PHẦN 5
THỊ TRẤN VẮNG BÓNG TRẺ
CHƯƠNG 42

     ason Germain và gã da đen trông rầu rĩ chậm chạp đi qua con hẻm bên cạnh khu tạm giam của Tanner’s Corner.
Gã đàn ông toát mồ hôi, bực bội đập một con muỗi. Gã lầm bầm gì đó và chùi bàn tay dài vào mái tóc ngắn ngủn kỳ quái.
Mason cảm thấy muốn chọc tức gã vô cùng nhưng kiềm chế được.
Gã đàn ông có vóc người cao và kiễng chân lên là gã nhìn qua được ô cửa sổ của khu tạm giam. Mason trông thấy gã đi đôi bốt màu đen thấp cổ - đóng bằng da sơn bóng loáng - vì lý do nào đó đôi bốt ấy làm tăng thêm sự khinh miệt của viên cảnh sát đối với cái kẻ từ nơi khác tới này. Anh ta tự hỏi không biết gã đã bắn bao nhiêu người rồi.
“Cô ta ở trong kia”, gã đàn ông nói. “Một mình.”
“Chúng tôi đang giam Garrett ở phía bên kia.”
“Anh hãy vào theo lối đằng trước. Liệu có thể chuồn ra qua lối đằng sau không?”
“Tôi là cảnh sát, nhớ chứ? Tôi có chìa khóa. Tôi có thể mở cửa sau”, Mason nói với giọng cạnh khóe, lại tự hỏi không biết thằng cha này có dở hơi hay không.
Nhưng anh ta cũng được đáp trả bằng giọng cạnh khóe. “Tôi chỉ đang hỏi liệu có cửa ở đằng sau hay không. Đây là điều tôi không biết, tôi chưa bao giờ tới cái thị trấn lầy lội này.
“Ồ. Có, có cửa.”
“Ờ, thế thì đi thôi.”
Mason nhận ra gã đàn ông đã đang cầm súng trong tay mà anh ta không trông thấy khẩu súng được rút ra lúc nào.
Sachs ngồi trên chiếc ghế băng trong phòng giam, như bị thôi miên trước sự chuyển động của một con ruồi.
Đây là ruồi gì? Cô băn khoăn tự hỏi. Garrett sẽ biết ngay lập tức. Cậu ta là cả kho kiến thức. Một ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc cô: sẽ có lúc kiến thức của một đứa trẻ về một vấn đề vượt kiến thức của cha mẹ nó. Chắc chắn sẽ rất kỳ diệu, rất đáng phấn khởi, khi biết rằng mình đã tạo ra cái sinh vật giỏi giang hơn mình này. Cũng sẽ cảm thấy xấu hổ nữa.
Một kinh nghiệm mà cho tới bây giờ Sachs chưa từng trải qua.
Cô lại suy nghĩ về cha cô. Người đã làm gia tăng tội phạm. Suốt những năm phục vụ trong lực lượng cảnh sát súng ông không nhả đạn bao giờ. Tự hào về cô con gái bao nhiêu, ông cũng lo lắng bấy nhiêu vì sự say mê của cô đối với súng đạn. “Bắn là biện pháp cuối cùng.” Ông vẫn hay nhắc nhở cô.
Ôi, Jesse... Tôi có thể nói gì với anh đây?
Tất nhiên, không thể nói gì cả. Tôi không thể nói gì cả. Anh đã ra đi rồi.
Sachs cho là cô trông thấy một cái bóng bên ngoài ô cửa sổ khu tạm giam. Nhưng cô phớt lờ nó, và ý nghĩ của cô chuyển sang Rhyme.
