CHƯƠNG 9

     iện trường trực tiếp trước”, Rhyme nói với Ben. “Khu vực Nước đen.”
Anh hất đầu chỉ số chứng cứ được đặt trên chiếc bàn bằng gỗ ép công nghiệp. “Đầu tiên, chúng ta hãy xem xét chiếc giày chạy của Garrett. Chiếc giày hắn đã đánh rơi khi lôi Lydia đi.”
Ben cầm chiếc giày lên, kéo khóa mở cái túi nhựa, bắt đầu thò tay vào.
“Găng tay!”, Rhyme ra lệnh. “Bao giờ cũng phải đeo găng tay cao su khi xử lý các vật chứng.”
“Để tránh in dấu vân tay à?” nhà động vật học hỏi trong lúc vội vã đeo găng tay.
“Đấy là một lý do. Một lý do khác nữa là để tránh nhầm lẫn. Chúng tôi không muốn lẫn lộn giữa những nơi mà cậu đã tới với những nơi mà đối tượng đã tới.”
“Vâng. Đúng rồi.” Ben hăng hái gật gật cái đầu húi cua to tướng của mình, y như thể anh ta sợ sẽ quên mất quy tắc này. Anh ta lắc chiếc giày, ngó nghiêng vào bên trong. “Trông như có sỏi hay cái gì đó.”
“Rõ khỉ, tôi không bảo Amelia nhờ người ta chuẩn bị cho các khay khám nghiệm vô trùng”. Rhyme nhìn xung quanh căn phòng. “Thấy cuốn tạp chí đằng kia không? Tạp chí People hả?”
Ben cầm lên, lắc đầu: “Số ra cách đây ba tuần rồi.”
“Tôi chẳng quan tâm những chuyện yêu đương của Leonardo DiCaprio là mới hay cũ”, Rhyme làu bàu. “Hãy rút tờ phiếu đặt mua dài hạn kẹp bên trong ra… Cậu có ghét những thứ đó không? Nhưng chúng lại có ích cho chúng ta đấy – chúng chạy ra từ máy in, đẹp đẽ, sạch sẽ, bởi vậy chúng có thể được sử dụng làm các khay khám nghiệm mi ni.”
Ben làm theo hướng dẫn, dốc đất cát đá sỏi từ bên trong giày ra tờ phiếu.
“Lấy một mẫu đưa vào kính hiển vi và để tôi xem nào”. Rhyme lăn xe đến bên bàn, nhưng thị kính cao hơn tầm mắt anh chừng vài inch. “Mẹ kiếp.”
Ben đánh giá vấn đề: “Chắc tôi có thể bê cho ông nhìn.”
Rhyme cười khẽ: “Nó nặng gần ba mươi pound. Không, chúng ta sẽ phải tìm một…”
Nhưng nhà động vật học đã bê chiếc kính hiển vi lên và với đôi cánh tay vạm vỡ, giữ nó hết sức chắc chắn. Tất nhiên, Rhyme chẳng thể xoay núm điều chỉnh tiêu cự, nhưng anh nhìn được rõ để đi tới kết luận. “Bụi và các mẩu nhỏ đá vôi. Liệu có phải từ Bến tàu kênh Nước đen không nhỉ?”
“Ừm,” Ben chậm rãi nói. “Không chắc. Ở đó hầu như chỉ toàn bùn lầy.”
“Cho một mẫu qua máy tách hợp chất đi. Tôi muốn xem trong đó còn có gì nữa không.”
Máy tách hợp chất là thứ công cụ mơ ước của một nhà hình sự học. Do một nhà thực vật học người Nga sáng chế ra từ đầu thế kỷ trước nhưng không được sử dụng nhiều cho mãi tới những năm 1930, thiết bị này phân tích các hợp chất như thực phẩm, dược phẩm, máu, dấu vết… và tách riêng rẽ từng thành tố. Có đến nửa tá các loại máy tách hợp chất khác nhau, tuy nhiên loại phổ biến nhất được sử dụng trong khám nghiệm điều tra là máy tách hợp chất khí. Loại này đốt cháy mẫu vật chứng. Khí sinh ra do quá trình đốt cháy được tách riêng rẽ giúp xác định những chất đã tạo nên hợp chất lúc ban đầu. Trong một la-bô của cơ quan điều tra, máy tách hợp chất thông thường nối với phổ kế ghi khối lượng – loại thiết bị có khả năng xác định cụ thể về nhiều chất trong hợp chất lúc ban đầu.
Máy tách hợp chất khí chỉ xử lý được những chất liệu có thể chuyển thành hơi – tức là có thể đốt cháy - ở nhiệt độ tương đối thấp. Tất nhiên, đá vôi thì không thể cháy. Nhưng Rhyme cũng không quan tâm đến đá vôi, anh quan tâm đến dấu vết đã dính vào chỗ đất và những mẩu nhỏ đá vôi này. Chúng sẽ giúp xác định cụ thể hơn các địa điểm mà Garrett đã tới.
