Thứ Năm
CHƯƠNG 39

     àn sương dày đặc quánh bồng bềnh lơ lửng trên đầu trong lúc Dance rời khỏi xa lộ và bắt đầu lái xe theo tuyến đường Harrison lộng gió. Khu vực này nằm ở phía nam nội đô Carmel - trên đường tới Point Lobos và xa hơn nữa là Big Sur - rất vắng vẻ, hầu như chỉ toàn những quả đồi phủ kín rừng; trong vùng chỉ còn lại một diện tích nhỏ đất trang trại.
Thật trùng hợp, nơi này khá gần lãnh địa cũ của người da đỏ Ohlone, cạnh địa điểm Arnold Brubaker hy vọng xây nhà máy khử mặn nước biển của ông ta.
Ngửi thấy mùi thông và bạch đàn, Dance từ tốn lái xe dọc theo con đường với ánh đèn pha - cô dùng đèn chiếu gần vì lớp sương mù. Thỉnh thoảng lại có những lối rẽ sâu hun hút vào bóng tối đen kịt chỉ bị phá vỡ bởi vài chấm sáng lác đác. Cô đi ngang qua vài chiếc xe, cũng chạy từ tốn giống cô, đi theo hướng ngược lại, và thầm tự hỏi liệu có phải một người lái xe đã thực hiện cuộc gọi nặc danh khiến cô tìm đến đây, hay người gọi là một cư dân sở tại.
Thứ gì đó...
Đó hiển nhiên là một khả năng, nhưng đường Harrison cũng là một lối tắt từ Xa lộ 1 tới đường Carmel Valley. Cuộc gọi có thể đến từ bất cứ ai.
Không lâu sau, cô tới đường Pine Grove và dừng xe lại.
Công trường xây dựng mà người gọi điện nặc danh đã nhắc tới là một tổ hợp khách sạn mới hoàn thiện nửa chừng - và chắc chắn sẽ không bao giờ được hoàn thành nữa, sau khi tòa nhà chính bị cháy trong những hoàn cảnh đáng ngờ. Ban đầu, người ta nghi đây là một vụ cố ý gây hỏa hoạn để lừa tiền bảo hiểm, song hóa ra thủ phạm lại là những người bảo vệ môi trường không muốn phong cảnh bị phá hỏng bởi việc phát triển xây dựng. (Thật mỉa mai, các vị khủng bố vì môi trường đã tính toán sai lầm; đám cháy lan rộng và phá hủy hàng trăm mẫu rừng thông nguyên sinh.)
Phần lớn rừng đã phục hồi trở lại, song vì nhiều lý do khác nhau, dự án khách sạn đã chẳng bao giờ được tái khởi động, và khu tổ hợp vẫn giữ nguyên tình trạng như hiện tại: Vài héc ta công trường với những tòa nhà hoang phế và những hố móng đào sâu xuống nền đất sét. Cả khu vực được bao quanh bằng hàng rào dây xích đã xiêu vẹo gắn kèm các biển báo Nguy hiểm và Cấm vào, nhưng cứ mỗi năm vài bận nhà chức trách lại tiến hành các ca cứu hộ một hai cô cậu vị thành niên bị rơi xuống hố hay mắc kẹt giữa đống đổ nát khi mò vào trong để hút thuốc, uống rượu, hay từng có một trường hợp, để làm tình tại một địa điểm kém thoải mái và ít lãng mạn nhất có thể hình dung ra được.
Nơi này cũng ma quái như địa ngục vậy.
Dance lấy đèn pin để trong ngăn đựng găng tay, chui ra khỏi chiếc Crown Vic.
Luồng gió ẩm ướt phả vào cô, và Dance chợt rùng mình khi cảm giác lo sợ bùng lên.
Thả lỏng nào.
Cô bật cười châm chọc chính mình, ấn công tắc đèn pin lên, lia luồng sáng của cây đèn Magna-Lite lướt qua lướt lại trên mặt đất đầy cây bụi và bắt đầu tiến bước.
Một chiếc xe vụt qua trên xa lộ, lốp rin rít trên mặt nhựa đường ẩm ướt, rẽ vào khúc ngoặt rồi lập tức im bặt, như thể nó đã biến mất sang một không gian khác.
