CHƯƠNG 5

     húng tôi đã muốn có nó”, người đàn ông thận trọng thầm thì, y như thể nếu nói quá to thì sẽ gọi phù thủy hiện lên vậy. Ông ta lo lắng nhìn xung quanh khoảng sân đầy bụi phía trước, nơi một chiếc xe tải nhỏ không bánh đang đậu trên nền sân bê tông. “Chúng tôi đã gọi đến các tổ chức hỗ trợ trẻ em và gia đình, hỏi cụ thể về Garrett. Bởi chúng tôi nghe được chuyện của nó và cảm thấy thương xót. Nhưng, thực tế là, nó gây rắc rối ngay từ đầu. Không giống những đứa con khác của chúng tôi. Chúng tôi đã cố gắng hết sức nhưng tôi phải nói với các vị, tôi nghĩ nó không nhìn nhận theo cách ấy. Và chúng tôi khiếp sợ. Sợ lắm.”
Ông ta đứng trên dãy hàng hiên đằng trước đã bạc màu vì mưa nắng của ngôi nhà ở phía bắc Tanner’s Corner, trao đổi với Amelia Sachs và Jesse Corn. Amelia có mặt tại đây, tại nhà cha mẹ nuôi Garrett, chỉ để lục soát phòng gã, nhưng, mặc dù tình hình gấp gáp, cô vẫn để Hal Babbage kể lể dông dài với hy vọng cô sẽ biết thêm chút ít về Garrett Hanlon. Amelia Sachs không hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Rhyme rằng chứng cứ là chìa khóa duy nhất giúp tìm kiếm đối tượng.
Tuy nhiên, cuộc trò chuyện hé lộ ra độc một điều: cha mẹ nuôi của Garrett, như Hal nói, thực sự khiếp sợ việc gã sẽ quay lại làm hại họ hoặc những đứa con khác của họ. Vợ ông ta, đang đứng cạnh chồng, là một phu nữ to béo với mái tóc quăn. Bà ta mặc chiếc áo phông được tặng của một đài truyền thanh chuyên phát nhạc đồng quê. Chiếc áo ố bẩn, có hàng chữ MY BOOTS TAP TO WKRT. Giống như ông chồng, ánh mắt Margaret Babbage thường xuyên quét qua khoảng sân và những đám rừng xung quanh, xem Garrett có trở về không, Sachs đồ là vậy.
“Chẳng phải chúng tôi đã làm gì nó, Hal Babbage tiếp tục. Chúng tôi không bao giờ dùng roi vọt với nó - chính quyền bang không cho phép người ta làm như thế nữa - tuy nhiên tôi từng kiên quyết ép nó tuân theo kỷ luật. Ví dụ, chúng tôi lên thời gian biểu cho các bữa ăn. Tôi dứt khoát yêu cầu điều đó. Riêng Garrett luôn luôn không đúng giờ. Tôi khóa chạn thức ăn lại khi không đúng bữa, bởi vậy nó bị đói suốt. Thi thoảng tôi đưa nó tới lớp họcKinh Thánh ngày thứ Bảy dành cho cha và con trai. Nó căm ghétviệc ấy. Nó cứ ngồi im thin thít ở đấy. Tôi phải nói với các vị là tôi phát xấu hổ. Và tôi la rầy nó, muốn nó dọn dẹp cái phòng bẩn thỉu ngập ngụa.” Ông ta chần chừ nửa giận nửa sợ. “Đó là những điều người ta vốn vẫn yêu cầu con cái làm. Nhưng tôi biết vì thế mà nó đâm căm ghét tôi.”
Bà vợ cũng góp lời khai: “Chúng tôi đã tử tế với nó. Nhưng nó sẽ không nhớ đâu. Nó sẽ nhớ những lúc chúng tôi nghiêm khắc với nó. Giọng bà ta run run. “Và nó đang tính chuyện trả thù.”
“Tôi phải nói với anh, chúng tôi sẽ tự bảo vệ mình.” Cha nuôi Garrett cảnh báo, bấy giờ là nói với Jesse Corn. Ông ta hất đầu chỉ đống đinh và chiếc búa han gỉ nằm trên hàng hiên. “Chúng tôi đang đóng cố định các cánh cửa sổ, nhưng nếu nó cố đột nhập vào... chúng tôi sẽ tự bảo vệ mình. Bọn trẻ biết cần làm gì. Chúng biết chỗ cất khẩu súng săn. Tôi đã dạy chúng cách sử dụng.”
Ông ta khuyến khích chúng bắn Garrett? Sachs bàng hoàng. Cô đã trông thấy mấy đứa trẻ khác trong ngôi nhà, chúng ghé mắt nhìn qua khung lưới cửa sổ. Có vẻ như chưa đứa nào quá mười tuổi.
“Hal này.” Jesse Corn nói giọng lạnh lùng, giành quyền của Sachs. “Đừng tự xử lý bất cứ việc gì. Nếu ông trông thấy Garrett, hãy gọi cho chúng tôi. Và đừng để bọn trẻ động đến bất cứ khẩu súng nào đấy. Vào đi, ông thông thuộc các thứ trong căn phòng hơn.”
“Chúng tôi có các bài luyện tập”, Hal nói với giọng tự vệ. “Vào các ngày thứ Năm, sau bữa tối. Bọn trẻ biết phải sử dụng súng như thế nào.” Ông ta nheo mắt khi nhìn thấy cái gì đó trên khoảng sân. Sự căng thẳng thoáng hiện.
“Tôi muốn xem phòng hắn”, Sachs bảo.