Cô nhớ lại lần cách đây mấy tháng, nằm cùng nhau trên chiếc giường nệm khí lỏng sang trọng trong nhà anh ở Manhattan, họ xem bộ phim Romeo và Juliet đặc sắc của Baz Luhrmann, một kịch bản hiện đại lấy bối cảnh Miami. Đối với Rhyme, cái chết luôn luôn lởn vởn xung quanh và xem những cảnh cuối cùng của bộ phim, Amelia Sachs nhận ra rằng, giống như các nhân vật của Shakespeare, cô và Rhyme nếu nhìn nhận theo cách nào đó cũng là đôi tình nhân xấu số. Và một ý nghĩ nữa lúc ấy đã vụt lướt qua đầu óc cô: anh và cô cũng sẽ cùng nhau giã từ cuộc đời.
Sachs chẳng dám chia sẻ ý nghĩ này với Lincoln Rhyme, một người theo chủ nghĩa duy lý, một người không có tế bào đa cảm nào trong bộ não cả. Nhưng khi ý nghĩ này xuất hiện rồi, nó lưu lại vĩnh viễn trong tâm trí cô và vì sao đó mà mang đến cho cô niềm an ủi hết sức to lớn.
Tuy nhiên, bây giờ, cô thậm chí không thể tìm thấy sự khuây khỏa trong cái ý nghĩ kỳ cục này. Không, bây giờ - do cô - họ sẽ sống riêng rẽ và sẽ chết riêng rẽ. Họ sẽ...
Cánh cửa khu phòng giam mở toang và một cảnh sát trẻ bưóc vào. Sachs nhận ra anh ta. Đó là Steve Farr, em rể Jim Bell.
“Này cô kia”, anh ta gọi.
Sachs gật đầu chào. Rồi cô để ý thấy hai điều ở Farr. Thứ nhất là anh ta đeo một chiếc đồng hồ hiệu Rolex giá trị bằng nửa năm lương của một cảnh sát điển hình ở Bắc Carolina.
Thứ hai là anh ta đeo một khẩu súng bên sườn, bao không đóng khóa.
Mặc dù có tấm biển gần phía ngoài cánh cửa mở vào khu phòng giam. CẤT TẤT CẢ VŨ KHÍ TRONG KÉT SẮT TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO KHU PHÒNG GIAM.
“Cô thế nào?” Farr hỏi.
Sachs nhìn anh ta, không có phản ứng gì.
“Hôm nay lại im lặng, hử? Chà, thưa cô, tôi mang tin tức tốt lành đến cho cô đây. Cô được tự do ra đi.” Farr búng một bên tai vểnh.
“Tự do? Ra đi?”
Farr lục tìm chìa khóa.
“Phải. Người ta đã đi đến kết luận rằng phát súng của cô chỉ là tai nạn. Cô hoàn toàn có thể rời khỏi đây.”
Sachs chăm chú quan sát bộ mặt Farr. Anh ta không nhìn vào cô.
“Thế giấy rút lại lời buộc tội thì sao?”
“Là cái gì vậy?”, Farr hỏi.
“Không có ai đã bị buộc tội hình sự lại có thể được thả khỏi nơi giam giữ mà không có giấy rút lại lời buộc tội do ủy viên công tố ký.”
Farr mở khóa phòng giam và đứng lùi lại, bàn tay rờ rờ gần báng súng. “Ồ, có thể đó là cách các cô làm ở thành phố lớn. Nhưng ở dưới này chúng tôi thoải mái hơn rất nhiều. Người ta hay nói là dân miền Nam chúng tôi chậm tiến hơn, cô biết đấy. Tuy nhiên, không phải vậy. Không, thưa cô. Chúng tôi làm việc thực sự hiệu quả hơn.”
Sachs vẫn ngồi. “Tôi có thể hỏi tại sao anh mang vũ khí vào khu phòng giam được chứ?”
“Ồ, cái này hả? Farr vỗ vỗ khẩu súng. “Chúng tôi không có các quy tắc nghiêm ngặt lắm về những chuyện như vậy. Thôi nào. Cô được tự do rời khỏi đây. Phần lớn người ta sẽ nhảy cẫng lên trước tin tức ấy.” Anh ta hất đầu về phía cửa sau khu tạm giam.