Trong lúc nhìn quanh mình, Dance đoán ‘thứ gì đó’ người gọi điện nặc danh nhắc đến là cây thập tự ven đường cuối cùng, được dự định dùng để thông báo về cái chết của James Chilton.
Tuy nhiên, cô không hề thấy cây thập tự nào ở khu vực lân cận. Liệu người gọi điện đó còn có thể có ý gì? Không lẽ họ đã nhìn thấy hay nghe thấy Travis?
Đây quả là một nơi lý tưởng để giấu cậu thiếu niên.
Cô dừng lại, lắng nghe xem có tiếng kêu cứu nào hay không.
Không có gì ngoài tiếng gió thổi qua giữa những cây sồi và cây thông.
Những cây sồi... Dance chợt hình dung ra một cây thập tự cắm ven đường. Hình ảnh cây thập tự ở sân sau nhà cô từ đó cũng ùa về.
Liệu có nên gọi về yêu cầu lùng soát không? Chưa phải lúc. Tìm kiếm đi đã.
Cô ước gì có được người gọi điện nặc danh ở đây. Thậm chí cả một nhân chứng bất đắc dĩ nhất cũng có thể là nguồn cung cấp mọi thông tin cô cần; như Tammy Foster chẳng hc chứng hoài cổ cấp tính với những thứ đồ thuộc thập niên 1960. Trong phòng làm việc của anh ta có hai cây đèn trang trí kiểu “Dung nham phun trào[5]”, không ngừng đua nhau thổi bong bóng lên.
[4. Vải kẻ ca rô to nhiều màu sắc.
5. Lava lamp: Loại đèn trang trí do Edward Craven-Walker sáng chế lần đầu năm 1963, gồm một đèn halogen làm nguồn phát sáng và phát nhiệt và một bình thủy tinh trong suốt hàn kín có đựng hỗn hợp nước và một dung môi hữu cơ không tan trong nước. Khi đèn halogen làm nóng, phần dung môi đang nặng hơn nước trở nên nhẹ hơn và nổi lên thành từng mảng, trông giống như dung nham núi lửa.]
Dance và anh ta chỉ cách nhau vài tuổi, nhưng giữa họ là khoảng cách của cả một thế hệ. Tuy thế, cả hai phối hợp khá ăn ý về mặt chuyên môn, pha lẫn một chút âm hưởng của thầy và trò. Cho dù TJ có thiên hướng hoạt động độc lập, một phương pháp làm việc trái ngược với nguyên tắc tại CBI, anh ta vẫn được tạm thời bổ sung để thế chân viên trợ thủ thường trực của Dance - người hiện vẫn đang mắc kẹt ở Mexico trong một vụ dẫn độ khá phức tạp.
Anh chàng Rey Carraneo kiệm lời, một lính mới tại CBI, lại là hình ảnh đối lập hoàn hảo nhất với TJ Scanlon mà người ta có thể hình dung ra. Anh ta gần ba mươi tuổi, khuôn mặt rám nắng dù có phần đầy đặn. Hôm nay anh ta mặc một bộ vest xám và áo sơ mi trắng trên thân hình dong dỏng. Anh ta có suy nghĩ từng trải hơn so với tuổi, có lẽ vì đã từng là một cảnh sát nhiều kinh nghiệm tại thành phố Reno đầy những tên cao bồi ở Nevada, trước khi cùng vợ chuyển tới đây để tiện chăm sóc người mẹ đau yếu. Carraneo cầm cốc cà phê bằng bàn tay có mang một vết sẹo ở kẽ giữa ngón cái và ngón trỏ mà mới chỉ vài năm trước, chỗ đó từng xăm một biểu tượng của băng nhóm. Dance cho rằng anh ta là người bình tĩnh và tập trung nhất trong số các đặc vụ trẻ của Cục, đôi lúc cô cũng tự hỏi, tất nhiên là chỉ với bản thân, phải chăng những tháng ngày anh ta tham gia vào băng nhóm đã phần nào tạo nên tính cách đó hay không.
Người nhân viên điều tra của Sở Cảnh sát hạt Monterey, với mái tóc húi cua điển hình và phong cách nhà binh, tự giới thiệu về mình và giải thích những gì xảy ra. Một cô gái vị thành niên người địa phương đã bị bắt cóc tại bãi đỗ xe ở trung tâm Monterey, mạn trên vùng Alvarado, lúc sáng sớm hôm đó. Tammy Foster bị trói và ném vào cốp xe của chính mình. Kẻ tấn công đã lái xe đưa cô tới bãi biển bên ngoài thành phố và bỏ mặc cô chết đuối khi thủy triều lên.