Hal nhún vai. “Các vị cứ xem xét thoải mái. Nhưng các vị tự xem xét lấy thôi. Tôi không vào trong đó đâu. Em dẫn họ đi, Mags.” Ông ta cầm lên chiếc búa và một nắm đinh. Sachs để ý thấy báng khẩu súng lục thò ra chỗ cạp quần ông ta. Ông ta bắt đầu đóng đinh vào khung cửa sổ.
“Jesse”, Sachs nói. “Đi vòng ra phía sau và kiểm tra qua cửa sổ phòng hắn, xem có cái bẫy nào không.”
“Các vị sẽ chẳng trông thấy gì đâu”, bà mẹ giải thích. “Nó đã sơn đen hết cửa sổ rồi.”
Sơn à?
Sachs tiếp tục: “Thế thì hãy khống chế lối dẫn đến cửa sổ. Tôi không muốn gặp một bất ngờ nào. Canh chừng những vị trí ngắm bắn thuận lợi và đừng phơi mình ra trước mắt hắn.”
“Rõ. Canh chừng những vị trí ngắm bắn thuận lợi. Tôi sẽ thực hiện.” Và Jesse gật đầu một cách cường điệu, cái gật đầu cho Sachs thấy anh ta hầu như chưa có kinh nghiệm tác chiến. Anh ta biến mất vào khoảng sân bên hông ngôi nhà.
Bà vợ nói với Sachs: “Phòng nó đi lối này.”
Sachs bước theo mẹ nuôi của Garrett, đi xuôi một dãy hành lang tối lờ mờ đầy các thứ quần áo phải giặt là và hàng đống tạp chí. Gia đình, Đời sống Cơ Đốc giáo, Súng & Đạn, Đồng ruộng và sông suối, Tập san của bạn đọc.
Đầu Sachs rướn về phía trước khi đi qua mỗi khuông cửa, cặp mắt đảo trái đảo phải, những ngón tay dài vuốt ve báng khẩu súng lục làm bằng gỗ sồi chạm hình ô vuông. Cánh cửa phòng gã trai đóng kín.
Garret quẳng một tổ ong bắp cày vào. Khiến cô ấy bị đốt một trăm ba mươi bảy phát...
“Ông bà thực sự sợ hắn sẽ quay lại?”
Im lặng một lát, người phụ nữ trả lời: Garrett là đứa rắc rối. Người ta không hiểu nó và tôi từng thông cảm với nó hơn Hal. Tôi chẳng biết nó có quay lại không, tuy nhiên nếu nó quay lại thì sẽ lôi thôi đấy. Garrett không ngại làm hại người khác đâu. Một dạo, ở trường, mấy thằng con trai cứ mở trộm tủ đựng đồ của nó để vào đó những lời nhắn, quần áo lót bẩn và các thứ linh tinh. Chẳng có gì kinh khủng cả, chỉ là những trò đùa tình nghịch. Nhưng Garrett đã lắp một cái lồng mà cái lồng này sẽ bật mở trong trường hợp tủ đựng đồ không được mở đúng cách. Nó cho một con nhện vào. Lần tiếp theo bọn kia tái diễn trò trêu chọc, con nhện cắn trúng mặt một thằng. Suýt làm thằng bé bị mù... Phải, tôi khiếp sợ nếu nó quay lại.”
Họ dừng bước bên ngoài một cửa phòng ngủ. Trên mặt cửa gỗ có hàng chữ khắc tay. NGUY HIỂM. ĐỪNG VÀO. Bức tranh vẽ nguệch ngoạc bằng bút mực một con ong bắp cày trông dữ dằn được dính bằng băng dính phía dưới hàng chữ đó.
Không có điều hòa nhiệt độ và Sachs thấy lòng bàn tay ướt mồ hôi. Cô chùi bàn tay vào quần bò.
Sachs bật thiết bị bộ đàm hiệu Motorola và đeo bộ tai nghe vừa mượn từ Trung tâm Thông tin Liên lạc Văn phòng Cảnh sát trưởng. Phải mất một lát cô mới dò được tần số mà Steve Farr đã đưa. Sóng không tốt.
“Rhyme à?”
“Anh đây, Sachs. Anh đang chờ đợi đây. Em đã ở đâu vậy?”
Sachs không muốn nói với Rhyme rằng cô vừa dành ít phút cố gắng tìm hiểu về tâm lý của Garrett Hanlon. Cô chỉ bảo: “Bọn em mất một lúc mới tới đây được”.
“Chà, chúng ta có cái gì nhỉ?”, nhà hình sự học hỏi.
“Em chuẩn bị vào đây.”
Sachs ra hiệu bảo Margaret quay lại phòng khách rồi đá cho cánh cửa mở vào bên trong và nhảy giật lùi ra hành lang, áp sát người vào bức tường đối diện. Căn phòng sáng lờ mờ hoàn toàn im ắng.
Khiến cô ấy bị đốt một trăm ba mươi bảy phát...
Được. Giơ khẩu súng lục lên. Sẵn sàng, sẵn sàng, sẵn sàng! Sachs đẩy cửa vào.
“Lạy Chúa”, Sachs khom người xuống trong tư thế chiến đấu. Ghìm chặt cò súng, cô chĩa thẳng họng súng vào một bóng người ở ngay bên trong phòng.
“Sachs?”, Rhyme gọi. “Sao vậy?”
“Chờ chút”, Sachs thì thầm, bật ngọn đèn treo trên trần lên. Họng súng đã chĩa vào tấm poster in hình con quái vật gớm ghiếc trong bộ phim Người ngoài hành tinh[15].
Cô dùng bàn tay trái kéo mở toang cánh cửa tủ quần áo. Trống rỗng.
“An toàn, Rhyme. Tuy nhiên, phải nói là, em không ưa lắm cái cách hắn trang trí căn phòng.”
