Thứ Năm
CHƯƠNG 26

     nh ấy phản ứng thế nào?” Lily Hawken hỏi chồng cô, Donald.
“James à? Anh ấy không nói gì nhiều, nhưng hẳn việc này phải rất nặng nề với anh ấy. Cả với Patrizia nữa, anh tin chắc vậy.”
Cả hai đang trong căn phòng riêng của ngôi nhà mới họ vừa sở hữu ở Monterey.
Dỡ đồ, dỡ đồ, rồi lại dỡ đồ...
Người phụ nữ tóc vàng nhỏ nhắn đứng giữa phòng, hai chân hơi dạng ra, nhìn xuống hai túi nilon đựng rèm cửa. “Anh nghĩ thế nào?”
Hawken lúc này đã có phần kiệt sức và không còn tâm trí đâu để bận tâm tới việc chăm lo cho các cửa sổ, song người vợ từ chín tháng và ba ngày nay của ông đã đảm nhận một phần quan trọng gánh nặng của việc chuyển nhà từ San Diego về đây, vậy là ông đặt mấy món dụng cụ đang dùng để lắp bàn cà phê xuống, nhìn từ tấm rèm màu đỏ sang tấm màu nâu sắt rồi ngược lại.
“Tấm bên trái,” ông chuẩn bị sẵn sàng để rút lui ngay nếu đó là câu trả lời sai.
Nhưng có vẻ đáp án là chính xác. “Em cũng đang nghiêng về lựa chọn này,” người vợ nói. “Cảnh sát đã cho người tới cảnh giới ở nhà anh ấy phải không? Họ nghĩ cậu thiếu niên sắp sửa tấn công anh ấy à?”
Hawken quay lại với việc lắp bàn. Ikea[1]. Khỉ thật, bọn họ có những nhà thiết kế thật thông minh. “Anh ấy không nghĩ thế. Nhưng em biết Jim rồi đấy. Dù có nghĩ vậy, anh ấy cũng không phải loại người cắm đầu chạy trốn.”
[1. Ingvar Kamprad Elmtaryd Agunnaryd: Tập đoàn Thụy Điển  chuyên sản xuất đồ nội thất.]
Sau đó ông chợt nhớ Lily không thực sự biết gì nhiều về James Chilton. Cô vẫn chưa bao giờ gặp người đàn ông này. Cô chỉ có khái niệm về Chilton qua những gì chồng kể cho mình.
Cũng giống như việc ông biết rất nhiều khía cạnh về cuộc đời cô từ các buổi trò chuyện, những dấu hiệu và suy đoán. Cuộc đời là vậy trong những hoàn cảnh như thế này - cuộc hôn nhân thứ hai cho cả hai người; nó giúp ông thoát ra khỏi một thời kỳ tang tóc, còn với Lily là hồi phục sau một cuộc ly hôn đầy gian truân. Rất cảnh giác lúc khởi đầu, nhưng rồi họ đã nhận ra hầu như đồng thời rằng cả hai thiếu thốn sự gần gũi và tình cảm đến mức nào. Hawken, một người đàn ông từng không tin lúc nào đó sẽ có thể tái hôn, đã cầu hôn sau sáu tháng - tại quầy bar bãi biển lạo xạo cát nằm trên tầng áp mái khách sạn W[2] ở trung tâm San Diego, vì ông không thể đợi để tìm ra một khung cảnh thích hợp hơn.
[2. Chuỗi khách sạn hạng sang thuộc sỡ hữu của Starwood Hotels & Resorts Worldwide.]
Dẫu vậy, Lily đã mô tả sự kiện này như điều lãng mạn nhất cô có thể nghĩ đến. Chiếc nhẫn kim cương lớn buộc vào một dải ruy băng trắng quàng trên cổ chai Anchor Steam[3] đã tỏ ra rất hữu ích.
[3. Một loại bia của công ty Anchor Brewing.]
Và giờ đây cả hai đang bắt đầu một cuộc sống mới khi trở lại Monterey.
Donald Hawken ngẫm nghĩ về cuộc sống hiện tại của mình và đi đến kết luận ông đang hạnh phúc. Hạnh phúc như một chàng trai trẻ. Bạn bè đã nói với ông rằng một cuộc hôn nhân thứ hai sẽ rất khác biệt. Là một người góa vợ, ông hẳn đã thay đổi một cách căn bản. Ông sẽ không còn có thể cảm nhận thứ cảm xúc tươi trẻ như thời sung sức thấm vào từng tế bào trong cơ thể mình, sẽ có tâm tình gần gũi, có những khoảnh khắc đầy đam mê. Nhưng mối quan hệ về cơ bản sẽ là tình bạn.
Sai bét.
Nó vượt lên trên cả mọi khát khao và cuồng nhiệt.
Ông đã có một cuộc hôn nhân nồng nàn, đam mê với nàng Sarah đầy gợi cảm và xinh đẹp, một phụ nữ người ta có thể yêu say đắm như Hawken đã từng yêu.
Song tình yêu ông dành cho Lily cũng mạnh mẽ như thế.
Và, phải, cuối cùng ông cũng đi tới chỗ thừa nhận rằng chuyện ái ân có phần tốt hơn với Lily – theo nghĩa thoải mái hơn. Trên giường trước đây Sarah quả là, phải, đáng gờm, nếu nói một cách giảm nhẹ. Lúc này Hawken gần như mỉm cười trước những hồi ức đó.
Ông tự hỏi Lily cảm thấy thế nào về Jim và Pat Chilton. Hawken đã kể cho cô biết họ và ông từng là bạn thân thiết đến mức nào, hai cặp vợ chồng lúc trước thường xuyên tụ họp với nhau. Cùng tham dự các sự kiện tại trường học và những trận đấu thể thao của bọn trẻ, ăn tối, tiệc dã ngoại… Ông để ý thấy nụ cười của Lily trở nên hơi khang khác khi nghe kể về quá khứ này. Ông đã trấn an cô rằng, trong một khía cạnh nào đó, Jim Chilton cũng là người xa lạ với cả ông nữa. Hawken đã đau khổ đến tuyệt vọng sau cái chết của Sarah tới mức ông đã ngừng liên lạc với hầu hết tất cả bạn bè.