Dance rùng mình ớn lạnh khi nghĩ tới cảm giác mà nạn nhân đã phải trải qua khi nằm co quắp, lạnh cóng trong lúc nước tràn vào khoảng không gian chật hẹp.
“Đó là xe của cô gái đó sao?” O’Neil hỏi khi ngồi xuống một trong những chiếc ghế của Dance và ngả người đu đưa trên hai chân sau, đó chính xác là những gì cô thường răn đe con trai mình không được làm. Và cô chắc mẩm Wes đã học được thói này từ anh. Chân ghế kêu cót két dưới sức nặng của anh.
“Đúng vậy, thưa ngài.”
“Bãi biển nào vậy?”
“Xuôi theo bờ biển, ở phía nam Highlands.”
“Vắng vẻ?”
“Vâng, xung quanh chẳng có ma nào. Không ai nhìn thấy cả.”
“Có nhân chứng tại hộp đêm nơi cô ấy bị bắt cóc không?” Dance hỏi.
“Không. Và bãi để xe cũng không có camera an ninh.”
Dance và O’Neil ghi lại các thông tin này. Nữ đặc vụ nói, “Vậy là thủ phạm cần chuẩn bị trước một chiếc xe khác gần chỗ hắn bỏ cô gái lại. Hoặc có thể có một đồng phạm đang chờ sẵn.”
“Đội khám nghiệm hiện trường tìm thấy một số dấu chân trên cát, hướng về phía xa lộ. Ở cao hơn mực thủy triều. Nhưng cát quá rời rạc nên không thể xác định được loại hay cỡ giày. Tuy nhiên chắc chắn chỉ có một người.”
O’Neil hỏi, “Không có dấu vết nào cho thấy một chiếc xe rẽ khỏi đường để đón hắn lên sao? Hay một chiếc xe giấu trong các bụi cây gần đó chẳng hạn?”
“Không, thưa ngài. Chúng tôi đúng là có tìm thấy vài vệt bánh xe đạp, nhưng đều chỉ ở bên rìa đường. Có thể được tạo ra tối hôm đó, mà cũng có thể từ tuần trước. Không vệt lốp nào trùng khớp. Chúng tôi không có cơ sở dữ liệu về xe đạp,” anh này nói thêm.
Có hàng trăm người đạp xe trên bãi biển qua lại khu vực đó mỗi ngày.
“Động cơ gây án?”
“Không cướp tài sản, không xâm hại tình dục. Có vẻ như thủ phạm chỉ muốn giết cô bé. Một cách từ từ.”
Dance thở hắt ra.
“Có đối tượng tình nghi n&agrav
  • CHƯƠNG 17
  • CHƯƠNG 18
  • CHƯƠNG 19
  • CHƯƠNG 20
  • CHƯƠNG 21
  • CHƯƠNG 22
  • CHƯƠNG 23
  • CHƯƠNG 24
  • CHƯƠNG 25
  • CHƯƠNG 26
  • CHƯƠNG 27
  • CHƯƠNG 28
  • CHƯƠNG 29
  • CHƯƠNG 30
  • CHƯƠNG 31
  • CHƯƠNG 32
  • CHƯƠNG 33
  • CHƯƠNG 34
  • CHƯƠNG 35
  • CHƯƠNG 36
  • CHƯƠNG 37
  • CHƯƠNG 38
  • CHƯƠNG 39
  • CHƯƠNG 40
  • CHƯƠNG 41
  • CHƯƠNG 42
  • CHƯƠNG 43
  • :10px;'>
    Liệu có phải y đang ẩn nấp?
    Hay y đã bỏ đi rồi?
    Hoặc kẻ đó đang tiếp cận dưới sự che chở của những tán lá dày?
    Gần phát hoảng, Dance quay ngoắt lại song không nhìn thấy gì ngoài bóng ma của các tòa nhà, những thân cây và vài bồn chứa lớn đã rỉ sét bị vùi lấp một phần.
    Dance phủ phục xuống, nhăn mặt vì cảm giác đau ở các khớp xương - từ cuộc đuổi bắt và cú ngã ở nhà Travis hôm trước. Sau đó, cô di chuyển về phía hàng rào nhanh hết mức có thể. Cưỡng lại sự thôi thúc gấp gáp muốn vùng chạy băng qua địa hình mấp mô dày đặc đủ thứ cạm bẫy đặc trưng của một công trường xây dựng.