Đúng lúc ấy, một mùi hôi nồng nặc sộc vào mũi Sachs. Mùi quần áo chưa giặt, mùi cơ thể. Và mùi gì đó nữa...
“Ối chao”, Sachs lẩm bẩm.
“Sachs. Gì thế?”, Rhyme hỏi giọng sốt ruột.
“Cái chỗ này đang bốc mùi.”
“Tốt. Em biết quy tắc của anh đấy.”
“Bao giờ cũng ngửi mùi hiện trường đầu tiên. Nhưng giá mà em không ngửi thấy gì cả.”
“Tôi đã định dọn dẹp.” Bà Babbage khẽ khàng bước tới đằng sau lưng Sachs. “Đáng lẽ tôi nên dọn dẹp, trước khi các vị đến đây. Nhưng tôi quá sợ chẳng dám vào. Với lại, mùi chồn hôi rất khó hết, trừ phi cọ rửa bằng nước cà chua. Mà Hal nghĩ như thế là lãng phí.”
Chính nó. Bao phủ lên mùi quần áo bẩn là mùi xạ của chồn hôi, từa tựa mùi cao su cháy. Hai bàn tay vỗ vào nhau một cách tuyệt vọng, trông giống như sắp khóc, bà mẹ nuôi Garrett thì thầm: “Các vị mở cửa phòng nó thế này, nó sẽ tức điên lên mất.”
Sachs bảo bà ta: “Tôi cần ở đây một mình ít phút”. Cô dẫn bà ta ra ngoài rồi đóng cửa phòng lại.
“Đang lãng phí thời gian đấy, Sachs”, Rhyme nói gay gắt.
“Em bắt đầu đây”, Sachs đáp lời. Cô nhìn xung quanh. Cảm thấy nản lòng trước những tấm ga trải giường xám xịt, đầy các vết ố, những đống quần áo bẩn, những chiếc đĩa bị thức ăn cũ làm dính lại với nhau, những túi giấy bóng kính đựng đầy vụn khoai tây chiên và ngô chiên. Toàn bộ căn phòng khiến cô cáu kỉnh. Cô thấy mình đưa những ngón tay lên đầu gãi soàn soạt. Ngừng, rồi lại gãi. Cô tự hỏi tại sao cô lại giận dữ thế. Có lẽ vì sự nhếch nhác này khiến người ta hình dung rằng cha mẹ nuôi đã chẳng quan tâm gì tới Garrett và rằng chính tình trạng bị bỏ mặc đó đã góp phần biến gã trở thành một kẻ bắt cóc, một tên sát nhân.
Sachs xem xét căn phòng kỹ lưỡng nhưng nhanh chóng, để ý thấy hàng chục vết bẩn, dấu tay và dấu chân trên bậu cửa sổ. Dường như gã sử dụng cửa sổ thường xuyên hơn cửa trước và cô tự hỏi phải chăng ban đêm họ khóa bọn trẻ lại.
Cô quay sang bức tường đối diện chiếc giường, nheo mắt nhìn. Cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc cơ thể. “Chúng ta có một nhà sưu tầm ở đây, Rhyme.”
Sachs kiểm tra cả chục chiếc lọ - những cái chuồng nuôi hàng đàn côn trùng xúm xít vào với nhau - dưới đáy mỗi lọ đều có nước. Các nhãn xác định loài viết nguệch ngoạc bằng tay: Bọ xít bơi... Nhện nước. Một cái kính lúp sứt nằm trên chiếc bàn gần đó, bên cạnh là chiếc ghế văn phòng cũ kỹ trông như thể Garrett đã nhặt nó từ bãi rác về.
“Em biết tại sao người ta gọi hắn là Thằng Bọ rồi.” Sachs nói, rồi mô tả cho Rhyme nghe về những chiếc lọ. Cô rùng mình ghê sợ khi một lũ bọ bé tí, ướt át bò dọc theo thành thủy tinh một chiếc lọ.
“A, chi tiết tốt cho chúng ta.”
“Tại sao?”
“Bởi đây là một sở thích ít gặp. Nêu hắn mê tennis hay sưu tầm tiền xu thì việc đặt hắn vào một địa điểm nào đó sẽ khó khăn hơn. Bây giờ, hãy tiếp tục xem xét đi”, Rhyme nói bằng giọng nhẹ nhàng, gần như vui vẻ. Sachs biết anh đang tưởng tượng rằng bản thân anh đang đi theo từng ô ngang dọc của hiện trường, coi cô như mắt và chân của anh vậy. Trước đây, khi phụ trách bộ phận Điều tra và Nguồn lực và đơn vị khám nghiệm hiện trường của Sở Cảnh sát New York, Lincoln Rhyme thường tự khám nghiện hiện trường những vụ án giết người, thậm chí dành nhiều thời gian xem xét hơn cả các sĩ quan cấp dưới. Cô biết công việc này là điều nhớ nhất về cuộc đời trước khi tai nạn xảy ra.
“Bộ dụng cụ khám nghiệm hiện trường thế nào?” Rhyme hỏi. Jesse Corn đã đào được một bộ từ kho trang thiết bị văn phòng cảnh sát trưởng ra cho Sachs dùng.
Sachs mở chiếc va li nhỏ bằng kim loại đầy bụi. Nó chẳng bằng một phần mười bộ dụng cụ của cô ở New York, nhưng ít nhất cũng có các thứ cơ bản: những cái nhíp, một đèn pin, các que thăm, găng tay cao su và túi đựng chứng cứ. “Sơ sài thôi” cô trả lời.
“Đối với vụ này, chúng ta như cá trên cạn, Sachs ạ.”
