NHỮNG CUỘC ĐIỀU TRA CỦA THÁM TỬ POIROT
LƯU VÂN dịch
VỤ TRỘM MỘT TRIỆU ĐÔ

     ại là một vụ trộm tiền Ngân hàng - Tôi đặt tờ báo buổi sáng qua một bên và nhìn về phía ông Poirot, tiếp - Ông Poirot này, ta bỏ môn khoa học điều tra hình sự để phạm tội đi.
- Sao thế, đang muốn tìm cách làm giàu chớp nhoáng đấy à, anh bạn?
- Thì đây này, ông hãy xem một vụ vừa xảy ra này, số tiền một triệu đô la thuộc Quỹ Tiền tệ Liberty từ hai Ngân hàng London và Scotland gửi đi New York biến mất một cách khá ly kỳ trong khi đi trên tàu Olympia.
- Nếu không vì biển cả trái tính trái nết và sự khó khăn trong việc thực hành phương pháp chống say sóng quá tuyệt hảo của Laverguier thì có lẽ tôi rất khoái được du hành trên một trong những con tàu lớn chạy theo lộ trình như thế này - Ông Poirot chợt có vẻ mơ mộng, thì thầm.
- Phải, đúng vậy - Tôi hăng hái nói - Một số tàu biển tiện nghi còn hơn những dinh thự, nó có đủ bế bơi, phòng hội nghị, khách sạn, vườn cây cọ... Ôi, thật ít ai ngờ có những thứ đó bềnh bồng giữa khơi.
- Còn tôi, tôi luôn biết tôi phải làm gì để khỏi ói khi đi trên biển - Ông Poirot nói buồn buồn - Những tiện nghi sang trọng ấy anh kể làm gì, người ta nói chúng chẳng là gì đối với tôi cả, nhưng, anh bạn ơi, thử nghĩ mình đang cải trang để làm một chuyến du lịch thử xem nào! Trên những con tàu như dinh thự nổi ấy, đúng như anh gọi tên vậy, người ta sẽ gặp những thứ tinh hoa nhất, là những vị thượng lưu trong thế giới tội ác.
Tôi bật cười lớn.
- Thế thì đó là tuyến con đường đầy hứng thú của ông! Ông sẽ thích đấu kiếm với một kẻ đã đánh cắp số tiền của Quỹ Tiền tệ Liberty ngay thôi, phải không nào?
Bà chủ nhà bước vào làm gián đoạn cuộc trò chuyện của chúng tôi.
- Có một cô gái cần gặp ông đấy, ông Poirot. Danh thiếp của cô ta đây này.
Danh thiếp in gọn mấy chữ: "Cô Esmée Farquhar". Còn ông Poirot sau khi cúi xuống dưới bàn nhặt mẩu gì đó đã đánh rơi, bỏ vào giỏ giấy một cách cẩn thận, mới gật đầu ra hiệu với bà chủ nhà để mời cô ta vào.
Chỉ một phút sau, một cô gái đẹp tuyệt trần trong số những cô gái mà tôi từng thấy được đưa vào phòng. (Phụ nữ đến gặp Poirot thì luôn luôn phải đẹp – hehe) Cô ta có lẽ chỉ chừng hai lăm tuổi, đôi mắt to màu nâu và thân hình tuyệt hảo. Nàng mặc bộ đồ sang trọng được may khéo càng tôn thêm nét hoàn hảo của cơ thể.
- Mời cô ngồi, thưa cô. Đây là bạn tôi, đại úy Hastings, người giúp đỡ tôi nhiều trong một số vấn đề nho nhỏ.
- Tôi sợ đây là một vấn đề trọng đại và do đó mà tôi phải đến xin gặp ông hôm nay, thưa ông Poirot - Cô gái nói, rồi cúi chào tôi trước khi ngồi vào ghế - Tôi xin lỗi, ông đã đọc báo hôm nay chứ. Tôi muốn đề cập đến vụ trộm tiền trên tàu Olympia đó. Một thoáng ngượng nghịu hiện lên trên nét mặt của ông Poirot, cô gái nhanh nhảu nói tiếp: Tôi chắc là ông đang tự hỏi rằng cái gì khiến tôi phải quan tâm tới hai tổ chức Ngân hàng quan trọng là London và Scotland Bank. Xin ông hiểu cho, ông Poirot, tôi vừa hứa hôn với Philip Ridgeway.
- Vậy hả? Và ông Philip Ridgeway là...
- Là người đang giữ số tiền chuyển đi và bị mất trộm. Dĩ nhiên là không thể đổ tội cho anh ấy, anh ấy không có lỗi gì cả. Hơn nữa, anh ấy gần như quẩn trí trước sự việc này, còn cậu của anh ấy thì khăng khăng cho rằng anh ấy đã quá bất cẩn, phải chịu trách nhiệm với một số tiền lớn như thế mà lại thiếu cảnh giác. Điều đó rất tồi tệ vì anh ấy sẽ không được tiếp tục giữ chức vụ cũ.