“Phải đợi một lúc”, Rhyme nói. “Trong lúc đợi chúng ta hãy xem bụi đất bám ở các rãnh khía dưới đế giày của Garrett. Tôi bảo cho cậu biết, Ben ạ, tôi các rãnh khía. Giày và cả lốp xe nữa. Chúng giống như những miếng bọt biển. Nhớ lấy điều ấy.”
“Vâng, tôi sẽ nhớ, thưa ông.”
“Cậy ra một ít và chúng ta hãy thử xem nó có đến từ nơi nào khác ngoài Bến tàu kênh Nước đen không.”
Ben cậy một ít bụi đất ra một tờ phiếu đặt mua tạp chí khác. Anh ta giơ nó trước mặt Rhyme để anh nghiên cứu cẩn thận. Là một chuyên gia khám nghiệm, anh biết tầm quan trọng của bụi đất. Nó dính vào quần áo, nó lưu lại dấu vết tựa những mẩu vụn bánh mì của Hansel và Gretel dẫn đến cửa nhà một đối tượng[18], nó khiến kẻ tội phạm và hiện trường vụ án y như thể bị trói chặt lại với nhau vậy. Có chừng một nghìn một trăm màu đất khác nhau và nếu một mẫu từ hiện trường vụ án hoàn toàn trùng khớp với một màu đất tìm thấy ở sân sau nhà đối tượng, khả năng rất lớn là đối tượng đã có mặt tại hiện trường. Sự giống nhau về thành phần cấu tạo của đất cũng củng cố thêm mối liên hệ. Locard, nhà hình sự học vĩ đại người Pháp, từng xây dựng nên nguyên tắc khám nghiệm mang tên ông, đó là mỗi khi xảy ra một vụ án, luôn luôn xuất hiện những sự trao đổi giữa thủ phạm với nạn nhân hay với hiện trường. Rhyme đã nhận thấy rằng, trong trường hợp xảy ra tấn công hoặc án mạng, xét tới yếu tố được trao đổi thường xuyên nhất, bụi đất là yếu tố xếp hàng thứ hai sau máu.
Tuy nhiên, việc sử dụng đất cát làm chứng cứ gặp phải vấn đề là chúng quá phổ biến. Để có được ý nghĩa nào đó về mặt khám nghiệm, một mẫu đất mà nguồn đưa đến may ra là kẻ tội phạm phải khác biệt với đất tự nhiên ở khu vực hiện trường.
Bước đầu tiên trong phân tích đất là kiểm tra mẫu đất tự nhiên ở khu vực hiện trường – mẫu đối chiếu – với mẫu đất nhà hình sự học tin tưởng rằng do kẻ tội phạm đưa đến.
Rhyme nói điều này với Ben và anh chàng to lớn cầm lên một túi đất Sachs ghi chú là Mẫu đất đối chiếu – Bến tàu kênh Nước đen, kèm theo ngày, giờ thu thập. Ngoài ra, còn một dòng ghi chú nữa không phải chữ viết của Sachs. Người thu thập: Cảnh sát J. Corn. Rhyme hình dung ra anh chàng cảnh sát trẻ háo hức chạy đi thực hiện mệnh lệnh của Sachs. Ben đổ một ít chỗ đất này ra tờ phiếu đặt mua tạp chí thứ ba. Anh ta đặt nó bên cạnh chỗ đất cậy từ đế giày của Garrett. “Chúng ta so sánh chúng bằng cách nào?”, người thanh niên hỏi, nhìn một lượt qua các thiết bị.
“Bằng mắt của cậu.”
“Nhưng…”
“Hãy cứ quan sát chúng. Xem màu sắc của mẫu chưa xác định có khác biệt với màu sắc của mẫu đối chiếu không.”
“Tôi làm như thế bằng cách nào?”
Rhyme phải ép mình trả lời bằng giọng điềm tĩnh: “Cậu hãy cứquan sát chúng thôi.”
Ben chăm chăm nhìn một mẫu, rồi nhìn sang mẫu kia.
Nhìn lại. Một lần nữa.
Rồi một lần nữa.
Nào, nào… nó không tinh tế tới mức đó đâu. Rhyme phải hết sức cố gắng để tỏ ra kiên nhẫn. Một trong những công việc khó khăn nhất đối với anh trên đời này.
“Cậu thấy gì?”, Rhyme hỏi. “Có phải đất từ hai nơi khác nhau?”
“Chà, tôi không thể nói chính xác thưa ông. Tôi nghĩ một mẫu màu nhạt hơn.”
“Đưa chúng vào kính hiển vi đối chiếu.”
Ben đưa hai mẫu đất vào kính hiển vi đối chiếu và soi qua các thị kính. “Tôi không chắc chắn. Khó mà nói chắc chắn được. Tôi cho là… có lẽ là sự khác biệt.”
“Để tôi xem nào.”