“Em mắc cạn cùng anh, Rhyme.” Cô đeo găng tay vào trong lúc nhìn xung quanh căn phòng. Phòng ngủ của Garrett được gọi là hiện trường gián tiếp - không phải nơi vụ án thực sự xảy ra mà là nơi, ví dụ như, lên kế hoạch hành động, hoặc là nơi đối tượng ẩn trốn sau khi gây án. Từ lâu, Rhyme đã dạy cô rằng những hiện trường này thường có giá trị hơn hiện trường trực tiếp vì ở những chỗ đó đôi tượng có xu hướng bất cẩn hơn, vứt bỏ găng tay, quần áo, để lại vũ khí cũng như các chứng cứ khác.
Bây giờ, Sachs bắt đầu cuộc khám nghiệm, đi theo từng ô ngang dọc căn phòng - chia sàn thành từng dải hẹp song song nhau để xem xét, cái cách người ta xén cỏ, từng bước, từng bước, rồi chuyển sang đường vuông góc, rà qua cùng một vị trí lần thứ hai.
“Nói cho anh nghe nào, Sachs, nói cho anh nghe nào.”
“Đây là một chốn đáng sợ, Rhyme.”
“Đáng sợ à?”, anh càu nhàu. “Đáng sợ là cái quái quỷ gì vậy?”
Lincoln Rhyme không thích những nhận xét mơ hồ. Anh thích những tính từ mạnh - cụ thể: lạnh, lầy lội, xanh da trời, xanh lá cây, sắc. Rhyme thậm chí còn phàn nàn khi cô bình luận cái gì đó là “lớn” hoặc “nhỏ.” (“Hãy nói cho anh nghe xem kích thước nó bằng bao nhiêu inch hay bao nhiêu milimét, hoặc đừng nói gì cả, Sachs ạ.” Và Amelia Sachs luôn khám nghiệm hiện trường với một khẩu Glock 10, găng tay cao su và thước dây hiệu Stanley.)
Cô nghĩ: Ờ, mình cảm thấy sợ phát khiếp. Điều ấy không có ý nghĩa gì sao?
“Hắn dán trên tường các bức poster. Từ bộ phim Người ngoài hành tinh. Và Nhện khổng lồ[16] - bọn bọ to lớn này đang tấn công người ta. Hắn cũng tự vẽ nữa. Các hình ảnh đầy bạo lực. Căn phòng cực kỳ bẩn thỉu, đồ ăn vặt, quần áo, lũ côn trùng trong những chiếc lọ. Chẳng còn gì nhiều nhặn nữa.”
“Quần áo bẩn à?”
“Vâng. Có một vật hữu ích - một chiếc quần dài, bẩn kinh khủng. Hắn đã mặc nó nhiều lần, nó phải chứa cả tấn dấu vết. Gấu lơ-vê. Thật may mắn cho chúng ta - hầu hết đám thiếu niên ở tuổi hắn chỉ mặc quần bò màu xanh.” Sachs thả nó vào một túi nhựa đựng chứng cứ.
“Áo sơ mi?”
“Chỉ có áo phông”, cô trả lời. “Không cái nào có túi cả.” Các nhà hình sự học vốn vẫn yêu thích những bộ khuy cài măng sét và túi áo, chúng giữ lại đủ mọi loại manh mối hữu ích. “Em tìm thấy mấy cuốn vở, Rhyme. Nhưng Jim Bell và các cảnh sát khác hẳn đã xem xét chúng rồi.”
“Đừng đưa ra bất cứ giả định nào về công việc khám nghiệm hiện trường mà những đồng nghiệp của chúng ta tiến hành”, Rhyme nói một cách giễu cợt.
“Rõ.”
Sachs bắt đầu lật từng trang. “Không nhật ký. Không bản đồ. Không có gì liên quan đến chuyện bắt cóc... Chỉ có các con côn trùng... vẽ những thứ hắn nuôi trong lọ.”
“Có hình con gái, phụ nữ không? Có hình ác dâm không?”
“Không.”
“Mang chúng về đây. Những cuốn sách thì sao?”
“Có lẽ chừng một trăm cuốn. Sách giáo khoa, sách về động vật, côn trùng... Khoan đã, có cái này, một cuốn niên giám của trường Trung học Tanner’s Corner. Từ sáu năm trước.”
Rhyme hỏi ai đó trong phòng. Rồi anh quay lại với cuộc điện đàm. “Jim bảo Lydia hai mươi sáu tuổi. Cô ta hẳn phải ra trường cách đây tám năm. Nhưng cứ kiểm tra trang về những nữ sinh họ McConnell xem.”
Sachs lật đến vần M.
“Phải. Ảnh chụp Mary Beth bị cắt ra bằng một lưỡi dao sắc Hắn chắc chắn phù hợp với sự mô tả kinh điển về một kẻ chuyên rình rập hăm dọa, quấy rối người khác.”
“Chúng ta không quan tâm đến những mô tả. Chúng ta quan tâm đến chứng cứ. Những cuốn sách khác - những cuốn trên giá của hắn - cuốn nào hắn đọc thường xuyên nhất?”
“Làm sao em...”
“Xem các trang bẩn nhiều hay không”, Rhyme sốt ruột nói gay gắt. “Hãy bắt đầu từ những cuốn gần giường hắn nhất. Mang về đây độ bốn, năm cuốn.”
Sachs lấy ra bốn cuốn có các trang sờn rách nhất. Sổ tay nhà côn trùng học, Hướng dẫn thực địa về côn trùng khu vực Bắc Carolina, Côn trùng dưới nước khu vực Bắc Mỹ, Thế giới thu nhỏ.