“Ra qua cửa sau?”, Sachs hỏi.
“Tất nhiên rồi.”
“Anh không thể bắn vào lưng một tù nhân đang bỏ chạy. Như thế là giết người.”
Farr chậm rãi gật đầu.
Bọn họ bố trí kịch bản ra sao nhỉ? Sachs băn khoăn tự hỏi. Có ai khác ở bên ngoài cánh cửa kia sẽ thực sự nổ súng không? Có thể. Farr tự đập đầu mình rồi kêu cứu. Bắn một phát lên trần. Bên ngoài, một người nào đó - có thể là một công dân “đầy lo lắng” - khẳng định rằng anh ta đã nghe thấy tiếng súng nổ và cho rằng Sachs có vũ khí, mới nhả đạn vào cô.
Cô không nhúc nhích.
“Nào, đứng lên và biến đi.” Farr rút khẩu súng ra khỏi bao. Sachs chậm chạp đứng lên.
Anh và em, Rhyme...
“Anh đã khá gần với sự thật đấy, Lincoln”, Jim Bell nói.
Lát sau, gã thêm: “Đúng chín mươi phần trăm. Theo kinh nghiệm của tôi trong công tác thực thi pháp luật thì đó là một tỷ lệ cao. Quá không may cho anh khi tôi là cái mười phần trăm mà anh bỏ qua mất”.
Bell tắt máy điều hòa nhiệt độ. Vì cửa sổ đóng kín, căn phòng ngay lập tức nóng lên. Rhyme cảm thấy trán ướt đẫm mồ hôi. Hơi thở của anh trở nên nặng nhọc.
Gã cảnh sát trưởng tiếp tục: “Đã có hai gia đình ở bên bờ kênh Nước đen không cho phép ông Davett chạy xà lan qua.”
Một ông Davett đáng kính trọng, Rhyme để ý lời Jim nói
“Bởi vậy trưởng bộ phận bảo vệ của ông ấy đã thuê mấy người chúng tôi giải quyết vấn đề. Chúng tôi đã bàn bạc rất lâu với gia đình nhà Conklin và họ đã quyết định quyền. Nhưng lão bố Garrett dứt khoát không chịu. Chúng tôi dự định dàn dựng một vụ đâm xe và đã lấy một bình cái thứ bỏ mẹ kia - Bell hất đầu chỉ chiếc bình trên bàn - để đánh ngất bọn họ. Chúng tôi biết cứ thứ Tư là gia đình nhà đó lại đi ăn tối bên ngoài. Chúng tôi đổ toxaphene vào các khe mái hắt của bộ phận điều hòa nhiệt độ, rồi nấp trong rừng. Bọn họ lên xe và lão bố Garrett bật điều hòa. Hóa chất phun ra phủ kín bọn họ. Nhưng chúng tôi đã sử dụng nhiều quá...”
Bell lại liếc nhìn chiếc bình. “Đủ để giết chết người ta hai lần”, gã tiếp tục, cau mày nhớ lại sự việc. “Gia đình nhà đó bắt đầu co giật... Một cảnh tượng thật đáng sợ. Garrett không ở trong xe nhưng hắn chạy tới và trông thấy những gì đang diễn ra. Hắn cố gắng vào bên trong mà không được. Tuy nhiên, hắn hít phải một lượng lớn toxaphene và có vẻ vì thế đã trở thành đứa ngớ ngẩn. Hắn loạng choạng chạy vào rừng trước khi chúng tôi kịp tóm cổ. Tới lúc hắn lại ló mặt - một hay hai tuần sau - hắn chẳng còn nhớ gì. Hậu quả của tình trạng nhạy cảm đa hóa chất mà anh đã nói tới, tôi cho là vậy. Nên chúng tôi tạm thời mặc kệ hắn đấy - khá chắc chắn rằng hắn cũng sẽ ngoẻo theo gia đình.