    Còn hai mươi lăm foot nữa là đến hàng rào.
    Một tiếng gãy răng rắc gần đó.
    Nữ đặc vụ dừng phắt lại, quỳ một bên gối xuống, giơ súng ngang tầm mắt tìm kiếm mục tiêu. Cô đang cầm đèn pin trong bàn tay trái và thiếu chút nữa đã bật nó lên. Nhưng một lần nữa, bản năng lại nhắc nhở cô không được làm thế. Trong màn sương mù, tia sáng gần như sẽ khiến cô bị lòa và cung cấp cho kẻ xâm nhập kia một đích ngắm hoàn hảo.
    Cách đó không xa, một con gấu trúc Bắc Mỹ tuột xuống khỏi nơi ẩn náu của nó và quả quyết rời đi, điệu bộ rõ ràng tỏ vẻ bực bội khi bị quấy rầy.
    Dance nhổm dậy, quay trở ra phía hàng rào và di chuyển thật nhanh trên lớp lá rụng, thường xuyên ngoái nhìn lại phía sau. Cô không thể trông thấy ai đang bám theo mình. Cuối cùng, Dance đẩy cánh cổng lách qua và bắt đầu rảo bước về phía chiếc xe, điện thoại di động mở ra cầm trên tay trái trong lúc cô tìm qua danh sách các số đã gọi.
    Đúng lúc ấy, một giọng nói vang lên rất gần sau lưng cô, âm thanh vang vọng ra trong màn đêm. “Không được động đậy,” người đàn ông nói. “Tôi có súng.”
    Tim đập thình thịch, Dance thấy cả người lạnh toát. Hắn đã ở bên sườn của cô, lách qua một cổng khác hay im lặng leo qua hàng rào.
    Cô cân nhắc: Nếu y thực sự có súng và muốn giết cô, lúc này chắc cô đã chết. Với màn sương mù và bóng tối, rất có thể y chưa phát hiện ra khẩu súng trên tay cô.
    “Tôi muốn cô quỳ xuống đất. Lập tức.”
    Dance bắt đầu quay người.
    “Không! Quỳ xuống!”
    Nhưng cô tiếp tục quay người lại cho tới khi đối diện với kẻ xâm nhập và cánh tay đang giơ thẳng ra của y.
    Chết tiệt. Y có súng, và khẩu súng đang chĩa thẳng vào cô.
    Nhưng rồi sau đó cô nhìn vào khuôn mặt người đàn ông và chớp mắt. Anh ta mặc bộ cảnh phục của Sở Cảnh sát hạt Monterey. Cô đã nhận ra. Đó là anh chàng điều tra viên trẻ tuổi mắt xanh trước đây đã giúp đỡ cô vài lần. David Reinhold.
    “Kathryn?”
    “Cậu làm gì ở đây vậy?”
    Reinhold lắc đầu, một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt. Anh ta không trả lời, chỉ đưa mắt nhìn quanh. Người cảnh sát hạ súng xuống, nhưng vẫn chưa nhét trở lại vào bao đựng. “Người ở trong kia có phải cô không?” cuối cùng anh ta hỏi, đưa mắt về phía công trường xây dựng.
    Cô gật đầu.
    Reinhold tiếp tục nhìn quanh, căng thẳng, ngôn ngữ cơ thể của người cảnh sát trẻ phát đi tín hiệu cho thấy anh ta vẫn sẵn sàng để chiến đấu.
    Sau đó một giọng hơi rè vang lên từ bên sườn, “Sếp, có phải cô đấy không? Sếp gọi tôi à?”
    Reinhold chớp mắt khi âm thanh vang lên.
    Dance cầm điện thoại của cô lên và nói, “TJ, cậu vẫn ở đó chứ?” Khi Dance nghe thấy kẻ xâm nhập tiến lại sau lưng mình, cô đã bấm nút quay số.
    “Vâng, sếp. Có chuyện gì vậy?”
    “Tôi đang ở chỗ công trường xây dựng gần đường Harrison. Tôi đang có mặt cùng điều tra viên Reinhold từ Sở Cảnh sát.”
    “Sếp có tìm thấy gì không?” người đặc vụ hỏi.