Các bắp thịt đồ sộ lại bê chiếc kính hiển vi to tướng lên một cách vững vàng và Rhyme nhìn vào hai thị kính. “Chắc chắn là khác so với mẫu đối chiếu”, Rhyme nói. “Màu nhạt hơn. Chứa nhiều tinh thể hơn. Chứa nhiều granite và đất sét hơn, không cùng môi trường thực vật. Vậy là nó không phải từ Bến tàu kênh Nước đen… Nếu chúng ta may mắn, nó chính từ các hốc trú ngụ của hắn.”
Một nụ cười thoáng nở trên môi Ben, nụ cười đầu tiên Rhyme nhìn thấy.
“Gì vậy?.”
“Ồ, ờ thì, đó là cách chúng tôi gọi cái hang mà một con cá chình chọn làm nhà…” Nụ cười trên môi người thanh niên biến mất khi ánh mắt chằm chằm của Rhyme bảo cho anh ta biết đây không phải lúc, không phải chỗ để dông dài.
Nhà hình sự học nói: “Sau khi có kết quả về mẫu đá vôi ở máy tách hợp chất, cậu kiểm tra chỗ đất lấy ra từ đế giày nhé.”
“Thưa ông, vâng.”
Lát sau, màn hình máy vi tính nối với máy tách hợp chất/phổ kế nhấp nháy sáng, những đường đồ thị nhấp nhô như núi đồi và thung lũng xuất hiện. Rồi một cửa sổ mở ra và nhà hình sự học lăn xe đến gần. Anh va vào một cái bàn và chiếc Storm Arrow ngoặt mạnh sang trái, khiến Rhyme chúi người. “Mẹ kiếp.”
Mắt Ben tròn xoe hoảng hốt. “Thưa ông, ông có sao không?”
“Không sao, không sao, không sao”, Rhyme lẩm bẩm. “Cái bàn chết tiệt này làm gì ở đây? Chúng ta đâu cần tới nó chứ.”
“Tôi sẽ nhấc nó ra”, Ben nói ngay, chỉ một tay tóm chiếc bàn nặng y như thể nó làm bằng gỗ balsa[19] và đem cất nó vào góc phòng. “Xin lỗi, đáng lẽ tôi phải để ý từ trước.”
Rhyme phớt lờ sự băn khoăn hối hận của nhà động vật học và chăm chú nhìn màn hình. “Những lượng lớn nitrate, phốt phát và ammonia.”
Kết quả này rất đáng lo ngại nhưng Rhyme chưa nói gì ngay, anh muốn xem trong mẫu đất Ben cậy ra từ đế giày Garrett chứa các chất như thế nào đã. Và kết quả về mẫu đất ấy cũng nhanh chóng xuất hiện trên màn hình.
Rhyme thở dài. “Nhiều nitrate hơn, nhiều ammonia hơn – rất nhiều. Nồng độ cao. Phốt phát cũng nhiều hơn. Có cả chất tẩy. Và cái gì nữa này… Cái chết tiệt gì vậy?”
“Đâu ạ?”, Ben hỏi, vươn người về phía màn hình.
“Ở phía cuối ấy. Cơ sở dữ liệu xác định nó là camphene. Cậu nghe nói bao giờ chưa hả?”
“Chưa, thưa ông.”
“Chà, Garrett đã giẫm lên thứ này, dù nó có là gì đi chăng nữa”, Rhyme nhìn cái túi đựng chứng cứ. “Nào, chúng ta còn gì? Tờ khăn giấy màu trắng Sachs đã phát hiện ra…”
Ben cầm túi lên, đưa nó đến gần Rhyme. Tờ khăn giấy thấm nhiều máu. Anh liếc nhìn mẫu khăn giấy kia – những tờ khăn giấy hiệu Kleenex Sachs tìm thấy tại phòng riêng của Garrett. “Chúng có giống nhau không?”
“Trông cũng giống nhau”, Ben trả lời. “Cả hai đều màu trắng, cùng cỡ.”
Rhyme nói: “Đưa chúng cho Jim Bell. Bảo anh ta là tôi muốn có phân tích AND. Phân tích lướt thôi.”
“Phân tích, ừm… gì ạ, thưa ông?”
“Phân tích cơ bản AND, phản ứng chuỗi polymerase. Chúng ta không có thời gian làm RFLP[20] – nó sẽ cung cấp kết quả là một-trong-sáu-tỉ phiên bản. Tôi chỉ muốn biết liệu đó là máu của Billy Stail hay là máu của người khác. Bảo ai đó hãy xoay xở thế nào mà lấy được các mẫu xác từ Billy Stail và từ cô Mary Beth cũng như từ cô Lydia.”
“Các mẫu? Mẫu gì ạ?”
Rhyme lại phải ép mình giữ sự kiên nhẫn. “Mẫu di tố. Bất cứ mô nào từ xác Billy Stail. Đối với hai cô gái kia thì cách dễ dàng nhất là lấy được vài sợi tóc – chỉ cần còn chân tóc. Bảo một cảnh sát đi thu lược chải đầu trong phòng tắm của Mary Beth và Lydia, đưa đến chỗ sẽ xét nghiệm tờ khăn giấy.”