“Rồi chúng tôi hành động chính xác như anh phỏng đoán. Đốt mấy cái xác và đem chôn ở Bến tàu kênh Nước đen. Đẩy chiếc ô tô xuống một cái lạch bên cạnh đường Kênh Đào. Trả một trăm nghìn cho tay điều tra viên để đổi lấy các báo cáo giả. Cứ khi nào chúng tôi nghe nói có ai mắc một chứng ung thư khó giải thích và nghi ngờ về nguyên nhân, Culbeau và mấy đứa kia lại lĩnh nhiệm vụ vử lý.”
“Cái đám tang chúng tôi trông thấy trên đường vào thị trấn. Các anh đã giết chết thằng bé, phải không?”
“Todd Wilkes ấy à?”, Bell hỏi. “Không. Nó tự tử.”
“Nhưng là vì nó đã mắc bệnh do nhiễm toxaphene, phải không? Nó mắc bệnh gì, ung thư à? Hay tổn thương gan? Hay tổn thương não?”
“Có thể. Tôi không biết.” Nhưng bộ mặt gã cảnh sát trưởng nói lên rằng gã biết quá rõ.
“Dù sao thì Garrett cũng không liên quan gì, phải không?”
“Không liên quan.”
“Còn hai gã đã tới ngôi nhà gỗ? Hai gã tấn công Mary Beth thì sao?”
Bell lại gật đầu, vẻ khó chịu. “Tom Boston và Lott Cooper. Bọn chúng cũng có can dự - bọn chúng đảm nhận việc thử rất nhiều hóa chất độc hại của Davett trên núi nơi dân cư thưa thớt hơn. Bọn chúng biết chúng tôi đang tìm kiếm Mary Beth nhưng khi Lott phát hiện ra con bé tôi cho là hắn quyết định chưa thông báo với tôi ngay để còn vui vẻ tí đã. Và, phải rồi, chúng tôi thuê Billy Stail thủ tiêu con bé nhưng hắn chưa kịp thì Garrett đã đưa con bé đi mất.”
“Và anh cần tôi giúp đỡ tìm thấy cô ta. Không phải để cứu cô ta - mà để có thể giết cô ta và hủy mọi chứng cứ cô ta đã phát hiện được.”
“Sau khi anh tìm thấy Garrett và chúng tôi đưa hắn từ cối xay về, tôi không khóa cửa khu tạm giam để Culbeau và đồng bọn có thể, thì cứ nói là, thuyết phục Garrett khai với chúng tôi nơi Mary Beth đang ở. Nhưng cô bạn anh đã tới cướp hắn đi trước khi bọn kia kịp hành động.”
Rhyme nói: “Và khi tôi tìm thấy ngôi nhà gỗ, anh liền gọi cho bè lũ Culbeau. Bảo bọn chúng tới trừ khử tất cả chúng tôi tại đó”.
“Tôi xin lỗi... toàn bộ chuyện này đã biến thành cơn ác mộng. Tôi không muốn, nhưng... anh thấy đấy.”
“Một cái tổ ong bắp cày...”
“Ồ, phải, chính trong lòng thị trấn này là mấy cái tổ ong bắp cày.”
Rhyme lắc đầu. “Hãy nói tôi nghe, liệu những cái xe đẹp đẽ, những ngôi nhà to tát và tất cả số tiền kia có đáng để hủy hoại toàn bộ thị trấn? Nhìn xung quanh anh xem, Bell. Hôm trước diễn ra đám tang một đứa trẻ mà ở nghĩa trang không có lấy đứa trẻ nào. Amelia đã bảo trong thị trấn hầu như chẳng còn đứa trẻ nào nữa. Anh biết tại sao chứ? Người ta vô sinh hết rồi.”