    Dance cảm thấy hai chân cô đang thả lỏng dần, tim đập thình thịch, khi cơn hoảng loạn ban đầu giờ đây dần tan biến. “Chưa có gì. Tôi sẽ gọi lại cho cậu.”
    “Hiểu rồi, sếp.”
    Hai người ngắt liên lạc.
    Cuối cùng Reinhold cũng cho súng vào bao. Người cảnh sát trẻ hít vào thật chậm và phồng hai gò má nhẵn nhụi thở không khí ra. “Thiếu chút nữa chuyện này làm tôi sợ đến mất cả... thứ cô biết đấy...”
    Dance hỏi anh ta, “Cậu đang làm gì ở đây vậy?”
    Anh ta giải thích rằng cách đây chừng một giờ MCSO đã nhận được một cuộc điện thoại về ‘thứ gì đó’ có liên quan tới cuộc điều tra ở gần giao lộ giữa Pine Grove và Harrison.
    Chính cuộc gọi đã th&ocirirc;n viên điều tra.
    “Không, theo bên Tuần cảnh Xa lộ California thì không. Và cũng chẳng có camera theo dõi nào trên đoạn đó. Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm.”
    “Có kho hàng nào không?” O’Neil hỏi, đúng lúc Dance định hỏi đúng câu tương tự.
    “Kho hàng?”
    O’Neil quan sát bản đồ. “Ở bên phía đông tuyến xa lộ. Trong các khu mua bán cho người đi đường. Một trong số chúng hẳn phải được trang bị camera an ninh. Có thể có một cái hướng về địa điểm chúng ta quan tâm. Ít nhất chúng ta cũng biết được đặc điểm và kiểu xe nếu thủ phạm đi xe.”
    “TJ,” Dance nói, “hãy kiểm tra việc đó.”
    “Vâng, thưa sếp. Có một Java House[6] khá tốt ở đó. Một trong những nơi ưa thích của tôi.”
    [6. Tên của một chuỗi nhà hàng.]
    “Tôi rất mừng khi biết điều này.”
    Một bóng đen xuất hiện trên ngưỡng cửa phòng Dance. “À, tôi không hề biết mọi người đang tụ tập ở đây.”
    Charles Overby, đặc vụ mới được bổ nhiệm phụ trách chi nhánh Trung Tây của CBI, bước vào phòng làm việc của cô. Ông ta ở giữa tuổi ngũ tuần, làn da rám nắng. Người đàn ông có thân hình quả lê này vẫn tràn đầy tinh thần thể thao cho việc tới sân golf hay sân tennis vài lần mỗi tuần nhưng không đủ hoạt bát để đánh một loạt bóng dài mà không phải thở lấy hơi.
    “Tôi đã ở trong phòng làm việc của tôi… à, cũng được một lúc rồi.”
    Dance tảng lờ khi TJ kín đáo liếc xem đồng hồ đeo tay của anh ta. Nữ đặc vụ nghi ngờ việc Overby đã bước vào từ vài phút trước.
    “Charles,” cô nói. “Xin chào ông. Có lẽ tôi đã quên báo cáo chúng tôi sẽ họp ở đâu. Xin lỗi.”
    “Xin chào, Michael,” thêm một cái gật đầu chào về phía TJ – người mà Overby đôi khi vẫn đưa mắt nhìn chằm chằm đầy tò mò – như thể ông ta chưa bao giờ gặp qua chàng đặc vụ cấp thấp này, dẫu có thể đó chỉ đơn thuần là để bày tỏ vẻ không hài lòng với gu thời trang của TJ.
    Thực ra, Dance đã thông báo cho Overby về cuộcc;i thúc Dance tới đây.
    Vì Reinhold từng tham gia vào cuộc điều tra, anh ta giải thích, chàng cảnh sát trẻ đã tình nguyện tới tìm hiểu. Anh đang tìm kiếm trong khu công trường xây dựng thì nhìn thấy ánh đèn pin nên lại gần xem xét. Reinhold không nhận ra Dance trong màn sương mù và nghĩ cô có thể là một con nghiện hay một tay buôn bán ma túy.
    “Cậu có tìm thấy gì cho thấy rằng Travis đang ở đây không?”
    “Travis ư?” anh ta chậm rãi hỏi lại. “Không. Sao vậy, Kathryn?”