Người thanh niên cầm cái túi, rồi rời khỏi căn phòng. Lát sau, anh ta quay lại. “Một hoặc hai tiếng đồng hồ nữa họ sẽ cho kết quả, thưa ông. Họ sẽ gửi tới trung tâm y tế ở Avery, chứ không gửi tới cảnh sát bang. Cảnh sát Bell, ý tôi là, Cảnh sát trưởng Bell, nghĩ rằng như thế thì dễ dàng hơn.”
“Một tiếng đồng hồ nữa?”, Rhyme nhăn nhó lẩm bẩm. “Mất thời gian quá.”
Anh không thể nào không băn khoăn tự hỏi liệu sự chậm trễ này có đủ để Thằng Bọ giết chết Lydia hay Mary Beth trước khi họ tìm thấy hắn không.
Ben đứng, buông thõng hai cánh tay kềnh càng. “Ừm, tôi có thể gọi họ quay lại. Tôi đã nói với họ về tầm quan trọng của việc này nhưng.. Ông có muốn tôi gọi họ quay lại không?”
“Thôi được, Ben. Chúng ta sẽ tiếp tục ở đây. Thom, tới lúc lập các bảng rồi”
Anh chàng phụ tá viết lên tấm bảng đen những gì Rhyme đọc
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC TIẾP – BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN
Khăn giấy hiệu Kleenex thấm máu
Bụi đá vôi
Nitrate
Phốt phát
Ammonia
Chất tẩy
Camphene
Rhyme nhìn chằm chằm. Vẫn chưa đủ câu trả lời cho các câu hỏi…
Như cá trên cạn…
Ánh mắt Rhyme dừng lại ở đống đất Ben cậy ra từ đế giày gã trai. Rồi trong đầu óc anh xuất hiện một ý nghĩ. “Jim!”, anh quát to, giọng oang oang khiến cả Thom lẫn Ben cùng giật mình. “Jim! Anh ta ở cái chỗ quái quỷ nào vậy? Jim!”
“Gì thế?”, viên cảnh sát trưởng chạy vào, lo lắng. “Có chuyện gì thế?”
“Bao nhiêu người làm việc trong tòa nhà này?”
“Tôi không biết. Chừng hai mươi người.”
“Và họ sống rải rác khắp quận?”
“Còn hơn thế nữa. Một số người còn từ Pasquotank, Albemarle và Chowan.”
“Tôi muốn tất cả xuống đây bây giờ.”
“Gì cơ?”
“Tất cả mọi người trong tòa nhà này. Tôi muốn lấy mẫu đất từ giày của họ… Đợi đã và thảm trải sàn xe của họ nữa.”
“Đất…”
“Đất! Bụi! Bùn! Anh biết đấy. Tôi muốn có ngay bây giờ!”
Bell rút lui. Rhyme nói với Ben: “Cái giá đó? Kia kìa?”
Nhà động vật học nặng nề đi về phía chiếc bàn bên trên có để một cái giá dài cắm các ống nghiệm
“Nó là thiết bị thử tỷ trọng. Nó sẽ xác định thành phần của những loại vật chất như đất cát chẳng hạn.”
Ben gật đầu. “Tôi đã nghe nói tới. Nhưng chưa bao giờ sử dụng cả.”
“Dễ dàng thôi. Những cái chai đằng kia…” Rhyme nhìn về phía hai cái chai thủy tinh thẫm màu. Một dán nhãn tetra, một dán nhãn ethanol. “Cậu sẽ pha hai thứ đó như tôi bảo và đổ gần đầy vào các ống nghiệm.”
“Được. Để làm gì ạ?”
“Bắt đầu pha đi. Xong xuôi rồi tôi sẽ cho cậu biết.”
Ben pha hai thứ hóa chất theo hướng dẫn của Rhyme, rồi đổ xen kẽ - ethanol và tetrabromoethane, hai thứ chất lỏng có màu khác nhau – vào hai mươi ống nghiệm.
“Đổ một ít đất lấy từ giày Garrett vào ống nghiệm bên tay trái. Chỗ đất ấy sẽ phân tách ra và chúng ta sẽ có các thành phần tạo nên nó. Chúng ta sẽ lấy mẫu đất từ những nhân viên làm việc tại đây, những người sống ở những khu vực khác nhau trong quận. Nếu bất cứ một mẫu nào phù hợp với mẫu từ giày của Garrett thì nghĩa là giày hắn có thể đã mang theo đất xung quanh đấy.”
Ben xuất hiện cùng với những nhân viên đầu tiên và Rhyme giải thích việc anh sắp sửa làm. Viên cảnh sát trưởng nở nụ cười ngưỡng mộ. “Một ý tưởng tuyệt vời, Lincoln. Ông anh họ Roland biết anh ấy đang làm gì khi anh ấy cất lời ca ngợi sếp.”