“Em lấy bốn cuốn rồi, Rhyme. Nhiều trang được đánh dấu. Một số trang được đánh dấu sao.”
“Tốt. Mang chúng về đây. Nhưng phải có cái gì đó đặc biệt hơn trong căn phòng chứ.”
“Em chẳng thể tìm thấy cái gì.”
“Cứ xem xét đi, Sachs. Hắn là một gã trai mười sáu tuổi. Em biết những vụ có thủ phạm vị thành niên mà chúng ta từng làm rồi đấy. Phòng của thanh, thiếu niên mới lớn bao giờ cũng là trung tâm vũ trụ của chúng. Hãy thử suy nghĩ giống như một thiếu niên mười sáu tuổi xem. Em sẽ giấu giếm các thứ ở đâu?”
Sachs nhìn bên dưới tấm nệm, bên trong và bên dưới các ngăn kéo bàn học, trong tủ quần áo, bên dưới những cái gối đầy bụi. Rồi cô chiếu đèn pin vào khe hở giữa tường và giường. Cô nói: “Có cái gì đó ở đây, Rhyme”.
“Cái gì?”
Sachs tìm thấy một đống khăn giấy hiệu Kleenex đã dùng, một chai sữa dưỡng ẩm Vaseline Intensive Care. Cô kiểm tra một trong những chiếc khăn giấy. Nó ố bẩn bởi thứ gì đó có vẻ như là tinh dịch.
“Hàng chục chiếc khăn giấy bên cạnh giường. Hắn đã là kẻ thường xuyên bắt bàn tay phải của mình bận bịu.”
“Hắn mười sáu tuổi”, Rhyme nói. “Nếu hắn không như thế mới là không bình thường. Bỏ một chiếc vào túi đi. Chúng ta có thể sẽ cần đến ít cấu trúc ADN.”
Sachs tìm thấy một thứ khác nữa dưới gầm giường: một khung ảnh rẻ tiền mà trên đó có những hình vẽ thô thiển của Garrett về côn trùng - kiến, ong bắp cày, bọ cánh cứng. Bên trong lồng bức ảnh chụp Mary Beth McConnell cắt ra từ cuốn niên giám. Còn một tập album có chừng chục bức ảnh khác chụp Mary Beth. Chúng là những bức ảnh đời thường. Hầu hết là những bức ảnh chụp cô gái trẻ ở nơi như là trường đại học hoặc lúc cô đang đi bộ dọc theo con phố trong một thị trấn nhỏ. Hai bức chụp cô mặc bikini ở bên hồ. Trong cả hai bức này, cô đều đang cúi xuống và bức ảnh tập trung vào khe ngực cô. Sachs nói với Rhyme những thứ cô tìm thấy.
Người đẹp trong mộng của hắn, Rhyme lẩm bẩm. “Tiếp tục đi.”
“Em nghĩ chúng ta nên thu lấy mấy thứ này và bắt đầu khám nghiệm hiện trường trực tiếp.”
“Xem xét thêm một, hai phút nữa, Sachs. Hãy nhớ: đóng vai những người muốn nhón tay làm phúc, đây là ý tưởng của em chứ không phải của anh nhé.”
Cô run lên vì tức giận trước câu nói này. “Anh muốn gì nào?”, cô nóng nảy hỏi. “Anh muốn em lấy dấu vân tay à? Hay hút lấy tóc?”
“Tất nhiên là không. Em biết chúng ta không tìm kiếm những chứng cứ cho ủy viên công tố đem ra tòa. Chúng ta chỉ cần những thứ sẽ giúp chúng ta phỏng đoán được nơi hắn đưa hai cô gái kia đi. Hắn đâu định đưa họ về nhà. Hắn đã chuẩn bị một chốn dành riêng cho họ. Và hắn đến đó sớm hơn để sẵn sàng mọi thứ. Hắn có lẽ ít tuổi và thuộc loại lập dị nhưng dường như vẫn là kẻ tội phạm ngăn nắp. Thậm chí nếu hai cô gái kia đã chết thì anh dám cá rằng hắn cũng đã lựa chọn xong những nấm mồ đẹp đẽ ấm áp cho họ.”
Mặc dù đã làm việc cùng nhau suốt chừng ấy thời gian, Sachs vẫn không tài nào quen được với thái độ chai cứng của Rhyme. Cô biết đây chính là một trong những yếu tố tạo nên một nhà hình sự học - khoảng cách mà người ta bắt buộc phải giữ đối với nỗi khiếp sợ trước một vụ phạm tội - tuy nhiên cô thấy điều ấy mới khó khăn làm sao. Có thể bởi cô nhận ra cô cũng mang trong mình chính khả năng lạnh lùng ấy, sự lãnh đạm đến tê dại mà các nhân viên khám nghiệm hiện trường bắt buộc phải bật lên như bật một công tắc đèn điện, sự lãnh đạm đôi lúc khiến Sachs lo sợ sẽ làm trái tim cô trơ lỳ đi không mềm mại lại được nữa.
Những nấm mồ đẹp đẽ ấm áp...
Lincoln Rhyme, người sở hữu giọng nói có sức quyến rũ nhất khi anh hình dung ra một hiện trường vụ án, bảo cô: “Tiếp tục đi, Sachs, hãy soi sâu vào tâm trí hắn. Hãy trở thành Garrett Hanlon. Em đang nghĩ gì? Cuộc sống của em ra sao? Em vẫn thường làm gì trong căn phòng nhỏ bé đó, từng phút, từng phút, từng phút? Những ý nghĩ bí mật nhất của em là gì?”
Những nhà hình sự học cừ khôi nhất, Rhyme từng nói với Sachs, cũng giống những tiểu thuyết gia thiên tài, những người có thể tưởng tượng mình là các nhân vật do chính mình sáng tạo - và có thể biến hoàn toàn vào thế giới của một người khác.