    “Vì dường như nơi này là một địa điểm rất phù hợp để giấu nạn nhân bị bắt cóc.”
    “À, tôi đã tìm rất cẩn thận,” người cảnh sát trẻ cho cô hay. “Không thấy gì cả.”
    “Dẫu vậy,” Dance nói, “tôi vẫn muốn đảm bảo chắc chắn.”
    Và cô gọi lại cho TJ để điều động một đội rà soát.

    ~*~

    Cuối cùng họ cũng khám phá ra thứ người gọi điện nặc danh đã nhìn thấy. Phát hiện này không nhờ vào Dance hay Reinhold, mà do Rey Carraneo, người đã đến nơi cùng sáu nhân viên khác từ CHP, MCSO và CBI.
    ‘Thứ gì đó’ là một cây thập tự ven đường. Nó được cắm phía bên lộ giới Pine Grove chứ không phải Harrison, cách điểm giao nhau chừng một trăm foot.
    Song vật kỷ niệm này chẳng có gì liên quan tới Greg Schaeffer, Travis Brigham hay các bài bình luận trên blog.
    Dance thở dài phẫn nộ.
    Cây thập tự này trông bắt mắt hơn những cái khác, được làm cẩn thận, và những bông hoa đặt dưới chân nó là cúc và tuy líp chứ không phải hoa hồng.
    Một điểm khác biệt nữa là cây thập tự này mang trên nó một cái tên. Thực ra là hai.
    Juan Millar, hãy bình an yên nghỉ
    Bị sát hại bởi Edie Dance
    Được ai đó trong nhóm Ưu tiên sự sống để lại - người gọi điện nặc danh, đương nhiên rồi.
    Phẫn nộ, cô nhổ bật cây thập tự lên khỏi mặt đất và ném nó vào mớ hỗn độn.
    Chẳng còn gì để tìm kiếm, không còn bằng chứng để xem xét, không có nhân chứng nào để thẩm vấn, Kathryn Dance quay trở lại xe và lái về nhà, thầm tự hỏi liệu giấc ngủ của cô sẽ trằn trọc đến mức nào.
    Nếu quả thực cô có thể ngờ được.

    Truyện Cây thập tự ven đường Giới thiệu CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 .”
    Overby gật đầu. Ông ta chẳng bao giờ thích thú với việc không có câu trả lời… cho cánh báo chí, cho các sếp của ông ta ở Sacramento[8]. Điều đó khiến ông ta thấy bực bội, và đến lượt mình làm tất cả những người khác bực bội. Khi người tiền nhiệm của ông ta, Stan Fishburne, nghỉ hưu đột ngột vì lý do sức khỏe và Overby kế nhiệm, choáng váng là tâm trạng chung của mọi người. Fishburne là người luôn ủng hộ các đặc vụ. Ông sẵn sàng ủng hộ bất cứ ai cần thiết để hỗ trợ họ. Còn Overby có một phong cách khác. Rất khác.
    [8. Thủ phủ tiểu bang California.]
    “Tôi đã nhận được một cuộc gọi từ Tổng Chưởng lý tiểu bang[9].” Sếp cao cấp nhất của họ. “Vụ này đã trở thành tin sốt dẻo ở Sacramento rồi. Cả trên CNN nữa. Tôi sẽ phải gọi lại cho ông ấy. Tôi muốn chúng ta có được vài điều cụ thể.”
    [9. AG (viết tắt của Attorney General): Bộ trưởng Tư pháp hay Tổng Chưởng lý – người lãnh đạo Bộ Tư pháp của Hoa Kỳ.]
    “Chúng tôi sẽ sớm biết nhiều hơn.”
    “Liệu có khả năng đó chỉ là một trò đùa tinh nghịch dẫn đến hậu quả nghiêm trọng? Như thử thách những kẻ mới nhập môn chẳng hạn. Kiểu như các hội nam sinh hay nữ sinh. Tất cả chúng ta đều làm thế ở trường, phải không?”
    Dance và O’Neil chưa bao giờ từng là kẻ thích bày trò tai quái. Nữ đặc vụ cho rằng TJ cũng không, còn Rey Carraneo đã lấy bằng cử nhân điều tra tội phạm bằng cách học ban đêm trong khi làm cùng lúc hai công việc.
    “Quá kinh khủng cho một trò đùa,” O’Neil nói.