Nhưng nửa tiếng đồng hồ mất cho sáng kiến này thật vô ích. Không mẫu đất nào từ giày của những nhân viên làm việc tại đây phù hợp với mẫu đất từ giày của Garrett. Rhyme cau có nhìn mẫu đất cuối cùng từ số nhân viên được bỏ vào ống nghiệm.
“Mẹ kiếp.”
“Dù sao cũng là một việc rất đáng thử”, Bell nói.
Một sự lãng phí quỹ thời gian quý báu thì có.
“Tôi đổ các mẫu đất đi nhé?”, Ben hỏi
“Không. Không bao giờ được vứt các mẫu xét nghiệm đi mà không ghi chép lại gì”, Rhyme nói dứt khoát. Rồi sực nhớ ra rằng mình không nên gay gắt quá, cái anh chàng to lớn này ở đây chỉ vì những mối quan hệ họ hàng. “Thom, giúp đỡ chúng tôi nào. Sachs đã đề nghị mượn một chiếc máy chụp ảnh lấy ngay từ cảnh sát bang. Nó phải ở chỗ nào đó trong đây rồi. Đi xem nó đang ở chỗ nào, chụp cận cảnh tất cả các ống nghiệm. Ghi tên từng nhân viên đằng sau mỗi tấm hình.”
Anh chàng phụ tá tìm thấy chiếc máy ảnh và bắt tay vào việc.
“Bây giờ, chúng ta hãy phân tích những gì Sachs phát hiện được tại nhà cha mẹ nuôi của Garrett. Chiếc quần trong cái túi kia – xem có gì trong phần gấu lơ – vê không”.
Ben thận trọng mở cái túi nhựa và kiểm tra chiếc quần. “Thưa có, một ít lá thông”
“Tốt. Chúng rụng khỏi cành hay bị cắt?”
“Bị cắt, trông có vẻ như vậy”
“Tuyệt vời. Nghĩa là hắn đã làm gì đó với chúng. Hắn chủ ý cắt chúng ra. Và mục đích của việc đó có thể liên quan đến vụ án. Chúng ta chưa biết mục đích ấy là gì, nhưng theo tôi phỏng đoán thì là để ngụy trang.”
“Tôi ngửi thấy mùi chồn hôi”, Ben nói, hít hít chiếc quần.
“Đó là thông tin Sachs đã cung cấp. Tuy nhiên, nó không hữu ích gì cho chúng ta. Dù sao thì cũng chưa hữu ích.”
“Tại sao?”, nhà động vật học hỏi.
“Vì không cách nào liên hệ được một loài động vật hoang dã với một địa điểm cụ thể. Một con chồn hôi ở nguyên một chỗ thì hữu ích, chứ một con chồn hôi có thể di chuyển thì chẳng giải quyết được vấn đề gì. Chúng ta hãy xem xét các dấu vết còn lưu lại trên chiếc quần. Cắt lấy vài mảnh từ chiếc quần và đưa qua máy tách hợp chất.”
Trong lúc chờ đợi kết quả, Rhyme kiểm tra nốt số vật chứng thu thập được tại phòng gã trai. “Cho tôi xem cuốn vở, Thom”. Anh chàng phụ tá giở một lượt các trang. Chỉ toàn là các hình vẽ côn trùng xấu xí. Rhyme lắc đầu. Chẳng có gì hữu ích cả.
“Còn những cuốn sách kia?” Rhyme hất đầu chỉ bốn cuốn sách bìa cứng Sachs tìm thấy tại phòng gã trai. Một cuốn – cuốn Thế giới thu nhỏ - đã được đọc thường xuyên tới mức các trang bung hết ra. Rhyme để ý những đoạn khoanh tròn hoặc gạch chân hoặc đánh dấu sao. Nhưng không đoạn nào cung cấp manh mối về những nơi gã trai có thể đã từng đến. Chúng dường như chỉ mô tả về các loài côn trùng. Anh bảo Thom bỏ mấy cuốn sách sang bên.
Rồi Rhyme xem xét những thứ Garrett giấu trong cái lọ đựng ong bắp cày: tiền, ảnh chụp Mary Beth, ảnh chụp gia đình gã trai. Chiếc chìa khóa cũ. Cuộn dây câu.
Chỗ tiền mặt chỉ là một nắm nhàu nhĩ những tờ năm và mười đô la, cùng với vài đồng tiền xu. Rhyme nhận thấy không có các thông tin hữu ích được ghi ở mép những tờ tiền (nhiều kẻ tội phạm hay sử dụng mép những tờ tiền làm chỗ ghi lời nhắn hoặc kế hoạch hành động – và cách nhanh chóng để rũ bỏ những lời nhắn mang tính cáo buộc như vậy từ đồng bọn là mua thứ gì đó, quẳng những lời nhắn ấy vào cái lỗ đen của quá trình lưu thông tiền tệ). Rhyme bảo Ben chiếu đèn PoliLight – thiết bị có những mức ánh sáng thay đổi – lên từng đồng tiền, và phát hiện ra rằng cả tiền giấy lẫn tiền xu có dễ đến trăm dấu vân tay không trọn vẹn, quá nhiều nên chẳng cung cấp được manh mối hữu ích nào cả. Không có nhãn giá trên chiếc khung ảnh và cuộn dây câu, bởi vậy không có cách gì lần tìm những cửa hiệu mà Garrett có thể hay tới.