“Đã thương lượng với quỷ sứ thì phải chấp nhận rủi ro”, Bell nói ngắn gọn. “Nhưng, như chỗ tôi biết, cuộc đời chỉ là một sự thỏa hiệp.” Gã nhìn Rhyme hồi lâu, đi đến bên bàn. Gã xỏ đôi găng tay cao su, nhấc bình toxaphene lên. Gã bước về phía Rhyme và bắt đầu từ từ xoáy nắp đậy.
Steve Farr thô bạo đẩy Amelia Sachs tới cửa sau khu tạm giam. Khẩu súng lục gí mạnh vào chính giữa lưng cô.
Gã đang mắc một sai lầm kinh điển là gí họng súng sát người nạn nhân. Nó khiến cô có được lợi thế - khi cô bước ra ngoài rồi cô biết chính xác vị trí của khẩu súng và có thể gạt khẩu súng bằng khuỷu tay. May ra thì Farr sẽ đánh rơi món vũ khí và cô sẽ guồng chân chạy hết tốc lực. Nếu cô chạy được đến phố Chính, sẽ có các nhân chứng và gã có thể do dự không dám bắn.
Gã mở cánh cửa sau.
Một luồng ánh nắng nóng nực tràn vào khu tạm giam đầy bụi bặm. Sachs chớp mắt. Một con ruồi bay vo ve xung quanh đầu cô.
Chỉ cần Farr cứ giữ tư thế này, gí khẩu súng sát vào người cô, cô sẽ có một cơ hội…
“Bây giờ thì thế nào?”, Sachs hỏi.
“Tự do ra đi.” Farr nhún vai, nói giọng vui vẻ. Sachs căng thẳng, chuẩn bị gạt khuỷu tay vào gã, lên kế hoạch cho mỗi nước đi. Nhưng rồi gã nhanh chóng bước lùi lại, đẩy cô ra khoảng đất nhếch nhác phía sau khu tạm giam. Farr vẫn đứng bên trong, ở khoảng cách cô không thể động đến.
Gần đó, phía sau một bụi cây cao, Sachs nghe thấy một âm thanh khác. Tiếng lên đạn của một khẩu súng lục, cô tự nhủ thầm.
“Đi đi”, Farr nói. “Biến khỏi đây đi.”
Sachs lại nghĩ tới Romeo và Juliet.
Nghĩ tới cái nghĩa trang xinh xắn trên quả đồi nhìn xuống Tanner's Corner mà họ đã chạy xe ngang qua vào buổi sáng tưởng chừng cách đây cả đời người rồi.
Ôi, Rhyme...
Con ruồi bay vèo qua mặt Sachs. Một cách bản năng, cô xua nó đi, và bắt đầu bước về phía bãi cỏ mọc lúp xúp.
Rhyme bảo Bell: “Anh không nghĩ sẽ có người thắc mắc nếu tôi chết theo cái cách như thế này à? Tôi khó có thể tự mình mở một chiếc bình”.
Gã cảnh sát trưởng đáp: “Anh va phải bàn. Nắp bình lỏng. Toxaphene đổ tóe vào anh. Tôi vào, tuy nhiên chúng tôi chẳng kịp cứu anh”.
“Amelia sẽ không để yên đâu. Cả Lucy cũng vậy.”
“Cô bạn gái của anh sắp sửa chẳng còn là vấn đề gì. Còn Lucy ư? Cô ta rất có thể lại đổ bệnh... và lần này thì có thể chẳng còn gì mà cắt bỏ đi để cứu cô ta nữa.”
Bell chỉ do dự một chút, rồi gã bước tới gần và rót thứ chất lỏng kia lên mũi và miệng Rhyme. Gã hắt chỗ còn lại vào vạt trước sơ mi của anh.
Gã cảnh sát trưởng thả chiếc bình xuống lòng Rhyme, vội vã bước lùi lại và che mồm bằng khăn mùi xoa.
Đầu Rhyme ngật về phía sau, miệng anh bất giác há ra và vài giọt chất lỏng chảy vào. Anh bắt đầu tắc thở.