Nhưng giờ ông đang trở lại với cuộc sống. Ông và Lily sẽ kết thúc việc chỉnh trang cho ngôi nhà trong tình trạng hoàn toàn sẵn sàng, sau đó đi đón bọn trẻ, hiện đang ở tạm với ông bà chúng tại Encinitas. Rồi đây cuộc đời ông sẽ êm đềm trở lại theo nhịp sống vui tươi của khu Bán đảo Monterey, nơi ông vẫn còn nhớ từ những năm trước. Ông đã nối lại liên hệ với người bạn thân nhất, Jim Chilton, quay về câu lạc bộ đồng quê, gặp gỡ các bạn cũ.
Phải, đây là một bước đi đúng đắn. Nhưng một đám mây đen đã xuất hiện. Nhỏ thôi, và tạm thời, ông chắc vậy, song dẫu sao vẫn là một bóng đen.
Khi quay lại nơi từng là ngôi nhà của mình và Sarah, dường như ông đã làm sống lại một phần của cô ấy. Những ký ức bùng lên như một màn pháo hoa:
Tại đây, ở Monterey, Sarah từng là một bà chủ nhà chu đáo, nhà sưu tập mỹ thuật đầy đam mê, nữ doanh nhân khôn ngoan.
Tại đây, Sarah từng là người tình nóng bỏng, nhiệt tình và đầy khao khát.
Tại đây, Sarah từng táo bạo diện bộ đồ ướt đẫm và bơi dưới đại dương cồn sóng, bước lên bờ, lạnh cóng nhưng hồ hởi - không giống như lần bơi cuối cùng của cô gần La Jolla, không còn bước lên khỏi mặt nước nữa, mà dạt vào bờ, bất động, mắt mở to và không nhìn thấy được gì, làn da có nhiệt độ bằng đúng nhiệt độ của nước.
Nghĩ tới đây, trái tim Hawken đập rộn thêm một hai nhịp nữa.
Ông hít sâu thêm vài lần và gạt ký ức sang bên. “Muốn giúp một tay chứ?” ông đưa mắt về phía Lily và mấy cái rèm cửa.
Vợ ông dừng lại, sau đó để những thứ đang làm dở xuống. Cô bước lại gần, nắm lấy bàn tay ông và áp nó lên mảng da thịt hình chữ V dưới cổ. Cô hôn ông thật mạnh.
Hai người mỉm cười với nhau, rồi vợ ông quay trở lại phía mấy khung cửa sổ.
Hawken lắp xong xuôi chiếc bàn mặt kính khung mạ crôm và kéo nó ra trước sô pha.
“Anh yêu?” cuộn thước dây bị buông rơi xuống trong bàn tay Lily và cô đang nhìn ra ngoài cửa sổ đằng sau.
“Gì cơ?”
“Em nghĩ có ai đó ngoài kia.”
“Ở đâu cơ, ngoài sân sau à?”
“Em không biết liệu chỗ đó có thuộc sở hữu của chúng ta hay không. Ở bên kia hàng rào.”
“Thế thì chắc chắn đó là sân nhà người khác rồi.”
Những đồng đô la cũng không mua được cho bạn nhiều đất ở vùng bờ biển Trung California này.
“Người đó chỉ đứng ngoài kia, nhìn chằm chằm vào nhà mình.”
“Có lẽ họ đang băn khoăn tự hỏi xem có phải một ban nhạc rock-and-roll hay mấy tay nghiện đang chuyển tới hay không.”
Lily bước xuống một bậc thang. “Chỉ đứng đó thôi,” cô lặp lại. “Em không biết nữa, anh yêu, chuyện này có vẻ kỳ lạ.”
Hawken bước tới bên cửa sổ và nhìn ra ngoài. Từ góc nhìn của mình, ông không thấy được gì nhiều, song rõ ràng có một bóng người đang ngó sang qua những bụi cây. Người này mặc một chiếc áo nỉ màu xám có mũ trùm đầu được kéo lên.
“Có thể là con cái nhà hàng xóm. Bọn trẻ luôn tò mò về những người mới chuyển đến. Có lẽ nó muốn biết liệu chúng mình có con cùng độ tuổi hay không. Anh cũng từng như thế.”
Lily không nói gì. Ông có thể cảm nhận được tâm trạng bất an ấy, trong khi cô đứng đó với phần eo thon thả hếch lên, đôi mắt nheo lại, viền quanh là mái tóc vàng lấm tấm bụi từ việc di chuyển những thùng các tông.
Đã đến lúc vào vai hiệp sĩ.
Hawken bước vào bếp và mở cửa sau ra. Vị khách nọ đã biến mất.
Ông di chuyển ra xa hơn, rồi nghe thấy tiếng vợ gọi. “Anh yêu!”
Giật mình, Hawken quay lại và bước vào trong nhà.
Lily, vẫn đứng trên thang, đang chỉ tay qua một ô cửa sổ khác. Vị khách đã di chuyển sang phía sân bên hông nhà - bây giờ thì rõ ràng là trên phần đất của họ, cho dù vẫn bị lấp sau những lùm cây.
“Khỉ thật. Ai vậy mới được chứ?”
Hawken liếc mắt về phía điện thoại song quyết định không gọi 911. Sẽ thế nào nếu đó là hàng xóm hay con trai ông ta? Làm thế nhiều khả năng sẽ hủy hoại hết mọi cơ hội gây dựng một tình bạn.
Khi ông liếc mắt nhìn lại, bóng người đã biến mất.
Lily xuống khỏi thang. “Anh ta đi đâu rồi? Cứ như biến mất vậy. Thật nhanh.”
“Không biết nữa.”
Hai người cùng nhìn qua cửa sổ, tìm kiếm.
Không thấy bóng dáng kẻ lạ mặt đâu.
Tình trạng này còn đáng ngại hơn, khi không nhìn thấy đối tượng.
“Anh nghĩ chúng ta nên…”
Giọng nói của Hawken bị cắt ngang với một tiếng kêu thảng thốt trong lúc Lily thét lên, “Một khẩu súng - hắn có một khẩu súng, Don!” Cô đang nhìn chằm chằm qua một ô cửa sổ đằng trước.
Chồng cô chộp lấy điện thoại của ông, đồng thời gọi vợ, “Cái cửa! Khóa cửa vào.”