“Dây câu cân rưỡi”. Rhyme vừa nhìn cuộn dây vừa nhận xét. “Cỡ đó để câu cá nhỏ, phải không Ben?”
“Cỡ đó bắt một con cá vền[21], cũng chưa chắc được, thưa ông”
Kết quả về các dấu vết ở chiếc quần của gã trai nhấp nháy trên màn hình máy vi tính. Rhyme đọc to: “Dầu hỏa, lại ammonia, lại nitrate, và lại cái chất camphene kia. Thom, làm ơn lập một bảng khác.”
Rhyme đọc.
TÌM THẤY TẠI HỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp Mary Beth
Ảnh chụp gia đình
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphene
Rhyme nhìn chằm chằm hai bảng chứng cứ. Cuối cùng, anh nói: “Thom, gọi điện đi. Gọi cho Mel Cooper.”
Anh chàng phụ tá nhấc máy điện thoại, quay những con số đã thuộc lòng.
Cooper, người hợp tác với các nhân viên khám nghiệm của Sở Cảnh sát New York, có lẽ nặng bằng nửa Ben. Anh ta trông giống một nhân viên định phí bảo hiểm rụt rè, còn thực tế là một trong những chuyên gia la-bô khám nghiệm hàng đầu cả nước.
“Cậu mở loa ngoài cho tôi nghe được không, Thom?”
Anh chàng phụ tá nhấn một cái nút và lát sau giọng nam cao nhẹ nhàng của Cooper cất lên. “Chào anh, Lincoln. Tôi được biết là giờ anh không ở bệnh viện.”
“Làm sao anh biết, Mel?”
“Chẳng cần suy diễn lắm đâu. Điện thoại tôi hiện danh tính người gọi là Trụ sở Chính quyền quận Paquenoke. Anh hoãn phẫu thuật à?”
“Không. Chỉ là đang giúp giải quyết một vụ án ở đây thôi. Nghe này, Mel, tôi không có nhiều thời gian và tôi cần thông tin về một chất tên là camphene. Anh đã bao giờ biết tới nó chưa?”
“Chưa. Nhưng đợi đã. Tôi sẽ kiểm tra cơ sở dữ liệu.”
Rhyme nghe thấy tiếng gõ bàn phím liên hồi. Cooper cũng là tay gõ bàn phím nhanh nhất mà Rhyme từng gặp.
“Được rồi, chúng ta có đây…. Rất thú vị…”
“Tôi không cần cái sự thú vị, Mel. Tôi cần thông tin chính xác.”
“Nó là một loại terpene – hợp chất carbon và hydrogen. Có nguồn gốc thực vật. Nó từng được sử dụng làm thành phần của thuốc trừ sâu nhưng đã bị cấm từ đầu thập kỷ tám mươi. Thời gian nó được sử dụng phổ biến là cuối những năm 1800. Nó được sử dụng để thắp đèn. Một công nghệ tiên tiến vào thời gian đó – thay cho mỡ cá voi. Hồi ấy, nó được coi như khí ga thiên nhiên. Anh đang lần theo dấu vết một đối tượng chưa xác định được danh tính à?”
“Hắn không phải một đối tượng chưa xác định được danh tính, Mel. Danh tính của hắn đã hết sức rõ ràng. Chỉ là chúng tôi chưa thể tìm thấy hắn. Những chiếc đèn cũ kỹ? Vậy dấu vết của camphene có khả năng chỉ ra rằng hắn đang ẩn náu tại địa điểm nào đấy xây dựng từ thế kỷ XIX.”
“Có khả năng. Nhưng cũng có khả năng khác. Vì anh nên biết ngày nay camphene chỉ có ứng dụng duy nhất trong công nghệ chế tạo các chất thơm.”
“Loại nào?”
“Chủ yếu là nước hoa, nước thơm xoa mặt sau khi cạo râu và mỹ phẩm.”
Rhyme cân nhắc điều này. “Tỷ lệ camphene trong các chất thành phẩm là bao nhiêu?”, anh hỏi.
“Chỉ là những lượng cực kỳ nhỏ. Tính theo phần nghìn.”
Rhyme vẫn luôn luôn bảo các nhóm khám nghiệm của mình đừng bao giờ sợ đưa ra những sự suy diễn táo bạo trong phân tích chứng cứ. Tuy nhiên, anh cũng đau đớn ý thức được khoảng thời gian ngắn ngủi mà hai cô gái kia có thể còn tồn tại trên đời này, và anh cảm thấy hiện họ chỉ vừa đủ nhân lực, vật lực để lần theo một trong hai đầu mối ấy thôi.