Bell tháo đôi găng tay cao su, nhét vào túi quần. Gã đợi một lát, bình thản quan sát Rhyme, rồi chậm rãi bước về phía cửa, mở khóa, đẩy cánh cửa ra. Gã gọi to: “Có tai nạn! Có ai không, tôi cần giúp đỡ!”. Gã bước ra hành lang. “Tôi cần...”
Bell bước ngay vào đường đạn của Lucy Kerr, khẩu súng lục của cô chĩa thẳng ngực gã.
“Lạy Chúa, Lucy!”
“Đủ rồi, Jim. Hãy cứ đứng nguyên đấy.”
Gã cảnh sát trưởng bước lùi lại. Nathan, tay thiện xạ, bước vào phòng, đến đằng sau Bell, rút khẩu súng lục của gã cảnh sát trưởng ra khỏi bao. Một người nữa bước vào - một người đàn ông to lớn mặc bộ com lê màu nâu vàng và sơ mi trắng.
Ben cũng chạy vào, phớt lờ tất cả những người khác, vội vã bước tới chỗ Rhyme, dùng khăn giấy lau mặt cho nhà hình sự học.
Gã cảnh sát trưởng trừng trừng nhìn Lucy và mọi người. “Không, các vị không hiểu! Đã có tai nạn! Cái chất độc kia đổ ra. Các vị phải...”
Rhyme nhổ xuống sàn và thở khò khè vì thứ nước có tác dụng làm se. Anh bảo Ben: “Cậu lau lên phía bên trên má tôi được không? Tôi sợ nhỡ nó dây vào mắt. Cảm ơn cậu”.
“Tất nhiên rồi, Lincoln.”
Bell nói: “Tôi đang định gọi giúp đỡ! Cái chất kia đổ ra! Tôi...”.
Người đàn ông mặc bộ com lê lôi đôi còng tay ra khỏi thắt lưng, bập nó vào cổ tay gã cảnh sát trưởng. Ông ta nói: “James Bell, tôi là Thám tử Hugo Branch của cảnh sát bang Bắc Carolina. Anh đã bị bắt”. Branch nhìn Rhyme vẻ cáu kỉnh. “Tôi đã bảo anh là hắn sẽ đổ vào áo anh mà. Chúng ta đáng lẽ đã phải đặt thiết bị đó ở chỗ khác.”
“Nhưng ông có ghi băng lại được đủ không?”
“Ồ, quá đủ. Đây chẳng phải là vấn đề. Vấn đề là những cái máy phát ấy tốn tiền đấy.”
“Hãy gửi hóa đơn cho tôi”, Rhyme nói gay gắt trong lúc Branch cởi áo sơ mi của anh, tháo micro và máy phát.
“Đây là một cái bẫy”, Bell thì thào.
Anh đoán đúng đấy.
“Nhưng chất độc.”
“Ồ, nó không phải toxaphene”, Rhyme nói. “Chỉ là ít rượu lậu. Từ chiếc bình chúng tôi đã lấy mẫu xét nghiệm. À này Ben nếu còn tí nào, ngay bây giờ tôi có thể làm một ngụm. Và lạy Chúa, có ai bật điều hòa lên được không?”
Cơ căng ra, cắt sang phía bên trái và chạy như điên. Mình sẽ trúng đạn nhưng nếu mình may mắn viên đạn sẽ chưa hạ gục mình.
Nếu ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta...
Amelia Sachs bước ba bước vào bãi cỏ.
Sẵn sàng...
Chạy...
Rồi một giọng đàn ông từ phía sau họ, bên trong khu tạm giam, cất lên: “Đứng im, Steve! Bỏ vũ khí xuống sàn. Nào! Tôi không nói lại lần nữa đâu!”.
Sachs xoay người một vòng và trông thấy Mason Germain, súng chĩa vào gã thanh niên tóc cắt cua đang bàng hoàng, đôi tai tròn đỏ lựng lên. Farr khom lưng, bỏ khẩu súng xuống sàn. Mason nhanh chóng bước tới, còng gã lại.