Lily lao đi.
Nhưng không còn kịp nữa.
Cánh cửa đã mở tung ra thật rộng.
Lily kêu thét lên và Don Hawken nhanh tay kéo cô xuống sàn bên dưới ông, một cử chỉ cao cả nhưng, ông hiểu rõ, vô ích để cứu tính mạng người vợ của mình.

Truyện Cây thập tự ven đường Giới thiệu CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 ải làm vậy. Các thi thể có thể chứa thứ gì đó có giá trị. Và nếu cô đánh bại đối thủ, cô đương nhiên có quyền đó.”
Nếu đây là những giá trị Travis học được trong thế giới ảo, quả là kỳ diệu khi cậu ta đã không bùng phát sớm hơn.
Người đặc vụ không khỏi băn khoăn: Hiện giờ cậu ta đang ở đâu trong thế giới thực? Ở một cửa hàng Starbucks có kết nối Wifi, đội mũ trùm kín đầu và đeo kính mát để không bị nhận ra? Cách nơi này mười dặm? Hay chỉ một?
Cậu ta không có mặt ở Game Shed. Cô biết thế. Sau khi hay tin cậu thiếu niên từng dành thời gian tại đó, Dance đã cho theo dõi địa điểm này.
Trong lúc cô quan sát, nhân vật của Travis giao chiến và dễ dàng giết chết rất nhiều đối thủ nữa - phụ nữ, đàn ông và động vật - Dance nhận ra cô đang vô thức khởi động các kỹ năng của mình với tư cách chuyên gia ngôn ngữ cơ thể.
Tất nhiên, cô biết phần mềm đang kiểm soát cử động và tư thế của nhân vật. Dẫu vậy, cô vẫn thấy nhân vật của cậu ta di chuyển một cách uyển chuyển và kiêu hãnh hơn phần lớn các nhân vật khác. Khi chiến đấu, cậu ta không ra đòn một cách ngẫu nhiên như một số người. Cậu ta dành thời gian rình rập, lui lại một chút rồi sau đó tấn công khi đối thủ bị mất phương hướng. Thêm vài nhát chém hay nhát đâm nữa – và đối thủ chết hẳn. Cậu ta luôn cảnh giác, luôn quan sát xung quanh.
Có thể đây là một dấu hiệu về chiến lược trong cuộc sống của cậu thiếu niên. Lên kế hoạch tấn công thật cẩn thận, tìm hiểu tất cả những gì có thể về nạn nhân, và tấn công thật chớp nhoáng.
Phân tích ngôn ngữ cơ thể của một nhân vật trong trò chơi điện tử, quả là một cuộc điều tra kỳ lạ.
“Tôi muốn nói chuyện với cậu ta.”
“Với Travis ư? Ý tôi là với Stryker?”
“Phải. Hãy lại gần hơn.”
Boling do dự. “Tôi không biết rõ lắm các lệnh điều khiển. Nhưng tôi nghĩ tôi có thể di chuyển được.”
“Bắt đầu đi.”
Dùng các phím tắt, Boling hướng Greenleaf lại gần hơn chỗ Stryker đang cúi xuống thi thể sinh vật vừa bị cậu ta giết để thu chiến lợi phẩm.
Ngay khi cô vào gần tới cự ly tấn công, Stryker cảm thấy nhân vật của Dance tiếp cận mình và đứng dậy, một tay cầm kiếm, trên tay kia là một tấm khiên cầu kỳ. Đôi mắt Stryker đang nhìn chằm chằm ra ngoài màn hình.
Đôi mắt cũng tối đen như của con quỷ Qetzal.
“Tôi cần làm thế nào để gửi tin nhắn đi?”
Boling bấm vào một nút phía dưới cùng màn hình, và một hộp thoại mở ra. “Bây giờ cũng giống như bất kỳ tin nhắn tức thời nào khác. Gõ lời nhắn của cô rồi bấm ‘Enter’. Hãy nhớ sử dụng chữ viết tắt và ngôn ngữ teen nếu cô có thể. Cách dễ nhất để làm là thay số 3 cho chữ e và 4 cho a.”
Dance hít một hơi thật sâu. Hai bàn tay cô run run trong khi nhìn vào khuôn mặt đồ họa của kẻ sát nhân.
“Stryker, c4u gj0j qu4”, những từ này hiện lên trong một ô thoại hình quả bóng lơ lửng trên đầu Greenleaf trong khi nhân vật này lại gần.
“M4y l4 4i?” Stryker đứng lại, nắm lấy một thanh kiếm.
“Tuj chj l4 m0t t4y k3m c0i thoy”.
Boling nói với cô, “Không tệ, nhưng hãy quên ngữ pháp và dấu đi. Không viết hoa đúng quy tắc, không chấm phẩy. Các dấu chấm hỏi thì được.”
Dance tiếp tục, “th4y u đ4nh roy, u gjoj l3m.”
“Hoàn hảo,” Boling thì thầm.
“may thu0c vu0ng qu0k n4o?”
“Ý cậu ta là gì vậy?” Dance hỏi, không khỏi cảm thấy hơi hốt hoảng.
“Tôi nghĩ cậu ta đang hỏi cô đến từ vương quốc hay lãnh địa nào. Có đến hàng trăm. Tôi không biết bất cứ vương quốc hay lãnh địa nào trong trò chơi này. Hãy bảo cậu ta cô là một newbie”, anh đánh vần từ này. “Nghĩa là một người mới tập chơi nhưng muốn học hỏi.”
“chj l4 newbie, ch0j ch0 vuj thoy, nghj l4j u c0 th3 d4y.”
Tiếp theo là một khoảng ngừng.
“y m4y n0j m4y l4 m0t đu4 th4m h4j”
“Thế có nghĩa là gì?” Dance hỏi.
“Newbie chỉ đơn giản là người mới chơi. Một tay ‘thảm hại’ là một kẻ thất bại, một người tự cao tự đại và kém cỏi. Đó là một lời sỉ nhục. Travis đã bị gọi là đồ thảm hại rất nhiều lần trên mạng. LOL với cậu ta nhưng nói rằng cô không phải vậy. Cô thực sự muốn học hỏi từ cậu ấy.”