Ánh mắt cô quét khắp căn phòng thêm lần nữa. Mình mười sáu tuổi. Mình là một gã trai rắc rối. Mình mồ côi, đám bạn học hay trêu chọc mình, mình mười sáu tuổi, mười sáu tuổi, mười sáu tuổi...
Một ý nghĩ xuất hiện. Sachs chộp lấy nó trước khi nó chuồi đi.
“Rhyme, anh biết điều kỳ lạ là gì không?”
“Nói anh nghe, Sachs.” Giọng anh nhẹ nhàng, khuyến khích.
“Hắn là một gã trai mới lớn, đúng không nào? Chà, em nhớ Tommy Briscoe - em hẹn hò với anh ta khi em mười sáu tuổi. Anh biết trên khắp các bức tường trong phòng anh ta là gì không?”
“Vào thời anh thì là poster in hình cái cô nàng Farrah Fawcett chết tiệt.”
“Chính xác là nó. Garrett không có ảnh chụp một người mẫu nổi tiếng nào cả, không có bất cứ một poster in hình từ tạp chíPlayboy hay Penthouse nào. Không có bộ bài Magic, không có Pokémon, không thứ đồ chơi nào. Không Alanis hay Celine. Không một poster in hình những tay viết nhạc rock... Và này, anh nghe này: không đầu chạy băng video, không ti vi, không máy stereo, không đài. Không Nintendo. Lạy Chúa, hắn mười sáu tuổi và hắn thậm chí không có máy vi tính.” Con gái đỡ đầu của Sachs mười hai tuổi và phòng con bé gần như là một phòng trưng bày đồ điện tử vậy.
“Có thể vấn để là tiền - do cha mẹ nuôi.”
“Này Rhyme, nếu em ở tuổi hắn và em muốn nghe nhạc tự em sẽ lắp một chiếc đài. Không có gì ngăn cản được tuổi mới lớn. Tuy nhiên, những thứ ấy không đem đến cho hắn hứng thú.”
“Tuyệt vời, Sachs.”
Có thể, cô ngẫm nghĩ, nhưng điều này nghĩa là gì? Ghi lại các quan sát mới chỉ là một nửa công viẹc của khoa học khám nghiệm. Nửa kia, quan trọng hơn nhiều, là đi tới các kết luận hữu ích từ sự quan sát.
“Sachs...”
“Xuỵt.”
Cô đấu tranh để gạt con người thực của mình sang bên: nữ cảnh sát đến từ Brooklyn, cô gái say mê những chiếc xe hơi hiệu General Motors khỏe khoắn, cựu người mẫu thời trang cho đại lý của Chantelle ở đại lộ Madison, quán quân bắn súng ngắn, cô gái có bộ tóc đỏ được nuôi dài và những móng tay cắt ngắn để thói quen gãi đầu hay da thịt mỗi lúc căng thẳng đừng gây nên các vết thương giống như các vết thương trên cơ thể chúa Jesus khi bị đóng đinh câu rút.
Cố gắng biến con người ấy thành tro bụi và trở thành một gã trai mười sáu tuổi rắc rối, đáng sợ. Một kẻ cần, hoặc muốn, giành phụ nữ bằng vũ lực. Cần, hoặc muốn, được giết chóc.
Mình có những suy nghĩ như thế nào?
“Em chẳng quan tâm tới các thú vui bình thường, âm nhạc, ti vi, máy vi tính. Em chẳng quan tâm tới tình dục bình thường.” Sachs nói, như nói với chính mình nữa. “Em chẳng quan tâm tới các mối quan hệ bình thường. Người ta cũng giống bọn côn trùng - những thứ để bị nhốt lại. Thực tế, em chỉ quan tâm tới bọn côn trùng. Bọn chúng là nguồn an ủi duy nhất của em. Niềm thích thú duy nhất của em.” Cô nói những điều này trong lúc đi đi lại lại trước dãy lọ. Rồi cô nhìn xuống sàn nhà dưới chân. “Vết di chuyển của chiếc ghế!”
“Cái gì?”
“Chiếc ghế của Garrett... nó có các bánh xe. Nó quay vào phía dãy lọ nuôi côn trùng. Tất cả những gì hắn làm là lăn ghế tiến lên lùi xuống, chăm chăm quan sát chúng và vẽ chúng. Chết tiệt, hắn có thể còn trò chuyện cùng chúng nữa ấy chứ. Toàn bộ cuộc sống của hắn là những con bọ này.” Nhưng vết di chuyển trên sàn gỗ dừng lại trước khi lăn đến chỗ chiếc lọ ở cuối dãy - chiếc lọ lớn nhất và được đặt hơi cách các lọ khác. Nó đựng những con vật mặc áo vàng. Những con vật bé tí thân cong cong mang hai màu đen - vàng giận dữ vụt qua vụt lại y như thể chúng ý thức được sự xâm phạm của Sachs.
Cô bước tới chỗ chiếc lọ, cẩn thận cúi nhìn nó, rồi nói với Rhyme: “Một chiếc lọ đựng đầy ong bắp cày. Em nghĩ đây là chiếc két an toàn của hắn.”
“Tại sao?”
“Nó không ở gần những chiếc lọ khác. Hắn chẳng bao giờ ngắm nghía nó cả - em có thể nói như thế dựa vào vết di chuyển của chiếc ghế. Và tất cả những chiếc lọ khác đều có nước - nuôi các loài bọ thủy sinh. Đây là chiếc lọ duy nhất đựng loài côn trùng bay được. Một ý tưởng tuyệt vời, Rhyme - ai sẽ động đến chiếc lọ như thế? Và chừng gang tay rưỡi giây hắn vùi giấu cái gì đó.”