- Nhưng ai là cậu của anh ấy?
- Ông Vavasour, Tổng giám đốc của hai Ngân hàng London và Scotland Bank.
- Cô Farquhar, cô có thể thuật lại tôi nghe toàn bộ câu chuyện không?
- Được chứ ạ. Chắc ông cũng hiểu, ngân hàng muốn mở rộng tín dụng của mình sang nước Mỹ và vì thế, họ quyết định chuyển đến Quỹ Tiền tệ Liberty hơn một triệu đô la. Ông Vavasour chọn cháu mình là người phụ trách ký ủy thác trong ngân hàng nhiều năm nay cũng như am hiểu tường tận các điều khoản giao dịch giữa các ngân hàng tại New York để thực hiện chuyến đi này. Con tàu Olympia nhổ neo tại Liverpool ngày 23. Chính tay ông Vavasour và ông Shaw, hai đồng Tổng giám đốc của Ngân hàng London và Scotland Bank giao toàn bộ số ngân phiếu cho Philip vào sáng hôm ấy. Số tiền đã đếm kiểm, đóng vào một cái hộp niêm phong lại trước mặt anh ấy, rồi anh ấy khóa lại ngay trong chiếc va-li vải.
- Một cái va-li vải với một ổ khóa bình thường ư?
- Không phải, ông Shaw đã đòi phải có một ổ khóa đặc biệt do hãng Hubbs's cung cấp. Còn anh Philip, như tôi đã nói, đặt nó dưới đáy va li. Vụ trộm xảy ra trước khi tới New York vài tiếng đồng hồ. Một cuộc khám xét nghiêm ngặt đã được tiến hành trên toàn bộ con tàu nhưng cũng không kết quả gì. Số ngân phiếu vẫn mất tăm.
Ông Poirot nhăn mặt.
- Nhưng tôi thấy rằng chúng không hoàn toàn bốc hơi, vì tôi cũng được nghe nói một số ngân phiếu được bán trong nửa tiếng đồng hồ tại vũng nơi con tàu Olympia đậu! Được rồi, việc tôi cần phải làm tới đây là đến gặp ông Ridgeway.
- Tôi cũng định mời ông ăn trưa với tôi tại nhà hàng Cheshire Cheese. Philip sẽ đến đó. Anh ấy đang muốn gặp tôi nhưng chưa biết rằng tôi đang nhân danh anh ấy để đến gặp ông.
Chúng tôi gật đầu trước lời mời không đến nỗi quá muộn màng này và cùng đón taxi đến nhà hàng.
Philip Ridgeway đã có mặt ở đó trước chúng tôi và rất ngạc nhiên khi thấy vợ sắp cưới của mình tới cùng hai người đàn ông hoàn toàn xa lạ. Anh ta đẹp trai, to cao và chải chuốt diêm dúa với hai món tóc hoa râm ở thái dương, mặc dù anh ta chắc chưa qua tuổi ba mươi.
Cô Farquhar bước tới và đặt bàn tay mình lên cánh tay anh ta.
- Xin anh tha thứ vì em đã không hỏi ý kiến anh, Philip - Cô gái nhỏ nhẹ nói - Để giới thiệu với anh, đây là ông Poirot, một trong số người mà anh đã thường nghe nói đến, và đây là bạn của ông ấy, đại úy Hastings.
Cái nhìn của Philip có vẻ ngượng ngùng.
- Tất nhiên rồi, tôi đã nghe tiếng ông, thưa ông Poirot - Anh ta nói và đưa tay ra bắt xã giao - Nhưng tôi hoàn toàn bất ngờ khi Esmee có ý định đến tham khảo ý kiến của ông về tôi... ồ, không, về việc rắc rốì của tôi
- Em sợ anh không cho phép em làm thế, Philip.
Cô Farquhar nhỏ nhẹ nói như một con cừu non.
- Chắc là em đã lo tìm kiếm một phía an toàn - Anh ta nói và nở một nụ cười trong thái độ thăm dò
- Anh hy vọng rằng ông Poirot sẽ làm sáng tỏ phần nào tình trạng rối rắm bất thường này của chúng ta. Nói thật, cái đầu của anh cứ như bị văng đi đâu mất, lo quá.
Thật vậy, khuôn mặt anh ta nhợt nhạt giống như của người chết đuối và quá sức căng thẳng giống như vừa lao động cực nhọc.
- Thôi, thôi - Ông Poirot nói - chúng ta hãy dùng bữa trưa đi, rồi sẽ cùng tập trung xem có thể làm được gì. Tôi cũng muốn nghe chính miệng ông Ridgeway kể lại câu chuyện này.
Sau khi chúng tôi cùng gọi món thịt nướng và bánh bầu dục, Philip chen vào kể chuyện về những tờ ngân phiêu bị mất tích. Chuyện anh ta kể cũng không khác gì mọi tình tiết mà cô Parquhar đã cho biết. Khi anh dứt lời, ông Poirot chen vào hỏi ngay:
- Chính xác nhất là làm sao ông biết ngân phiếu đã bị trộm vậy, ông Ridgeway?