“lol, but 0 ph4j, t0j mun h0k.”
“M4y c0 ng0n 0?”
Dance hỏi Boling, “Có phải cậu ta đang tới chỗ tôi không?”
“Tôi không biết. Đây là một câu hỏi thật lạ trong hoàn cảnh này.”
Những Cây thập tự ven đường và đọc những bài bình luận mới nhất – cũng có vẻ là cuối cùng. Cho dù một số người dường như đã đăng bài từ nước ngoài, thêm một lần nữa cô không khỏi băn khoăn liệu chúng có chứa đựng đầu mối nào đó hữu ích để có thể tìm ra Travis hay dự đoán trước động thái tiếp theo của cậu ta không. Nhưng cô chẳng thể rút ra được kết luận nào từ những bài viết bằng thứ ngôn ngữ lủng củng khó hiểu đó.
Dance đăng xuất rồi nói với TJ và Boling về những gì Chilton đã viết.
Boling không chắc bức thư ngỏ sẽ có nhiều hiệu quả - theo đánh giá của anh, cậu thiếu niên đã vượt qua ngưỡng có thể dùng lý lẽ thuyết phục. “Nhưng chúng ta sẽ hy vọng.”
Dance phân công nhiệm vụ; TJ rút lui về ghế của anh ta cạnh bàn cà phê để liên lạc với công ty cung cấp máy chủ ủy nhiệm ở Scandinavia, còn Boling về lại góc của anh để tìm kiếm tên những người có thể trở thành nạn nhân tiếp theo từ một loạt địa chỉ Internet mới - trong đó có cả những người đăng bài trên các chủ đề khác ngoài Những Cây thập tự ven đường. Anh nhận diện được thêm mười ba cái tên nữa.
Charles Overby, trong bộ vest xanh đúng điệu một chính trị gia và một chiếc áo sơ mi trắng bóc, từ tốn bước vào phòng làm việc của Dance. Câu chào của ông ta là: “Kathryn... vậy là thế nào, Kathryn, chuyện thằng nhóc đó đăng lời đe dọa là sao?”
“Đúng thế đấy, Charles. Chúng tôi đang cố tìm hiểu xem cậu ta xâm nhập vào từ đâu.”
“Đã có sáu phóng viên gọi điện cho tôi rồi. Và một hai người đã mò ra số điện thoại nhà riêng. Tôi đã tống khứ bọn họ đi nhưng chắc không thể trì hoãn thêm được. Tôi sẽ phải tổ chức một cuộc họp báo sau hai mươi phút nữa. Tôi có thể nói gì với bọn họ đây?”
“Hãy nói cuộc điều tra đang tiếp tục. Chúng ta đã có thêm trợ giúp nhân lực từ San Benito cho cuộc truy lùng. Có vài trường hợp báo cáo nhìn thấy đối tượng nhưng chưa tìm được gì.”
“Hamilton đã gọi điện cho tôi. Ông ta rất bực.”
Quý ông Hamilton Royce tới từ Sacramento, với bộ vest quá xanh, đôi mắt nhanh như điện và nước da hồng hào.
Có vẻ Charles Overby vừa trải qua một buổi sáng đầy sự kiện.
“Còn gì nữa không?”
“Chilton đã cho ngừng cho đăng bình luận lên chủ đề đó và đề nghị Travis ra đầu thú.”
“Ý tôi là có gì về kỹ thuật không?”
“À, ông ấy giúp chúng ta lần theo dấu vết đăng bài của cậu ta.”
“Tốt. Vậy là chúng ta sẽ làm gì đó.”
Ý ông ta muốn nói: Thứ gì đó mà các khán giả của chương trình truyền hình vào giờ cao điểm sẽ tán thưởng. Trái ngược với thứ công việc không hào nhoáng mà cảnh sát đã cực nhọc, cần cù thực hiện trong bốn mươi tám giờ vừa qua. Dance bắt gặp ánh mắt Boling, cô biết anh cũng rất sững sờ trước lời bình phẩm vừa rồi. Hai người rời mắt khỏi nhau ngay lập tức trước khi một cái nhìn chung đầy bất bình của họ bùng lên.
Overby liếc đồng hồ. “Được rồi. Đến lượt tôi lên nòng,” ông quay ra, bước về phía phòng họp báo.
“Liệu ông ta có biết cách nói đó nghĩa là gì không?” Boling hỏi cô.
“Về cái nòng ư? Bản thân tôi cũng không biết.”
TJ cười khùng khục song không nói gì. Anh ta mỉm cười với Boling, nói, “Đó là một câu pha trò tôi sẽ không nhắc lại đâu. Nó ám chỉ những anh chàng thủy thủ hám của ngọt phải lênh đênh trên biển quá lâu ngày.”
“Cảm ơn vì đã không chia sẻ,” Dance gieo mình xuống ghế sau bàn làm việc, nhấp cốc cà phê đã tự dưng xuất hiện và, khỉ thật, tấn công vào nửa chiếc bánh vòng cũng từ đâu hiện ra như một món quà từ các vị thần. “Travis - à phải, Stryker - đã đăng nhập trở lại chưa?” cô hỏi Boling.
“Chưa. Vẫn chưa nghe được gì từ Irv. Nhưng chắc chắn cậu ta sẽ báo cho chúng ta biết. Tôi không nghĩ cậu ấy có thời gian để ngủ. Cậu ta lúc nào cũng có Red Bull trong mạch máu.”
Dance nhấc điện thoại lên và gọi cho Peter Bennington tại phòng thí nghiệm pháp y của MCSO để hỏi về những thông tin mới nhất liên quan tới bằng chứng. Vấn đề nằm ở chỗ cho tới lúc này đã thừa đủ bằng chứng để kết Travis tội giết người, song lại không hề có manh mối nào về địa điểm cậu ta có thể đang lẩn trốn, ngoại trừ những vết đất họ đã tìm thấy lúc trước - một địa điểm khác với nơi cây thập tự bị bỏ lại. David Reinhold, chàng nhân viên điều tra trẻ đầy nhiệt huyết từ Sở Cảnh sát đã tự mình đi lấy mẫu từ quanh nhà Travis. Mẫu đất khôiv>“c0 v4j nguj n0j v0j t0j th3”
“m4y g0 bun cuj th4t”
“Chết tiệt, cậu ta nhận ra có chút thời gian ngừng khi cô gõ bàn phím. Cậu ta đang nghi ngờ. Hãy chuyển chủ đề trở lại về cậu ta.”