“Chúng ta sẽ phải chọn khả năng này”, Rhyme tuyên bố. “Chúng ta sẽ đặt giả thiết rằng dấu vết camphene là từ những chiếc đèn lồng cũ kỹ, loại bỏ khả năng từ các chất thơm, và theo đó mà hành động. Bây giờ, nghe này, Mel, tôi cũng sẽ gửi cho anh ảnh chụp một chiếc chìa khóa. Tôi cần anh lần tìm nguồn gốc của nó.”
“Đơn giản. Khóa xe hơi à?”
“Tôi không biết.”
“Khóa nhà?”
“Không biết.”
“Gần đây vẫn dùng?”
“Không manh mối.”
Cooper nói đầy vẻ hoài nghi: “Có lẽ không đơn giản như tôi tưởng. Nhưng cứ gửi cho tôi, tôi sẽ làm những gì có thể.”
Khi cuộc điện thoại kết thúc, Rhyme yêu cầu Ben chụp cả hai mặt chìa khóa và fax cho Cooper. Rồi anh thử liên lạc với Sachs bằng bộ đàm. Bộ đàm không hoạt động. Anh gọi vào máy di động của cô.
“A lô?”
“Sachs, anh đây.”
“Bộ đàm sao thế?”, cô hỏi.
“Không có sóng.”
“Bọn em nên đi theo hướng nào, Rhyme? Bọn em đã sang bên kia sông nhưng bị mất dấu vết. Và, nói thật…”, giọng Sachs hạ xuống thành thì thầm. “Mấy người ở đây không bình tĩnh. Lucy đang muốn ăn thịt em.”
“Anh đã thực hiện những phân tích cơ bản, nhưng anh chẳng biết làm gì với tất cả các dữ liệu này – anh đang đợi ông chủ nhà máy ở Bến tàu kênh Nước đen. Henry Davett. Chưa biết ông ta tới lúc nào. Nhưng nghe này, Sachs, còn một việc nữa anh phải nói với em. Anh phát hiện ra dấu vết rất đáng kể của ammonia và nitrate trên quần Garrett và trong chiếc giày hắn đánh rơi.”
“Bom à?”, Sachs hỏi, cái giọng âm vang của cô bộc lộ nỗi choáng váng.
“Có vẻ như vậy. Và cuộn dây câu em tìm thấy quá mảnh để tính chuyện câu kéo nghiêm chỉnh. Anh nghĩ hắn sử dụng nó làm dây bẫy kích nổ. Lát nữa đi từ từ thôi. Quan sát xem có bẫy không. Nếu em trông thấy cái gì đó giống như là một manh mối, hãy đề phòng bị lừa.”
“Em sẽ chú ý, Rhyme.”
“Ở nguyên đấy. Hy vọng tôi sớm có chỉ dẫn cho các vị.”
Garrett và Lydia đi thêm được ba hay bốn dặm nữa.
Mặt trời lúc này đã lên cao. Có lẽ đã trưa, hoặc gần trưa, nóng như trong lò. Ít nước đóng chai mà Lydia uống ở chỗ mỏ đá nhanh chóng chuyển thành mồ hôi và cô lả đi vì nóng và khát.
Như thể cảm nhận được điều này, Garrett nói: “Chúng ta sắp sửa tới đấy rồi. Tới đấy sẽ mát hơn. Và tao đã chuẩn bị nhiều nước.”
Mặt đất trải ra ở đây. Những cánh rừng cây cối gãy đổ, những đầm lầy. Không nhà cửa, không đường sá. Nhiều lối mòn cũ kỹ tỏa theo nhiều hướng khác nhau. Những người đang tìm kiếm họ sẽ hầu như không tài nào xác định được lối họ đã đi – những lối mòn chằng chịt tựa mê cung vậy.
Garret hất đầu chỉ một trong những lối mòn hẹp này, bên trái là các tảng đá, bên phải là cái dốc cao hai mươi feet. Họ đi chừng nửa dặm dọc theo lối mòn này, rồi gã dừng lại. Gã ngoái nhìn đằng sau.
Có vẻ hài lòng vì không thấy ai ở gần, Garrett bước vào trong đám cây bụi và trở ra với một sợi dây nilon – trông giống như loại dây câu mảnh – gã đem chăng ngang lối mòn, gần sát mặt đất. Hầu như không thể phát hiện được. Gã buộc sợi dây vào một chiếc gậy, chiếc gậy này đỡ một cái chai thủy tinh cỡ ba hay bốn gallon đựng đầy thứ chất lỏng màu sữa. Có chút chất cặn bám trên thành chai và Lydia ngửi thấy một mùi thoang thoảng – mùi ammonia. Cô khiếp sợ. Một quả bom ư? Cô băn khoăn tự hỏi. Là y tá trực phòng cấp cứu, cô từng xử lý vài trường hợp thiếu niên bị thương do mày mò chế tạo các thiết bị phát nổ. Cô nhớ da thịt bị cháy đen của chúng đã nát bươm ra như thế nào.