Anh ta cười lớn, vẻ nhiều cay đắng:
- Mọi việc đều như ở trước mắt tôi, thưa ông Poirot. Tôi không thể không nhớ rõ đâu. Chiếc va-li của tôi một nửa nằm ló ra ngoài ở dưới giường ngủ trong ca-bin nên rất khó lòng cho kẻ nào đó cưa sột soạt để tìm cách phá khóa.
- Nhưng tôi nghĩ rằng nó phải được mở bằng chìa khóa chứ?
- Đúng thế thật. Kẻ trộm đã làm mọi cách nhưng không được. Cuối cùng, chúng đã tìm cách mở khóa theo kiểu nào đó không hiểu nổi.
- Thật kỳ lạ - Ông Poirot kêu lên và đôi mắt ông ta lóe lên ánh xanh mà theo tôi biết đó là dấu hiệu rất tốt - Quái nhỉ! Chúng đã tiêu tốn rất nhiều thì giờ để được phần thưởng cuối cùng là mở được khóa nhưng... - Ông Poirot nói bằng tiếng Pháp - Sapristi! - Bọn kẻ trộm thường vẫn có chìa để mở được bất cứ loại khóa Hubbs's nào.
- Điều đó có thể đúng nhưng tại sao chúng không dùng ngay chìa khóa. Chìa khóa của tôi không bao giờ rời khỏi tôi ngày và đêm.
- Ông dám chắc chắn như thế chứ?
- Tôi dám thề như thế, và ngoài ra, nếu chúng đã có chìa khóa hoặc là bản sao đi nữa thì tại sao chúng còn phải mất thì giờ để cố cạy phá ổ khóa rõ ràng là vô cùng kiên cố làm gì?
- À, chính ra là có một câu hỏi để chúng ta tự hỏi đây. Tôi thMặt khác, từ ngày chủ nhật, sinh hoạt của cả nhà đó đã trở nên hỗn loạn do có sự can thiệp để tìm hiểu sự việc, có vẻ như vụ trộm đã xảy ra từ thứ bảy mà không ai biết gì cho đến thứ hai".
"Rất chính xác!" - Ông Poirot lạnh lùng nói - "Phải, vậy ông ta đã bị bắt rồi chứ, cái ông Lowen khốn khổ ấy?"
Japp nhăn mặt lại. "Chưa. Nhưng ông ta đang bị theo dõi thật kỹ".
Ông Poirot gật đầu - "Cái gì trong tủ an toàn bị lấy đi? Ông nghĩ thế nào?"
"Chúng tôi có vào trong đó cùng với một nhân viên bình thường của cơ quan ông ta và bà Davenheim". Toàn bộ tài sản bị mất là một số lượng rất lớn những ngân phiếu cầm tay, tiền mặt và một số nữ trang. Tất cả số nữ trang của bà Davenheim đều được cất trong tủ an toàn này. Đó là những thứ mà chồng bà ta đã săn tìm nhiều năm nay cho bà, việc này là sở thích của ông ta, (tuy vì khó khăn nào đó trong tháng vừa qua ông ta đã không tặng cho bà một món quà nào quý giá như những viên ngọc trước).
"Tất cả những thứ ấy đều là món béo bở" - Ông Poirot nói, vẻ mặt nhiều nghĩ ngợi - "Nào, ông Lowen thì thế nào? Có ai biết công việc chiều hôm đó giữa ông ta và ông Davenheim là gì không?"
"Vâng, có thể thấy quan hệ giữa hai người cũng không có gì gọi là tốt. Lowen là một tay đầu cơ nhỏ. Tuy nhiên cũng có một đôi lần ông ta thắng ông Davenheim những cú đậm trong thị trường, họ đã ít hoặc không bao giờ gặp nhau. Đó là sự việc có liên quan đến những phần hùn với Nam Mỹ làm ông ta bị phân tán trong việc chỉ đạo".
"Và ông Davenheim có lợi nhuận ở Nam Mỹ chứ?".
"Tôi tin là có. Bà Davenheim cũng cho biết là ông ta từng sống suốt mùa thu ở Buenos Aires".
"Có rắc rối gì trong nội tình gia đình này không? Vợ chồng họ thế nào?".
"Cuộc sống gia đình của họ rất yên lành, không xảy ra mâu thuẫn nào. Bà Davenheim là một người đàn bà kém thông minh và an phận. Tôi nghĩ bà ta chỉ giữ vai trò mờ nhạt, không có gì nổi bật".
"Rồi, chúng ta sẽ không tìm kiếm đáp án là một bí ẩn nào ở chỗ đó. Vậy ông ta có ai thù ghét không?".
"Ông ta có nhiều đối thủ tài chính sung túc và không nghi ngờ gì là có nhiều người mà ông ta cho là tốt hơn những ai có liên quan tới khoản thừa kế lớn lao của ông ta. Nhưng không có ai muốn rời xa ông ta cả... và nếu họ có hành động gì đó, thì cái xác của ông ta ở đâu mà không thấy?"