“tuj thuk su mun h0k, c4u c0 th3 d4y j cho tuj?”
Lại một khoảng lặng. Sau đó: “1 thu”.
Dance gõ, “j v4y?”
Thêm một lần do dự nữa.
Rồi câu trả lời xuất hiện trong quả bóng lơ lửng trên đầu nhân vật của Travis. “Ch3t.”
Và cho dù Dance theo linh tính muốn bấm vào một phím mũi tên hay lướt bàn di chuột để giơ một cánh tay lên hộ thân, cô cũng không còn thời gian nữa.
Nhân vật của Travis lao tới thật nhanh. Cậu ta vung kiếm lên chém liên hồi, tấn công nhân vật của cô. Ở góc trên bên trái màn hình mở ra một hộp thể hiện hai cột màu trắng: Phía trên cột bên trái là từ “Stryker”, và bên phải là “Greenleaf”.
“Không!” cô kêu thầm trong lúc Travis chém tới lia lịa.
Cột trắng của Greenleaf bắt đầu cạn dần. Boling nói, “Đó là nguồn sống của cô đang bị mất đi. Hãy đánh trả đi. Cô có một thanh kiếm. Kia kìa!” anh chỉ lên màn hình. “Di con trỏ vào đó và bấm chuột trái.”
Chìm ngập trong cơn hoảng loạn hoàn toàn vô lý và hối hả, cô bắt đầu bấm chuột.
Stryker dễ dàng đỡ được những cú đánh lộn xộn từ nhân vật của cô tung ra.
Trong khi năng lượng của Greenleaf cạn dần nhanh chóng trên cột đo, nhân vật này quỵ gối xuống. Thanh kiếm lập tức rơi xuống đất. Nhân vật của cô đã nằm vật ngửa ra, chân tay dang rộng. Bất lực.
Dance có cảm tưởng vô vọng mà cô chưa bao giờ từng cảm thấy ngoài đời thực.
“Cô không còn mấy năng lượng đâu”, Boling nói. “Cô không thể làm gì nữa.”
Khi cột năng lượng đã gần cạn sạch, Stryker thôi không tấn công vào Greenleaf nữa. Cậu ta bước lại gần hơn và nhìn thẳng vào màn hình máy tính.
“m4y l4 aj?” dòng chữ hiện lên trong hộp thoại tin nhắn tức thời.
“t0j l4 greenleaf. S4o c4u gi3t t0j?”
“M4Y L4 AJ?”
Boling nói, “Toàn là chữ viết hoa. Cậu ta đang gào lên. Cậu ta phát điên rồi.”
“t4j s40?” hai bàn tay Dance đang run rẩy, ngực cô nhói thắt. Như thể đây không phải là một chút dữ liệu điện tử mà là những con người thật. Cô đã hoàn toàn đắm mình vào trong thế giới ảo.
Travis sau đó điều khiển Stryker bước tới đâm thẳng thanh kiếm vào bụng Greenleaf. Máu phun ra, và cột năng lượng trong cửa sổ góc trái phía trên màn hình được thay thế bằng thông báo: “BẠN ĐÃ CHẾT”.
“Ôi”, Dance kêu lên. Hai bàn tay đẫm mồ hôi của cô run lẩy bẩy, hơi thở hổn hển ngắt quãng, lướt qua trên đôi môi khô khốc. Nhân vật của Travis trừng mắt nhìn vào màn hình một cách lạnh lùng, sau đó quay đi và bắt đầu chạy vào rừng. Không hề dừng lại, cậu ta vung kiếm lên chém ngang qua cổ một nhân vật khác đang quay lưng lại và chặt phăng đầu nhân vật này.
Sau đó, hoàn toàn biến mất.
“Cậu ta không nán lại để tước đồ xác chết. Cậu ta đang đào tẩu. Travis muốn trốn chạy thật nhanh. Cậu ta nghĩ có chuyện gì đó đang tới,” Boling dịch lại gần Dance hơn - lần này đến lượt chân họ cọ vào nhau. “Tôi muốn xem một thứ,” anh bắt đầu gõ bàn phím. Một hộp thoại nữa xuất hiện. Nó thông báo: “Stryker không có trên mạng”.
Dance cảm thấy một cơn ớn lạnh đau buốt lan toàn thân, dọc sống lưng cô như bị chà lên nước đá.
Ngồi xuống trở lại, vai chạm vào vai Jon Boling, cô thầm nghĩ: Nếu Travis đăng xuất, có thể cậu ta đã rời khỏi nơi vừa vào mạng.
Và cậu ta đang đi đâu?
Lẩn trốn?
Hay cậu ta dự định tiếp tục cuộc đi săn của mình trong thế giới thực?

~*~

Cô đang nằm trên giường, lúc này đã gần nửa đêm.
Hai âm thanh lẫn lộn vào nhau: Gió thổi qua các ngọn cây bên ngoài phòng ngủ của cô, sóng đập lên những bờ đá cách đó một dặm ở Asilomar và dọc theo con đường tới Lovers Point.
Ngay bên cạnh, cô cảm thấy hơi ấm tỷ lên chân, và những hơi thở ra, thật nhẹ nhàng trong giấc ngủ, phả lên cổ cô.
Tuy thế, cô không tài nào chìm được vào giấc ngủ nhẹ nhõm. Kathryn Dance tỉnh táo như thể lúc này đang là giữa trưa vậy.
Trong tâm trí cô, một luồng suy nghĩ không ngừng trôi qua. Một ý nghĩ có thể vụt nổi bật hẳn lên trong một thời gian, rồi lao đi, giống như trong Vòng quay của Vận may[2] vậy. Chủ đề xung hề tương hợp.
Đất cát mới thật hữu ích làm sao! Dance bực bội hồi tưởng lại, ở một khu vực vẫn luôn tự hào với hơn mười lăm dặm bờ biển cùng những bãi biển và cồn cát đẹp nhất tiểu bang.
Bất chấp việc có thể thông báo rằng CBI đang “làm gì đó về mặt kỹ thuật”, Charles Overby đã bị một vố ra trò tại cuộc họp báo.