“Kiểm tra bên trong xem.”
Sachs mở cửa và hỏi mượn bà Babbage đôi găng tay da bà ta mang găng tay vào, bà ta thấy Sachs đang nhìn vào chiếc lọ đựng ong bắp cày.
“Cô không định động đến nó đấy chứ?”, bà Babbage tuyệt vọng thầm thì.
“Tôi đang định làm thế.”
“Ôi, Garrett sẽ điên tiết lên. Nó vốn vẫn quát tháo bất cứ ai động đến lọ ong bắp cày của nó.”
“Bà Babbage, Garrett là một tội phạm đang chạy trốn. Việc hắn quát tháo bất cứ ai không phải mối bận tâm ở đây.”
“Nhưng nhỡ nó lén quay lại và thấy cô động đến chiếc lọ. Ý tôi là... Nó có thể nổi điên.” Nước mắt lại chực trào ra.
“Chúng tôi sẽ tìm thấy hắn trước khi hắn quay lại.” Sachs nói với giọng trấn an. “Đừng lo lắng.”
Sachs đeo găng tay, và cô lấy chiếc vỏ gối quấn xung quanh cánh tay để trần. Cô từ từ kéo cái nắp lọ bằng lưới ra, thò tay vào. Hai con ong bắp cày bò lên găng tay, nhưng chỉ lát sau nó bay đi. Số còn lại hoàn toàn thờ ơ trước sự xâm phạm này. Cô cố gắng không làm chúng xáo động.
Bị đốt một trăm ba mươi bảy phát…
Sachs chỉ sục xuống chừng nửa gang tay đã phát hiện được một chiếc túi nhựa. “Đây rồi.” Cô rút nó lên. Một con ong bắp cày thoát khỏi lọ và mất hút trong ngôi nhà trước khi cô kịp đậy cái nắp bằng lưới lại.
Cởi đôi găng tay da, đeo đôi găng tay cao su vào, cô mở chiếc túi, đổ các thứ đựng bên trong ra giường. Một cuộn dây câu mảnh. Một ít tiền - chừng trăm đô la tiền mặt và bốn đồng Eisenhower bằng bạc. Một khung ảnh khác, cái này lồng bức hình cắt từ bài báo nọ, chụp Garrett ngồi với gia đình một tuần trưóc vụ tai nạn ô tô đã cướp mất cha mẹ và em gái gã. Một đoạn dây xích ngắn xỏ một chìa khóa méo mó - giống chìa khóa ô tô, tuy nhiên không có logo trên đầu chìa, chỉ có một dãy số ngắn. Cô báo cáo với Rhyme về chiếc chìa khóa.
“Tốt, Sachs ạ. Tuyệt vời. Anh chưa biết nó có ý nghĩa gì, nhưng nó là sự khởi đầu. Bây giờ thì chuyển sang hiện trường trực tiếp đi. Bến tàu kênh Nước đen.”
Sachs ngừng một chút, nhìn xung quanh căn phòng. Con ong bắp cày thoát khỏi lọ đã quay lại, đang cố gắng chui trở vào. Sachs tự hỏi liệu nó đang gửi tới các anh em nó thông điệp gì.
“Tôi không thể theo kịp”, Lydia bảo Garrett. “Tôi không thể đi nhanh như thế này”, cô hổn hển nói. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt cô. Bộ đồng phục của cô ướt sũng.
“Im”, Garrett giận dữ quát. “Tao cần phải lắng nghe. Tao không tài nào nghe được khi mày cứ lải nhải suốt.”
Lắng nghe cái gì? Lydia tự hỏi.
Garrett lại xem bản đồ và dẫn cô đi dọc một lối mòn khác. Họ đang còn ở sâu trong rừng thông và mặc dù họ không đi dưới nắng, cô vẫn bị chóng mặt, nhận ra những triệu chứng ban đầu của cơn say nắng.
Gã liếc nhìn Lydia, ánh mắt lại đặt lên ngực cô.
Các móng tay búng tanh tách.
Cái nóng khủng khiếp.
“Xin cậu”, Lydia vừa thì thào vừa khóc. “Tôi không thể đi như thế này! Xin cậu!”
“Im! Tao sẽ không nói với mày nữa đâu đấy!”
Một đám muỗi mắt bay xung quanh mặt Lydia. Cô hít phải một, hai con và kinh tởm nhổ ra. Lạy Chúa, cô mới ghét cái chốn này làm sao chứ - trong rừng. Lydia Johansson vốn vẫn ghét đi ra ngoài trời. Phần lớn mọi người mê những cánh rừng, những bể bơi, những sân chơi. Nhưng hạnh phúc đối với cô là sự mãn nguyện mong manh hầu như chỉ diễn ra bên trong nhà: công việc của cô, những cuốn truyện kinh dị và ti vi, tán gẫu với các bạn gái còn độc thân bên ly cocktail margarita tại nhà hàng T.G.I Ngày thứ Sáu, những cuộc đi mua sắm lu bù, những buổi tối thi thoảng cùng bạn trai.
Toàn những niềm vui diễn ra bên trong nhà.
Khung cảnh ngoài trời gợi cho Lydia nghĩ tới các bữa tiệc thịt nướng mà những người bạn đã lập gia đình tổ chức, nó gợi cho cô nghĩ tới những gia đình ngồi xung quanh bể bơi trong lúc bọn trẻ chơi với những thứ đồ chơi bơm phồng, những chuyến picnic, những phụ nữ gọn ghẽ diện đồ bơi hiệu Speedo và dép xỏ ngón.