"Rất đúng. Như anh Hastings đây vẫn thường nói, thể xác con người có thói quen tìm đến chỗ ánh sáng với sự cố chấp của Thần chết".
"Ngoài ra, một trong những người làm vườn nói rằng có thấy một dáng người đi vòng qua bên nhà về phía vườn hoa hồng. Cái cửa sổ lớn kiểu Pháp của phòng làm việc nhìn ra phía vườn hồng, và ông Davenheim vẫn có thói quen đi vào nhà hay đi ra ngoài từ phía này, nhưng người này ở một khoảng cách xa, nên trong lúc đang làm việc trên những luống củ cải đường, anh ta không dám chắc rằng đó là dáng của ông chủ hay không. Cũng như anh ta không xác định được anh ta thấy như vậy vào giờ phút nào. Chỉ có thể nói rằng nó phải trước sáu giờ, bởi vì sáu giờ anh ta đã nghỉ việc".
"Còn giờ ông Davenheim rời khỏi nhà là lúc nào?.
"Khoảng năm giờ rưỡi, hơn hoặc kém chút ít".
"Trước vườn hoa hồng có cái gì?".
"Một cái hồ".
"Có nhà thuyền chứ?"
"Có hai chiếc thuyền đáy bằng ở đó. Tôi đoán rằng ông đang nghĩ về một vụ tự vẫn, phải không ông Poirot? Vâng, tôi cũng không định kể cho ông nghe việc ông thanh tra Miller sẽ xuống đó, tổ chức tìm kiếm dưới lòng hồ... Bản tính của ông ta là vậy mà!"
Ông Poirot uể oải mỉm cười và quay lại tôi: "Anh Hastings, anh làm ơn đưa cho tôi tờ Daily Megaphone.
Nếu tôi nhớ đúng, thì có cái ảnh không rõ của người đàn ông mất tích này".
Tôi đứng lên đi tìm tờ báo ấy. Và ông Poirot ngồi nghiên cứu bằng cử chỉ rất thận trọng.
"Hừm!" - Ông ta lẩm bẩm - "Có phải ông ta tóc hơi dài và quăn, nhiều râu và ria mép cong, mắt đục phải không?".
'Tóc và râu nhuốm bạc chứ?"
Thanh tra Japp gật đầu. "Đúng vậy, ông Poirot. Ông muốn nói về điều ấy sao? Rõ như ban ngày ấy mà.
"Trái lại, chẳng rõ ràng gì hết".
Người bạn ở Sở Scotiand Yard có vẻ thú vị.
"Những thứ này cho tôi nhiều hy vọng để giải quyết vụ này đây" - Ông Poirot trầm tĩnh nói tiếp.
"Hả?".
"Tôi tìm thấy một hình ảnh rất tốt khi vụ này còn chưa rõ ràng. Nếu một việc đã rõ như ban ngày... Tốt, thì nên nghi ngờ đi! Có kẻ đã tạo ra như thế!". Ông Japp lắc đầu thương hại cho ông Poirot: "Được, cứ cho là một chi tiết đó là khôi hài đi. Nhưng nó sẽ không phải là điều dở để thấy ông có một cách rõ ràng hơn".
"Tôi không thấy" - Ông Poirot khẽ nói - 'Tôi chỉ nhắm mắt lại và suy nghĩ".
Japp sôi nổi: "Được thôi, ông sẽ có một tuần lễ rõ ràng sể suy nghĩ".
"Để ông sẽ mang đến cho tôi những tin tức mới mẻ được triển khai... như kết quả lao động khó nhọc của ông thanh tra Miller có đôi mắt mèo rừng, chẳng hạn như thế!". 
"Chắc chắn rồi. Điều đó nằm trong lời giao hẹn mà.
"Có phải là đáng xấu hổ hay không? - Ông Japp nói khi cùng với tôi đi ra cửa. "Giống như bắt nạt trẻ con".
Tôi không thể đồng tình với ông ta nhưng cũng mỉm cười. Và tôi vẫn còn cười khi trở vào phòng.
"Tốt thôi!" - Ông Poirot bất ngờ nói Anh làm trò với Papa Poirot đây hả?" - Rồi ông ta lắc mấy ngón tay trước mặt tôi - "Anh không tin chất xám của tôi hả? Đừng có chối! Chúng ta hãy thảo luận một vấn đề nhỏ này coi... Tôi nhận ra có một hai điểm rất thú vị, dù chưa thật rõ ràng đầy đủ".
"Cái hồ ư?" - Tôi gọi ý.
"Còn hơn cả cái hồ, mà là nhà thuyền".
Tôi nhìn sang một bên ông Poirot. Ông đang mỉm cười khó hiểu. Tôi biết rằng trong lúc này muốn hỏi ông ta điều gì cũng vô tác dụng.