Chiếc tivi trong phòng làm việc của Dance đang bật, họ có thể xem cú trúng đòn đó được tường thuật trực tiếp.
Những gì Dance báo cáo với Overby về tình hình đều chính xác, ngoại trừ một chi tiết nhỏ, cho dù đó là một chi tiết cô không hề biết.
“Đặc vụ Overby,” một phóng viên hỏi, “các ông đang làm gì để bảo vệ cộng đồng trước việc một cây thập tự mới xuất hiện?”
Chẳng khác gì hươu bắt phải đèn pha.
“Ái chà chà,” TJ lẩm bẩm.
Choáng váng, Dance đưa mắt từ cậu ta sang Boling. Rồi quay trở lại màn hình.
Người phóng viên tiếp tục nói rằng cô này đã nghe được một thông báo trước đó nửa giờ trên máy dò sóng radio. Cảnh sát Carmel đã tìm thấy một cây thập tự nữa với ngày tháng của hôm nay, Hai mươi tám tháng Sáu, ở gần China Cove trên Xa lộ 1.
Overby lúng búng trả lời, “Trước khi tới đây, tôi vừa được nghe báo cáo từ đặc vụ phụ trách cuộc điều tra, và có vẻ cô ấy hoàn toàn chưa biết chuyện này.”
Có hai nữ đặc vụ cao cấp tại văn phòng Monterey của CBI. Sẽ chẳng khó để tìm ra ai là “cô ấy” vừa được nhắc đến.
Ôi, ông là đồ mắc dịch, Charles.
Cô nghe thấy một phóng viên khác hỏi, “Đặc vụ Overby, ông nói thế nào về sự thật là cả thành phố này, cả khu Bán đảo Monterey đều đang hoảng hốt? Đã có những tin cho hay nhiều chủ nhà bắn vào người vô tội khi vô tình đi qua sân nhà họ.”
Một quãng im lặng. “À, điều đó không hay chút nào.”
Ôi, trời đất quỷ thần ơi…
Dance tắt tivi. Cô gọi điện tới MCSO và được biết, đúng vậy, một cây thập tự nữa, mang ngày tháng của hôm nay, đã được tìm thấy gần China Cove. Cùng một bó hoa hồng đỏ. Bên Điều tra Hiện trường đang thu thập bằng chứng và tìm kiếm quanh khu vực.
“Không có nhân chứng nào, đặc vụ Dance,” người cảnh sát nói thêm.
Sau khi cô gác máy, Dance quay sang TJ. “Những người Thụy Điển trả lời chúng ta thế nào?”
TJ đã gọi điện cho công ty cung cấp máy chủ ủy nhiệm và để lại hai lời nhắn khẩn. Bọn họ vẫn chưa trả lời cuộc gọi của cậu ta, bất chấp việc hôm nay là ngày làm việc ở Stockholm và lúc này ở đó mới qua giờ ăn trưa.
Năm phút sau, Overby đùng đùng lao vào phòng. “Một cây thập tự nữa? Một cây thập tự nữa sao? Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra vậy hả?”
“Tôi cũng vừa mới biết xong, Charles.”
“Vậy thì làm thế quái nào bọn họ biết được?”
“Báo chí ư? Máy dò sóng, nguồn tin nội bộ. Bọn họ luôn có cách tìm ra xem chúng ta đang làm gì.”
Overby xoa xoa vầng trán rám nắng của mình. Những vảy da chết rơi xuống lả tả. “Được rồi, chúng ta đang tới đâu với nó rồi nhỉ?”
“Người của Michael đang kiểm tra hiện trường. Nếu có bằng chứng họ sẽ cho chúng ta biết.”
“Nếu có bằng chứng.”
“Cậu ta là một thằng nhóc vị thành niên, Charles, không phải dân chuyên nghiệp. Nó sẽ để lại một vài dấu vết nào đó dẫn chúng ta tới chỗ ẩn náu. Không sớm thì muộn.”
“Nhưng đã có thêm một cây thập tự được để lại đồng nghĩa là cậu ta cũng sắp sửa giết ai đó hôm nay.”
“Chúng tôi đang cố gắng liên hệ với tất cả những người mà Boling tìm ra được có thể đang gặp nguy hiểm.”
“Còn việc lần theo dấu vết trên máy tính? Việc đó diễn ra đến đâu rồi?”
TJ nói, “Công ty này vẫn chưa trả lời lại chúng tôi. Chúng tôi đã đề nghị bên Tư pháp chuẩn bị một biên bản yêu cầu hợp tác tư pháp quốc tế.”
Người phụ trách văn phòng nhăn mặt. “Được lắm. Máy chủ ủy quyền đặt ở đâu?”
“Thụy Điển.”
“Họ còn khá hơn người Bulgaria,” Overby nói, “nhưng sẽ phải mất cả tháng trước khi họ vòng vèo rồi mới trả lời lại. Hãy gửi yêu cầu để giữ mặt mũi cho chúng ta, nhưng đừng phí thời gian vào nó.”
“Vâng, thưa sếp.”
Overby đùng đùng lao ra ngoài, thò tay moi điện thoại từ trong túi ra.
Dance cũng hối hả lấy điện thoại của cô gọi cho Rey Carraneo và Albert Stemple, bảo họ tới phòt hiện với tần suất cao nhất tất nhiên là Travis Brigham. Trong những năm làm phóng viên đưa tin tội phạm, rồi chuyên gia tư vấn cho bồi thẩm đoàn và nhân viên công lực, Dance đã đi tới kết luận xu hướng ngả về cái ác có thể tìm thấy chứa sẵn trong gene di truyền - như Daniel Pell, tay thủ lĩnh giáo phái và kẻ sát nhân cô vừa truy bắt gần đây - hoặc có thể do tiêm nhiễm từ bên ngoài: J.Doe ở Los Angeles chẳng hạn, với y, xu hướng sát nhân xuất hiện muộn hơn trong cuộc đời.
[2. Weel of Fortune, một chương trình trò chơi truyền hình phổ biến ở nhiều nước. Ở Việt Nam được lấy tên là “Chiếc nón kỳ diệu”.]