    “Được rồi, hãy cứ bảo lưu nó lại như một giả thiết. Tôi chỉ muốn đảm bảo chắc chắn chúng ta miễn nhiễm với sự hoảng loạn. Điều đó sẽ chẳng giúp ích được gì. Nên giảm nhẹ bất cứ giả thiết nào gợi ý tới một kẻ giết người hàng loạt. Và đừng có nhắc gì tới cây thập tự. Chúng ta vẫn còn đang quay cuồng với vụ trước cũng trong tháng này, vụ Pell đó!” ông ta chớp mắt. “Nhân đây tôi muốn biết luôn, việc lấy lời khai làm chứng diễn ra thế nào?”
    “Đang chậm trễ,” chẳng lẽ ông ta không hề nghe lời nhắn của cô sao?
    “Tốt quá.”
    “Tốt ư?” Dance vẫn còn đang rất bực với vụ vận động miễn truy tố kia.
    Overby chớp mắt. “Ý tôi là nó cho phép cô được tự do điều tra vụ Cây thập tự ven đường này.”
    Dance chợt nhớ về sếp cũ của cô. Hoài cổ đôi khi có thể là một nỗi đau thật ngọt ngào.
    “Bước tiếp theo là gì?” Overby hỏi.
    “TJ đang kiểm tra camera an ninh tại các khu mua sắm và cửa hàng mua bán xe hơi gần nơi cây thập tự được để lại.”
    Cô quay sang Carraneo. “Và Rey, cậu có thể kiểm tra khu vực quanh bãi để xe nơi Tammy bị bắt cóc chứ?”
    “Rõ, thưa sếp.”
    “Anh đang làm gì lúc này ở MCSO, Michael?” Overby hỏi.
    “Điều tra một vụ án mạng băng đảng, sau đó là vụ Container.”
    “Ồ, là vụ đó sao?”
    Khu vực Bán đảo Monterey gần như miễn nhiễm với những mối đe dọa khủng bố. Tại đây không có cảng biển lớn, chỉ có các bến tàu đánh cá, sân bay có quy mô nhỏ và có hệ thống an ninh tốt. Nhưng chừng một tháng trước, một container đã bị lén lút bốc dỡ xuống khỏi một tàu chở hàng tới từ Indonesia đang cập cảng Oakland và được đưa lên xe tải đưa hàng về phía nam, hướng tới L.A. Một báo cáo cho rằng chiếc xe đã chạy tới tận Salinas, tại đây, nhiều khả năng hàng hóa bên trong container đã được dỡ xuống, sau đó chuyển sang những xe tải khác để tiếp tục vận chuyển.
    Những thứ để trong đó có thể là hàng buôn lậu, ma túy, vũ khí hoặc, như một nguồn tin trinh sát đáng tin cậy khác báo cáo, là những người nhập cư bất hợp pháp. Indonesia có cộng đồng Hồi giáo đông đảo nhất thế giới và một số nhóm cực đoan nguy hiểm. Bên An ninh Nội địa đã tỏ ra quan tâm một cách hoàn toàn có lý.
    “Nhưng,” O’Neil nói, “tôi có thể tạm dừng vụ đó lại một hay hai ngày.”
    “Tốt,” Overby nói, cảm thấy nhẹ nhõm vì vụ Cây thập tự ven đường sẽ được cả một nhóm đặc vụ điều tra. Ông ta lúc nào cũng cố tìm cách phân tán rủi ro cho càng nhiều người càng tốt phòng trường hợp một khi cuộc điều tra gặp thất bại, cho dù như thế cũng đồng nghĩa với việc phải chia sẻ vinh quang.
    Dance chỉ cảm thấy hài lòng vì cô và O’Neil sẽ được làm việc cùng nhau.
    O’Neil nói, “Tôi sẽ đi lấy báo cáo điều tra hiện trường cuối cùng từ Peter Bennington.”
    Xuất thân của O’Neil không chuyên về khoa học hình sự, nhưng người cảnh sát rắn rỏi, kiên trì đó trông cậy vào các biện pháp truyền thống CHƯƠNG 37 CHƯƠNG 38 CHƯƠNG 39 CHƯƠNG 40 CHƯƠNG 41 CHƯƠNG 42 CHƯƠNG 43 CHƯƠNG 44 CHƯƠNG 45 CHƯƠNG 46 CHƯƠNG 47