Chúng tôi đã không nhận được tin gì của Thanh tra Japp cho tới buổi chiều hôm sau. Ông ta tới chỗ chúng tôi vào khoảng chín giờ. Tôi nhận ra ngay tâm trạng của ông ta là có cường điệu với những tin tức mới có.
"Tốt lắm, ông bạn" - Ông Poirot nói - "Mọi việc tiến triển tốt chứ? Nhưng mà đừng có nói với tôi rằng ông đã tìm thấy cái xác của ông Davenheim trong hồ đấy nhé, bởi vì tôi sẽ không tin ông đâu".
"Chúng tôi không tìm thấy xác, nhưng lại thấy quần áo của ông ta... bộ đồ ông ta mặc ngày hôm đó. Ông nói sao về điều này?"
"Còn quần áo nào khác trong nhà bị mất không?"
"Không, người hầu của ông ta xác nhận điều này. Những gì còn lại trong tủ quần áo của ông ta vẫn còn nguyên vẹn. Còn một việc nữa. Chúng tôi đã bắt giữ Lowen. Một người giúp việc có bổn phận khóa các cửa sổ trong phòng làm việc qua ngả vườn hoa hồng khoảng sáu giờ mười lăm. Đó là khoảng mười phút trước khi ông Lowen rời khỏi ngôi nhà này".
"Ông ta nói về điều đó như thế nào?"
"Đầu tiên ông ta phủ nhận lời khai cho rằng ông ta đã rời khỏi phòng làm việc. Nhưng khi chị giúp việc xác nhận thì ông ta nói mình quên là có ra đứng bên ngoài cửa sổ để ngắm loại hoa hồng lạ. Chẳng khác gì một câu chuyện bệnh hoạn! Và có bằng cớ mới nhất ló dần ra ánh sáng để chống lại ông ta. Ông Davenheim luôn luôn đeo một chiếc nhẫn lớn có gắn một viên kim cương trên ngón tay út phải. Đúng vậy, chiếc nhẫn ấy đã được đem cầm ở Lon-don tối thứ bảy đó bởi một người đàn ông mang tên là Billy Kellett. Tên này thì khá quen thuộc với cảnh sát... vì mới ba tháng trước, hồi mùa thu, hắn ta đã nẫng của một quí ngài chiếc đồng hồ đeo tay. Được biết anh ta đã mang chiếc nhẫn đi cầm cả năm chỗ khác nhau, chỉ có chỗ cuối cùng mới chịu cầm, rồi khi chếnh choáng vì say rượu, anh ta đã tấn công một cảnh sát, hậu quả là anh ta bị bắt giam. Tôi đã cùng thanh tra Miller xuống Bow Street gặp anh ta. Anh ta đã tỉnh rượu và tôi không hoàn toàn thỏa mãn khi trấn áp anh ta để khép anh ta có dính líu đến án mạng. Đây là lời khai của anh ta, một lời khai nhiều lạ lùng:
“Anh ta đã tới trường đua ngựa Entiield hôm thứ bảy, mà tôi dám nói rằng anh ta tới đó vì vụ này hơn là để cá cược. Hơn nữa, anh ta lại gặp một ngày xui xẻo thì làm gì có may mắn nào. Anh ta đã đi lang thang theo đường Chingside, rồi ngồi nghỉ tại một cái rãnh trước khi vào làng. Ít phút sau, anh ta thấy một người đàn ông đi trên đường làng, mà theo anh ta mô tả đó là một người da sậm, nhiều râu, ăn diện rất bảnh.
“Kellett núp sau một đống đá bên đường. Lúc người này đến chỗ anh ta thì dừng lại, nhìn trước nhìn sau và nhận thấy con đường hoàn toàn vắng vẻ, ông ta móc trong túi ra một vật nhỏ rồi ném nó v&agrav phiêu lưu tìm tòi một giải pháp, nếu cả chúng ta chưa thấy ra điều đó, thì đó chính là mấu chốt của một sự kiện hết sức kỳ lạ. Tôi xin ông đừng tấn công tôi nếu tôi hỏi ông thêm một câu hỏi nữa: Đó là ông có hoàn toàn chắc chắn rằng ông không bao giờ rời khỏi chiếc va li của mình khi nó đang mở không?
Philip Ridgeway chỉ nhìn ông Poirot mà không nói gì, còn ông ta thì khoa tay bày tỏ cử chỉ xin lỗi:
- À, nhưng điều này có thể xảy ra đây, tôi đảm bảo với ông như vậy! Hay lắm, những tờ ngân phiếu bị trộm từ va li. Thế thì kẻ trộm sẽ dùng nó để làm gì? Làm sao mà kẻ đó dám mang nó lên bờ chứ?
“À! - Ridgeway kêu lên - Đúng quá. Thế nào nhỉ? Tôi nghe mấy nhân viên hải quan cũng đã nói vậy... giống như mọi linh hồn rời khỏi tàu đều phải được chải qua cái lược chải chí ấy mà.