Dance tự hỏi Travis rơi vào vị trí nào trong bảng phân loại.
Cậu ta là một thiếu niên bất ổn, nguy hiểm, nhưng đồng thời cũng là một con người khác, một cậu nhóc vị thành niên khao khát được bình thường - có làn da sạch trứng cá, được một cô gái nhiều người hâm mộ ưa thích. Liệu có phải từ khi mới chào đời, bản chất cậu ta đã gắn liền với cuộc sống đầy căm hận này không? Hay cậu ta đã bắt đầu chẳng khác gì bất cứ cậu con trai nào khác, song đã bị hoàn cảnh xô đẩy - ông bố bạo lực, cậu em có vấn đề tâm thần, vẻ ngoài rụt rè, cá tính cô độc, nước da xấu - đến mức tâm trạng tức giận của cậu không thể tự tan biến đi như ở phần lớn chúng ta, như màn sương mù vào giữa buổi sáng vậy?
Trong một khoảnh khắc dài, nặng trĩu, thương hại và căm ghét giằng co bên trong cô.
Thế rồi cô nhìn thấy nhân vật của Travis trừng trừng nhìn mình quỵ xuống và vung thanh kiếm của cậu ta lên.
tuj thuk su mun h0k, c4u c0 th3 d4y j cho tuj?
ch3t…
Bên cạnh, thân hình ấm áp hơi nhúc nhích, cô tự hỏi có phải mình vừa truyền sang bên ấy chút căng thẳng nho nhỏ làm giấc ngủ đó bị quấy rầy hay không. Cô cố nằm bất động, nhưng là một chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể, cô biết điều đó là không thể. Dù ngủ hay thức, nếu bộ óc chúng ta hoạt động, cơ thể chúng ta luôn vận động.
Và vòng quay lại tiếp tục.
Mẹ cô, và vụ điều tra giết người nhân đạo, đến lượt nó nổi lên. Cho dù đã đề nghị Edie gọi điện khi bố mẹ cô về đến nhà trọ, mẹ cô đã không gọi. Cô thấy tổn thương, song không hề ngạc nhiên.
Rồi bánh xe lại quay vòng lần nữa và dừng lại ở vụ J.Doe tại Los Angeles. Phiên tòa điều trần đề nghị miễn truy tố sẽ diễn ra thế nào? Liệu nó có lại bị hoãn nữa không? Và kết quả cuối cùng ra sao? Ernie Seybold rất có năng lực. Nhưng như thế đã đủ chưa?
Thành thật mà nói, Dance không biết.
Dòng suy tưởng sau đó chuyển sang những ý nghĩ về Michael O’Neil. Cô hiểu có những lý do khiến anh không thể đến được tối nay. Nhưng còn việc không gọi điện? Thật bất bình thường.
Vụ điều tra kia...
Dance bật cười trước ý nghĩ đượm mùi ghen tuông.
Thỉnh thoảng cô vẫn thử hình dung ra mình và O’Neil bên nhau, nếu không phải anh đã kết hôn với Anne, một phụ nữ hấp dẫn và kỳ lạ. Mặt khác, chuyện đó quá dễ dàng. Họ đã trải qua nhiều ngày cùng nhau trong các cuộc điều tra, và nhiều giờ trôi qua liền mạch. Những cuộc trò chuyện, những câu pha trò. Dẫu vậy họ cũng đã từng bất đồng, có lúc tới độ nổi nóng. Nhưng cô tin những bất đồng gay gắt đó chỉ làm phong phú thêm những gì hai người có cùng nhau.
Mọi thứ.
Dance tiếp tục suy nghĩ, không tài nào dừng lại được.
Cạch, cạch, cạch...
Ít nhất cho tới khi chúng dừng lại ở giáo sư Jonathan Boling.
Và bên cạnh cô hơi thở nhè nhẹ biến thành tiếng ư ử khe khẽ.
“Được rồi,” Dance nói, lật mình sang phía bên kia. “Patsy!”
Con chó tha mồi[3] lông phẳng ngừng ngáy khi nó tỉnh dậy và ngỏng đầu lên khỏi gối.
[3. Chó tha mồi: một loại chó săn được huấn luyện để tìm và mang những con mồi đã bị bắn hạ về.]
“Xuống sàn,” Dance ra lệnh.
Con chó đứng dậy, nhận ra không có chuyện thức ăn hay chơi bóng ở đây, và nhảy xuống khỏi giường đến bên bạn của nó, Dylan, trên tấm thảm sờn chúng vẫn dùng làm đệm, để Dance một lần nữa đơn độc trên giường.
Jon Boling, cô thì thầm. Rồi sau đó đi đến quyết định tốt hơn hết không nên dành nhiều thời gian nghĩ ngợi về vị giáo sư.
Ít nhất là chưa nên.
Dù sao đi nữa, vào khoảnh khắc ấy dòng suy tưởng của cô tan biến khi chiếc điện thoại di động để trên bàn cạnh giường, kề bên khẩu súng, rung lên.
Cô lập tức bật đèn, đeo kính vào và cười thành tiếng khi nhìn thấy tên người gọi.
“Jon,” cô trả lời.
“Kathryn,” Boling nói. “Tôi rất xin lỗ CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 CHƯƠNG 23 CHƯƠNG 24 CHƯƠNG 25 CHƯƠNG 26 CHƯƠNG 27 CHƯƠNG 28 CHƯƠNG 29 CHƯƠNG 30 CHƯƠNG 31 CHƯƠNG 32 CHƯƠNG 33 CHƯƠNG 34 CHƯƠNG 35 CHƯƠNG 36 CHƯƠNG 37 CHƯƠNG 38 CHƯƠNG 39 CHƯƠNG 40 CHƯƠNG 41 CHƯƠNG 42 CHƯƠNG 43 CHƯƠNG 44 CHƯƠNG 45 CHƯƠNG 46 i vì đã gọi muộn thế này.”
“Không sao đâu. Tôi vẫn chưa ngủ. Có chuyện gì vậy? Stryker à?”
“Không. Nhưng có một thứ cô cần xem. Trên blog - Bản tin Chilton. Tốt hơn cô nên vào mạng ngay.”