“Cậu không thể làm vậy”, Lydia thì thào.
“Tao chẳng muốn nghe những lời vô nghĩa của mày”. Gã trai búng ngón tay. “Tao sẽ thu xếp xong các thứ ở đây, rồi chúng ta về nhà.”
Nhà?
Lydia đứng chết lặng, nhìn chằm chằm vào cái chai lớn mà Garrett phủ lên bằng cành cây.
Garrett lại kéo cô đi xuôi theo lối mòn đó. Mặc dù ngày mỗi lúc một nóng hơn, gã di chuyển nhanh hơn và cô phải khó khăn lắm mới theo kịp cái thằng người mỗi lúc một bẩn thỉu hơn, dính đầy bụi và những mảnh lá mục. Như thể chính bản thân gã đang từ từ biến thành một con côn trùng với mỗi bước rời xa hơn nền văn minh. Nó gợi cho cô nhớ tới câu chuyện nào đó cô từng được yêu cầu đọc hồi đi học mà chưa bao giờ cô đọc hết.
“Lên trên kia”, Garrett hất đầu về phía một ngọn đồi. “Trên đó có chỗ cho chúng ta nghỉ lại. Sẽ tiếp tục đi ra biển vào sáng mai.”
Bộ đồng phục Lydia mặc ướt sũng mồ hồi. Hai khuy áo trên cùng bật ra và màu trắng chiếc áo lót lồ lộ. Gã trai liên tục nhìn vầng ngực tròn của cô gái. Nhưng cô hầu như chẳng quan tâm. Lúc này, cô chỉ muốn trốn thoát bầu không khí ngoài trời, chui vào một bóng râm mát mẻ nào đất, bất cứ chỗ nào gã sẽ đưa cô tới.
Mười lăm phút sau, họ vượt qua khu rừng và đi vào một bãi đất trống. Trước mặt họ xuất hiện một cái cối xay cũ, xung quanh mọc đầy sậy, hương bồ, cỏ cao. Nó nằm bên cạnh một dòng suối mà phần nhiều đã bị đầm lầy lấn sang. Một cánh cối xay cháy rụi. Giữa đống gạch vụn vươn lên một cái ống khói cháy sém – được gọi là “Đài kỷ niệm Tướng Sherman”, gọi theo tên vị tướng phe Liên bang, người đã đốt hết nhà cửa làng mạc trong lúc hành quân ra biển, bỏ lại một vùng toàn những ống khói cháy đen đằng sau.
Garrett dẫn Lydia vào khu vực phía trước của cối xay, khu vực không bị lửa liếm tới. Gã đẩy cô qua khung cửa và kéo cánh cửa bằng gỗ sồi nặng đóng sập lại, cài then. Gã đứng nghe ngóng hồi lâu. Sau khi xem chừng đã hài lòng vì không có ai bám theo, gã đưa cho cô một chai nước nữa. Cô phải chiến đấu với niềm thôi thúc muốn dốc ngược chai nước uống một mạch. Cô hớp một hớp đầy, chưa nuốt ngay, mà cảm nhận được cái buốt tê trong khoang miệng khô khốc, rồi mới chậm rãi nuốt xuống
Khi Lydia uống xong, Garrett lấy cái chai, cởi trói cho cô, rồi lại trói quặt hai tay cô ra đằng sau. “Cậu phải làm như thế sao?”, cô tức giận hỏi.
Gã trai đảo mắt trước câu hỏi ngớ ngẩn. Gã đẩy cô ngồi xuống sàn. “Ngồi đây và ngậm cái mồm chết tiệt của mày lại.” Garrett ngồi dựa vào bức tường đối diện, khép mắt. Lydia vươn đầu về phía cửa sổ, nghe ngóng xem có tiếng máy bay trực thăng hay tiếng những con thuyền đi trên đầm lầy hay tiếng sủa của bầy chó chuyên tìm kiếm cứu nạn không. Nhưng cô chỉ nghe thấy tiếng thở của Garrett, mà cô kết luận trong nỗi tuyệt vọng rằng đó thực sự là tiếng Chúa bỏ rơi cô.

Chú Thích:

[18] Hansel và Gretel: hai nhân vật trong truyện cổ Grimm, là hai anh em con một người tiều phu nghèo bị mẹ kế đuổi vào rừng. Hai anh em đã rải những mẩu vụn bánh mì trên đường đi để đánh dấu đường về.
[19] Một loại gỗ nhẹ dùng làm hình mẫu, bè…
[20] Restriction Fragment Length Polymorphism: kỹ thuật đa hình chiều dài đoạn cắt giới hạn
[21] Nguyên văn là “bluegill”.