- Còn những tờ ngân phiếu kia, nếu tôi gom lại, nó sẽ là một gói to đùng phải không?
- Chắc chắn vậy rồi. Chúng không thể được giấu mãi trên tàu... và trong một cách nghĩ nào đó, chúng ta cũng biết số ngân phiếu ấy sẽ được dàn xếp để bán đi trong vòng nửa giờ khi con tàu Olympia đến, trước đó tôi vờ gọi điện rao bán. Một nhà kinh doanh chứng khoán hứa mua ngay khi tàu Olympia cập bến. Nhưng ông cũng không thể nào gửi những tờ ngân phiếu này qua đường điện thoại được hết.
- Đâu bằng đường điện thoại, chỉ cần cọ sát vào mạn tàu thôi, được không?
- Chỉ thủy thủ đoàn mới làm được như thế thôi, nhưng người ta đã báo động cả rồi. Tôi cũng đã bị biết bao người giám sát trên đường. Lạy Chúa tôi, thưa ông Poirot, nội điều này cũng đủ cho tôi điên mất! Người ta đã bắt đầu cho rằng tôi là kẻ cuỗm số ngân phiếu ấy.
- Ông cũng bị lục soát như mọi người khi lên bờ chứ? - Ông Poirot lịch sự hỏi.
- Phải.
Người thanh niên này trả lời và nhìn ông Poirot đầy khích động.
- Ông chưa hiểu ý tôi muốn nói. Tôi thấy... - Ông Poirot nói và mỉm cười một cách khó hiểu - Nào, bây giờ tôi muổn hỏi một vài điều về ngân hàng đây.
Ridgeway móc ra tờ danh thiếp và ngượng nghịu nói:
- Ông viết mấy chữ vào đây thì cậu tôi sẽ đến gặp ông ngay.
Ông Poirot nói lời cảm ơn anh ta, chào từ biệt cô Farquhar rồi chúng tôi đi ra ngoài hướng về phố Threadneedle, nơi trụ sở chính của London và Scot-land Bank. Đưa danh thiếp của Ridgewav ra, chúng tôi được mời qua một mê cung với những quầy, những bàn giấy, những ghi-sê của các kế toán thu ngân và phát ngân trước khi lên tầng một, tới một gian phòng nhỏ, là nơi Tổng giám đốc tiếp chúng tôi. Đó là hai con người nghiêm nghị và lịch sự, cũng là những người sáng lập ra hai ngân hàng này. ông Vavasour là người có bộ ria mép bạc trắng, còn ông Shaw thì mặt mũi nhẵn nhụi.
- Tôi biết ông là một thám tử tư nghiêm túc, đúng không? - Ông Vavasour nói - Đúng vậy. Đúng lắm. Tất nhiên chúng tôi tự đặt mình trong bàn tay của sở Scotland Yard mà. Thanh tra Mc Neỉl cũng đang điều tra vụ này. Tôi tin tưởng ông ấy là một sĩ quan tài ba.
“Tôi cũng tin chắc điều đó - ông Poirot lễ phép nói - Ông có thể thay mặt cho người cháu của ông vui lòng trả lời tôi một ít câu hỏi, được không ạ? Về chuyện cái ổ khóa, ai đã đặt hãng Hubbs's thiết kế vậy?
- Chính tôi - Ông Shaw trả lời - Tôi không tin tưởng một cộng sự nào trong mấy việc này. Chìa khóa thì ông Ridgeway giữ một, còn hai chiếc kia do đồng nghiệp của tôi và tôi giữ.
- Và không có nhân viên nào khác được sờ tới chứ?
Ông Shaw quay nhìn ông Vavasour như dò hỏi.
- Tôi tin một cách tuyệt đối là chúng vẫn nằm trong tủ sắt an toàn nơi mà chúng tôi đã để chúng vào đấy hôm 23 - Ông Vavasour trả lời - Đồng nghiệp của tôi không được khỏe từ nửa tháng nay... đúng hơn là từ hôm tiễn Philip đi, ông ấy chỉ mới vừa khỏi bệnh đây thôi.
- Bệnh viêm cuống phổi ác tính cũng không phải là trò đùa đối với những người ở tuổi tôi - Ông Shaw lộ vẻ rầu rĩ - Nhưng tôi sợ ông Vavasour quá vất vả vì công việc khi tôi vắng mặt, đặc biệt là trong trường hợp đáng lo lắng này thì càng gay go hơn bất cứ thứ gì.
Ông Poirot hỏi thêm mấy câu nữa. Tôi phán đoán rằng ông ấy đang cố gắng đánh gỉá cho thật chính xác sự thân thiện giữa ông cậu và thằng cháu. Ông Vavasour trả lời trong sự cẩn trọng và che chở. Cháu ông ta là một viên chức được tin cậy của Ngân hàng và ông ta cho biết anh ta không có nợ nần hay gặp khó khăn nào về tài chính cả. Trước đây anh ta đã từng được giao đi thực hiề rời khỏi phòng làm việc.