Mặc bộ đồ nỉ, với hai con chó ở ngay gần, Dance đang ngồi trong phòng khách, tất cả đèn đều tắt, chỉ còn ánh trăng và một luồng sáng từ đèn đường vẽ nên những dải sáng đủ tông màu xanh - trắng lên sàn nhà ván gỗ thông. Khẩu Glock ép sát vào cột sống, khẩu súng nặng nề kéo trễ dải băng chun giãn quanh hông chiếc áo nỉ của cô xuống.
Chiếc máy tính cuối cùng cũng kết thúc quá trình khởi động dài lê thê của nó.
“Được rồi.”
Anh nói, “Hãy xem bài cuối cùng được đăng lên blog”. Boling gửi cho cô đường dẫn URL.
Http://www.thechiltonreport.com/html/june27update.html
Nữ đặc vụ chớp mắt ngạc nhiên. “Cái gì...?”
“Travis đã xâm nhập vào Bản tin,” Boling cho cô hay.
“Bằng cách nào?”
“Bằng cách nào?”
Anh lạnh lùng bật cười. “Cậu ta mới tuổi teen, điều đó giải thích cho câu hỏi của cô.”
Dance lạnh người khi đọc. Travis đã đăng một tin nhắn ngay phần mở đầu blog ngày Hai mươi bảy tháng Sáu. Bên trái là một hình vẽ nguệch ngoạc nhân vật Qetzal trongDimensionQuest. Xung quanh khuôn mặt quái gở, khuôn miệng bị khâu kín đẫm máu là những con số và từ ngữ khó hiểu. Cạnh đó là một tin nhắn bằng chữ cái cỡ to, in đậm. Nó còn đáng ngại hơn bức hình. Nửa tiếng Anh, nửa tiếng Teen.
Ta sẽ TÓM t4t c4 c4c ngu0j!
ta = thắng, c4c ngu0j = thua!!
c4c ngu0j s3 ch3t
t4t c4 c4c ngu0j
- d0 TravisDQ đ4ng
Cô không cần đến người phiên dịch để hiểu thông điệp này.
Phía dưới lời nhắn là một bức hình nữa. Bức hình màu vụng về thể hiện một cô gái vị thành niên hay một phụ nữ nằm ngửa, miệng há hốc ra kêu gào, trong khi một bàn tay đâm thanh kiếm xuyên qua ngực cô ta. Máu phun vọt lên trời.
“Bức hình đó... Thật ghê tởm, Jon.”
Sau một lát im lặng. “Kathryn,” anh dịu giọng nói, “Cô có nhận ra điều gì ở nó không?”
Trong lúc chăm chú ngắm nghía bức hình vụng về, Dance bất giác khẽ kêu lên thảng thốt. Nạn nhân có mái tóc nâu, buộc đằng sau gáy thành đuôi ngựa, mặc áo sơ mi trắng và váy đen. Trên thắt lưng cô ta có một vùng màu đen ở bên hông, có thể là bao đựng súng. Hình dáng bên ngoài rất giống với trang phục của Dance khi cô gặp Travis hôm qua.
“Là tôi sao?” cô thì thầm với Boling.
Anh không nói gì.
Liệu có phải là một bức hình cũ, có thể là một hình ảnh tưởng tượng về cái chết của một cô hay một phụ nữ từng xúc phạm Travis theo cách nào đó trong quá khứ?
Hay cậu ta vừa vẽ ra nó hôm nay, bất chấp đang phải chạy trốn cảnh sát?
Dance chợt thấy một hình ảnh khiến cô lạnh người về cậu thiếu niên, cắm cúi trước một tờ giấy với bút chì và sáp màu, tạo ra hình ảnh thô kệch này về một cái chết trong thế giới ảo mà cậu ta hy vọng có thể biến thành thật.

~*~

Gió là một đặc điểm không thể tách rời của Bán đảo Monterey. Thường thổi mạnh lồng lộng, đôi lúc hây hây hoặc phe phẩy, song không bao giờ vắng bóng. Ngày và đêm, gió làm mặt đại dương xanh xám gợn sóng, một đại dương chẳng bao giờ phẳng lặng bất chấp tên gọi của nó[4].
[4. Ý nói tới Thái Bình Dương.]
Một trong những nơi lộng gió nhất trong nhiều dặm xung quanh là China Cove, nằm ở tận đầu phía nam của Công viên Tiểu bang Point Lobos. Những luồng gió se lạnh liên tục thổi vào từ đại dương làm tê buốt làn da của những người chạy bộ. Đi picnic là một đề xuất nhiều nguy cơ nếu sử dụng đến đĩa và cốc giấy. Lũ chim biển ở đây phải khó nhọc, vất vả thậm chí chỉ để giữ mình đứng yên trong không khí nếu chúng ở đúng vào luồng gió.
Lúc này đã gần nửa đêm, gió vẫn thổi nhưng thật thất thường, thoắt đến thoắt đi, và khi mạnh nhất, nó làm hất lên từng cột nước biển xám xịt đầy bọt cao như tòa tháp.
Gió xào xạc qua những cây sồi. Gió làm uốn cong những cây thông.
Gió thổi thảm cỏ rạp xuống.
Song có một thứ hoàn toàn vô cảm với những cơn gió tối nay, một vật nhỏ nằm bên khúc quanh giáp biển của Xa lộ 1.
Đó là một cây thập tự, cao chừng sáu tấc, được buộc lại từ những cành cây đen xì. Ở giữa là một miếng bìa các-tông đã sờn với ngày tháng của hôm sau được ghi bằng mực xanh. Cây thập tự được ghim chắc xuống bằng những hòn đá, đặt dưới chân thập tự là một bó hoa hồng đỏ. Thỉnh thoảng lại có những cánh hoa bay lên và bị thổi lướt đi qua bên kia xa lộ. Nhưng bản thân cây thập tự không hề lay động hay bị nghiêng ngả. Rõ ràng nó đã được cắm sâu xuống nền đất cát bên vệ đường bằng những cú đóng mạnh, tác giả của cây thập tự muốn đảm bảo chắc chắn rằng nó sẽ đứng vững để ai cũng thấy rõ.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Phi Phi Yên Vũ, Phi Phi Yên Vũ, Ta Hong Son
Nguồn: Hội chăm chỉ làm eBook free
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 17 tháng 6 năm 2015

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--