Khung cảnh ngoài trời gợi cho Lydia nghĩ tới một cuộc sống mà cô mong muốn nhưng không có được, gợi cho cô nghĩ tới nỗi cô đơn của cô.
Garrett dẫn cô đi xuôi một lối mòn khác, ra khỏi khu rừng. Cây cối đột nhiên biến mất và một cái hố khổng lồ mở trước mặt họ. Đó là một mỏ đá cũ. Nước dưới đáy hố nửa xanh lá cây nửa xanh da trời. Cô nhớ cách đây nhiều năm trẻ con từng xuống đây bơi, trước khi đầm lầy bắt đầu xâm lấn đất đai phía bắc sông Paquo và khu vực này trở nên nguy hiểm hơn.
“Đi nào”, Garret nói, hất đầu chỉ cái hố.
“Không. Tôi không muốn. Nó đáng sợ lắm.”
“Tao chẳng quan tâm chuyện mày muốn gì”, Garrett quát. “Đi nào!”
Gã tóm hai bàn tay bị trói của Lydia và lôi cô theo một lối mòn dốc đứng xuống cái gờ đá lởm chởm. Garrett cởi áo sơ mi, cúi người té nước lên lớp da sưng tấy. Gã gãi và chọc vào những vết lằn, xem xét các móng tay. Thật kinh tởm. Gã ngẩng lên nhìn Lydia. “Mày muốn làm thế chứ? Rất dễ chịu. Mày có thể cởi váy ra, nếu mày muốn. Xuống bơi.”
Khiếp sợ với cái ý nghĩ trần truồng trước Garrett, Lydia dứt khoát lắc đầu. Rồi cô ngồi xuống gần bờ hố, té nước lên mặt và cánh tay.
“Chỉ có điều đừng uống nước đó. Tao có cái này.”
Garrett lôi từ đằng sau một tảng đá ra cái túi vải gai bẩn thỉu, hẳn là gã mới giấu nó vào đây. Gã lôi ra chai nước và vài phong bích quy phó mát với bơ lạc. Gã ăn một phong bích quy, uống nửa chai nước. Gã đưa phần còn lại cho Lydia.
Cô lắc đầu, từ chối.
“Mẹ kiếp, tao không bị AIDS hay bị làm sao đâu, nếu mày đang nghĩ như vậy. Mày phải uống gì đi chứ.”
Phớt lờ cái chai, Lydia ghé miệng xuống làn nước dưới mỏ đá, hớp sâu một hơi. Nó mặn và có vị sắt. Thật kinh tởm. Cô nghẹt thở, suýt phát nôn.
“Lạy Chúa, tao đã bảo mà”, Garrett quát. Gã lại đưa chai nước cho Lydia. “Có đủ thứ bẩn thỉu dưới đó. Đừng ngu ngốc quá như thế.” Gã quẳng cho cô cái chai. Cô vụng về bắt lấy bằng đôi bàn tay bị trói và uống cạn.
Được uống nước, Lydia ngay lập tức tỉnh táo. Cô bớt căng thẳng, hỏi: “Mary Beth đâu? Cậu đã làm gì cô ấy?”
“Cô ấy đang ở một chỗ ngoài biển. Ngôi nhà cũ của một người khu bờ.”
Lydia biết Garrett muốn nói gì. Đối với dân Carolina, người khu bờ nghĩa là người sống ở Bờ Ngoài - dải đất ngăn cách Đại Tây Dương với bờ biển Bắc Carolina. Vậy Mary Beth đang ở đó. Và cô hiểu tại sao họ đã đi về phía đông - về phía vùng đầm lầy không nhà cửa, hầu như không có nơi nào để ẩn trốn cả. Chắc gã đã giấu một con thuyền để đi xuyên qua vùng đầm lầy ra hệ thống đường thủy ven biển, đến Elizabeth City, vượt eo Albemarle, sang khu bờ.
Garrett tiếp tục: “Tao thích chỗ đó. Nó đẹp cực kỳ. Mày thích biển chứ hả?”. Gã hỏi Lydia theo cái cách lạ lùng - như thể trò chuyện - và gã xem ra hầu như bình thường. Trong khoảnh khắc, cô bớt khiếp sợ. Nhưng rồi gã lại ngồi sững, lắng nghe gì đó, đặt một ngón tay lên môi bảo cô im lặng, tức tối cau mày, và phần tăm tối của con người gã quay lại. Cuối cùng, gã lắc đầu khi đi đến kết luận rằng cái gì đó mà gã vừa lắng nghe không phải mối đe dọa. Gã vừa chà mu bàn tay khắp mặt vừa gãi một vết lằn khác. “Đi thôi.” Gã hất đầu chỉ ngược lên lối mòn dốc đứng dẫn tới mép mỏ đá. “Không xa đâu.”
“Ra Bờ Ngoài phải mất một ngày. Hơn một ngày.”
“Rõ khỉ, hôm nay chúng ta chưa ra đó.” Garrett lạnh lùng cười thành tiếng, như thể Lydia vừa nêu lên một ý kiến ngu ngốc nữa. “Chúng ta sẽ trốn loanh quanh đâu đây và để cho cái bọn chết giẫm tìm kiếm chúng ta đi qua. Chúng ta sẽ đợi đến hết đêm đã.” Gã không nhìn cô khi nói câu này.
“Đợi đến hết đêm?”, Lydia thì thào một cách tuyệt vọng.
Nhưng Garrett không nói gì nữa. Gã đẩy cô đi theo lối mòn dốc đứng dẫn tới mép mỏ đá và sau đó là rừng thông.

Chú Thích:

[15] Nguyên văn là Alien.
[16] Nguyên văn là Starship Troopers.