"Bốn: Nếu các bạn thừa nhận câu chuyện của Billy Kellett nói là thật, Lowen sẽ bị lôi kéo vào những nhận định sai lầm".
Tôi ngừng đọc: "Thế, được không?" - Tôi hỏi, vì tôi cảm thấy tôi đã đặt ngón tay mình lên toàn bộ sự kiện quạn trọng này.
Ông Poirot nhìn tôi có vẻ thương hại, lặng lẽ lắc đầu - "Anh bạn đáng thương của tôi ơi! Với những thứ đó anh không nhận được một sự ban tặng nào đâu! Một chi tiết quan trọng thì anh lại không hề đánh giá! Cũng vì thế, lập luận của anh bị sai".
"Thế nào?".
"Để tôi đưa ra cho anh bốn luận điểm: Một, ông Lowen không bao giờ có thể tin rằng ông ta có cơ hội để mở được cái tủ an toàn. Ông ta đến đó vì một cuộc trao đổi công việc. Ông ta không thể tiên đoán được rằng ông Davenheim sẽ vắng mặt vì đi gửi thư và do đó mà ông ta được ở một mình trong phòng làm việc!"
"Ông ta có thể tận dụng thời cơ" - Tôi suy luận.
"Còn đồ nghề đâu? Một thượng lưu ở thành phố không phải lúc nào cũng có dịp để mang cái túi đồ nghề kè kè theo mình để chờ một cơ hội hành động! Và người ta không thể cắt cái tủ sắt an toàn đó bằng một lưỡi dao gọt bút chì, anh nghe rõ chứ!"
'Thôi được, luận điểm thứ hai thì như thế nào?"
"Anh nói Lowen có mối ác cảm đối với ông Davenheim. Anh nghĩ sao khi nói vậy trong lúc Lowen cũng một đôi lần gặt hái được thành công từ ở chỗ ông này: Nói cho đúng hơn, trong mối giao dịch này ông ta thu được nhiều lợi nhuận. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, anh cũng không thể vì ác cảm mà chống lại người giúp anh kiếm ra lợi lộc... Đó chỉ là cách suy luận của những người khác về việc đó thôi. Cũng chưa có cái gì đáng gọi là ác cảm có thể có đối với ông Davenheim".
''Được, nhưng ông không thể phủ nhận rằng ông ta đã nói láo khi cho rằng ông ta không hề rời khỏi phòng làm việc?"
"Không. Nhưng ông ta có thể bị ép để nói thế. Nhớ lại xem, bộ quần áo của người mất tích vừa
được tìm thấy trong hồ nước. Dĩ nhiên, thật bình thường là ông ta phải làm một điều tốt hơn là nói thật".
"Còn điểm thứ tư?"
"Cái này thì tôi đề cao anh. Nếu lời khai của Kellett là sự thực, Lowen sẽ bị lôi kéo vào những nhận định sai lầm. Đó là cái làm cho vụ này có nhiều thú vị".
"Vậy là tôi đã đánh giá đúng một sự kiện quan trọng"
"Có lẽ... nhưng anh bỏ qua cả hai điểm quan trọng nhất, là những điều mà anh không nghi ngờ tới khi chúng là những đầu mối của toàn bộ vụ việc".
“Tôi van ông, là cái gì vậy?
"Một, sự đam mê chợt lớn lên trong ông Davenheim những năm gần đấy đối với việc mua nữ trang. Thứ hai, chuyến đi Buenos Aires mùa thu vừa qua".
"Ông Poirot, ông đùa đấy à?"
"Hoàn toàn không. À, một thứ sấm sét bất khả xâm phạm, nhưng tôi hy vọng Japp không quên chút nhiệm vụ nhỏ nhoi của tôi".
Nhưng người thám tử ấy cũng không hề quên lời nói như đùa, đã gửi một bức điện về chỗ ông Poirot lúc mười một giờ sáng hôm sau, Poirot nhờ tôi mở ra và đọc: “Ông chồng và bà vợ đã ngủ riêng từ mùa đông năm rồi".
"À!" - Ông Poirot kêu lên - "Và bây giờ chúng ta ở giữa tháng sáu! Tất cả đã được giải quyết xong!".
Tôi chăm chú nhìn ông ta.
"Anh có tiền gửi ở ngân hàng Davenheim và Salmon không anh bạn?"
"Không" - Tôi trả lời mà rất ngạc nhiên - "Sao thế?"
"Bởi vì tôi sẽ khuyên anh rút ra.., trước khi quá muộn".
"Tại sao, ông nghi ngờ điều gì vậy?"
"Tôi nghĩ tới một vụ phá sản tồi tệ trong vài ngày nữa.., mà có lẽ sớm hơn. Điều này cũng nhắc tôi rằng chúng ta nên mau chóng đáp lễ cho Japp đi. Nhờ anh đưa tôi cái bút chì và một mấu giấy đánh điện tín. Thế này nhé! "Khuyên ông rút hết tiền gửi ngân hàng vì công vụ đang thực hiện". Làm thế sẽ giúp cho ông Japp tốt bụng này suy nghĩ đây! Và ông ta sẽ mở mắt ra... mắt sẽ mở to hơn! Ông ta sẽ còn nhận định quá hời hợt như thế... cho tới mai hoặc mốt!".
