, đơn độc trong cuộc đấu tay đôi do chính cô tạo ra, rút cục Amelia Sachs cũng tự thừa nhận cái điều gây cho cô xiết bao lo lắng trước việc Rhyme kiên quyết bước lên bàn mổ. Tất nhiên, cô lo lắng rằng anh có thể chẳng qua nổi cuộc phẫu thuật. Hoặc nó sẽ khiến tình trạng anh tồi tệ hơn. Hoặc nó sẽ hoàn toàn vô ích và anh sẽ rơi vào nỗi tuyệt vọng.
Nhưng những điều ấy không phải sự sợ hãi chủ yếu của Sachs. Chúng không phải lý do khiến cô đã làm mọi việc có thể để ngăn cản cuộc phẫu thuật. Không, không – điều khiến cô sợ hãi nhất chính là khả năng cuộc phẫu thuật sẽ thành công.
Ôi, Rhyme, anh không hiểu sao? Em đâu muốn anh thay đổi. Em yêu anh như anh bây giờ. Nếu anh cũng giống bao người khác, chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta.
Anh nói: “Sẽ luôn luôn là anh và em, Sachs ạ”. Nhưng cái anh và em đó dựa trên con người chúng ta bây giờ. Em với những móng tay dây máu và niềm ham thích được xê dịch, xê dịch, xê dịch… Anh với đầu óc mẫn tiệp bao giờ cũng phóng đi nhanh hơn và xa hơn em có thể trong chiếc Camaro đã được sơn đi sơn lại của em.
Cái đầu óc ấy của anh giữ em chặt hơn bất cứ người tình nồng nhiệt nhất nào.
Và nếu anh lại trở nên bình thường? Khi anh lại sử dụng được tay chân của chính mình, Rhyme, thì hà cớ gì anh còn mong muốn có em nữa? Hà cớ gì anh còn cần em? Em sẽ chỉ là một cảnh sát tuần tra, một cảnh sát khu vực với chút tài khám nghiệm hiện trường. Anh sẽ gặp một người khác trong số những người phụ nữ bội bạc từng làm cuộc đời anh trật bánh – một người vợ ích kỷ khác, một người tình có hôn thú khác – và anh sẽ dần rời xa em theo cái cách chồng Lucy Kerr đã rời xa cô ấy sau khi cô ấy tiến hành phẫu thuật.
Em mong muốn anh hãy cứ như bây giờ…
Thực tế, Sachs phải rùng mình trước sự ích kỉ khủng khiếp của suy nghĩ này. Tuy nhiên cô chẳng thể phủ nhận nó.
Hãy cứ ở lại chiếc ghế của anh, Rhyme! Em không muốn nó bị bỏ trống… Em muốn có một cuộc sống với anh, một cuộc sống như nó vẫn luôn luôn thế từ trước tới giờ. Em muốn có những đứa con với anh, những đứa con sẽ lớn lên để biết về anh đúng như anh bây giờ.
Amelia Sachs thấy mình đang đăm đăm nhìn lên cái trần nhà màu đen. Cô nhắm mắt lại. Nhưng mãi một tiếng đồng hồ sau, tiếng gió thổi cùng với tiếng ve sầu kêu – những cái màng ở ngực chúng phát ra âm thanh giống tiếng vĩ cầm đơn điệu – cuối cùng mới ru cô ngủ thiếp đi được.