Có tiếng bước chân bên ngoài, tiếng lá kêu loạt soạt. Xây xẩm mặt mày vì nóng và vì chất aderaline, Sachs quay lại phía bãi cỏ, trông thấy một người da đen vóc dáng rắn chắc đang trèo ra khỏi bụi cây, nhét khẩu súng lục tự động Browning to tướng vào bao.
“Fred!”, cô kêu lên.
Nhân viên mật vụ FBI Fred Dellray, mồ hôi đầm đìa trong bộ com lê màu đen, bước về phía Sachs, nóng nảy phủi ống tay áo. “Này, Amelia. Lạy Chúa, ở dưới này quá quá quá nóng. Tôi không ưa thị trấn này tí tẹo nào. Và nhìn bộ com lê này. Từ đầu tới chân, tôi không biết, bụi bặm hay là cái gì nữa. Cái của nợ gì thế này, phấn hoa à? Chúng ta không có cái của nợ này ở Manhattan. Nhìn ống tay áo này!”
“Anh đang làm gì ở đây?”, Sachs kinh ngạc hỏi.
“Thế cô nghĩ tôi đang làm gì? Lincoln không chắc anh ấy có thể tin tưởng hay không thể tin tưởng ai, bởi vậy anh ấy mới bảo tôi bay xuống đây và ngoắc tôi vào với cái tay cảnh sát Germain để canh chừng cho cô. Tôi hiểu là anh ấy cần giúp đỡ, vì thấy anh ấy không thể tin tưởng được Jim Bell và đám anh em gã.”
Bell à?”, Sachs thì thầm.
“Lincoln nghĩ anh ấy đã chắp nối được toàn bộ câu chuyện. Anh ấy sẽ biết một cách chắc chắn ngay bây giờ. Nhưng có vẻ anh ấy đoán đúng, cái thằng em rể kia.” Dellray hất đầu chỉ Steve Farr.
“Hắn sắp sửa hạ được tôi”, Sachs nói.
Anh chàng mật vụ tủm tỉm cười: “Cô không phải chịu nguy hiểm một chút xíu nào, không đời nào. Tôi đã ngắm đầu ruồi vào chính giữa hai cái tai to tướng của thằng cha kia ngay khi cánh cửa sau vừa mở ra. Hắn mải ngắm vào mục tiêu là cô nên không để ý gì đến xung quanh cả”.
Dellray để ý thấy Mason đang ngờ vực quan sát mình. Anh chàng mật vụ cười to, nói với Sachs: “Anh bạn chúng ta ở đây không ưa cái kiểu của tôi lắm. Anh ta đã bảo tôi vậy”.
“Hẵng khoan”, Mason phản đối. “Tôi chỉ muốn nói...”
“Anh muốn nói tới các nhân viên của FBI, tôi cuộc là thế, Dellray ngắt lời.
Viên cảnh sát lắc đầu, giọng cộc cằn: “Tôi muốn nói tới dân miền Bắc”.
“Đúng đấy, anh ta không ưa dần miền Bắc đâu”, Sachs khẳng định.
Sachs và Dellray cười to. Nhưng Mason vẫn giữ vẻ nghiêm trang. Dù sao thì cũng không phải những khác biệt về văn hóa khiến anh ta nghiêm trang thế. Anh ta nói với Sachs: “Xin lỗi, nhưng tôi phải đưa cô vào lại phòng giam. Cô còn đang bị bắt giữ”.
Nụ cười của Sachs tắt dần, và cô nhìn lần nữa ánh nắng nhảy nhót trên bãi cỏ vàng úa bẩn thỉu. Cô hít vào lần nữa không khí nóng nực bên ngoài trời, rồi lại lần nữa. Cuối cùng, cô quay bước trở vào khu tạm giam lờ mờ tối.