Tôi vẫn còn hoài nghi, nhưng ngày hôm sau tôi bị buộc phải nể phục người bạn già có năng lực khác thường này: dòng chữ lớn trên các báo đều nói đến sự thất bại của ngân hàng Davenheim làm xôn xao dư luận. Sự mất tích của nhà tài chính nổi tiếng dù được nhận định theo khía cạnh nào cũng được kết luận là có dính dáng đến vấn đề tài ;nh cửa bật mở ra và ông Japp chạy ùa vào, ông ta thả rơi trên bàn tờ báo và bức điện.
"Làm sao mà ông biết được vậy, ông Poirot? Những điểm sáng nào giúp ông biết được?"
Poirot thản nhiên nhìn ông ta mỉm cười "À, ông bạn thân mến, sau bức điện của ông sự việc đã rõ cả. Ngay từ ban đầu ông thấy không, việc cái tủ an toàn bị cạy mở gây nhiều chú ý với tôi. Nữ trang, tiền mặt, ngân phiếu cầm tay... tất cả đều đã cất giữ ở đó... bởi ai? Được ông Davenheim đáng kính người mà ông sẽ nói là nhân vật số Một trông coi những thứ đó. Điều đó gần như chắc chắn là ông ta cất giữ chúng để cho... chính ông ta! Còn thêm cái sự đam mê mua nhiều nữ trang mấy năm vừa qua của ông ta nữa! Đơn giản quá! Ngân khoản mà ông ta biển thủ được, ông ta dành để mua nữ trang, rất giống như để chuyển đổi chúng thành một bản sao khác, dưới một cái tên khác, và số tài sản giá trị khổng lồ này vẫn bình yên ở một nơi cho tới một ngày đẹp trời, khi mọi người đi tìm dấu vết của nó. Sắp xếp đâu đó xong rồi, ông ta gài bẫy ông Lowen. Ông ta khoan một cái lỗ vào tủ an toàn rồi ra dặn mời người khách vào phòng làm việc khi ông này đến và ông ta bỏ đi khỏi nhà... nhưng đi đâu?". Ông Poirot ngừng nói, thò tay ra bóc một quả trứng luộc.
Ông lại cau mày - "Thế là âm mưu của ông ta không thể xác minh được" - Poirot lại thì thầm - "Đó là gắp lửa bỏ tay người hay là con gà mái đã đặt quả trứng vào cái ổ khác!"
"Không thể coi việc đó như những quả trứng được" - ông Japp xúc động nói - "Cứ để cho họ đặt lên rồi họ dọn đi nếu họ thích như thế. Tiếp theo, ông bạn ấy đi đâu, ông có biết không?"
"Chà, ông ta đi trốn. Cái đầu ông Davenheim này có lẽ có vấn đề rồi".
"Ông có biết ông ta trốn ở chỗ nào không?"
"Biết chứ! Rất mưu trí!"
"Tròi ơi, nói đi nào".
Ông Poirot nhặt một con sò trong đĩa đổ bỏ nó vào cái chén ăn trứng, rồi úp cái vỏ trứng lên trên. Cử chỉ đó như bao hàm một ý nghĩa và ông ta mỉm cười vì cách thể hiện tinh tế ấy trước khi thân mật nhìn thẳng vào hai chúng tôi.
“Nghe này, các bạn, các bạn là những người thông minh. Cứ thử đặt câu hỏi với mình, cũng như tôi đã tự hỏi là, nếu mình là ông ta, mình sẽ trốn đi đâu? Hastings, anh nói sao?"
“Nếu là tôi, tôi sẽ chưa vội chuồn đi ngay. Tôi phải ở London... giữa trung tâm của mọi thứ trên đời này, đi lại bằng xe điện, hoặc xe buýt, 10 ăn 1 thì tôi cũng không bao giờ bị nhận ra. An toàn nhất là ở giữa đám đông mà.
"Tôi không đồng ý - Japp phản đối - Phải chuồn đi ngay lập tức... đó là cơ hội duy nhất. Phải xếp đặt sẵn mỗi bước đi trong đầu. Tôi phải có được một con tàu với động cơ tốt để tôi tới một nơi nào đó ngoài các ngã tư của thế giới trước khi cuộc săn lùng tôi bắt đầu!"
Rồi cả hai chúng tôi cùng nhìn ông Poirot: "ông nghĩ sao?".
Ông Poirot vẫn im lặng một lúc lâu truớc khi nụ cười chợt hiện lên trên nét mặt lạ lùng.
"Này, các bạn nếu tôi trốn ở chỗ cảnh sát, thì các bạn có biết chỗ tôi trốn là đâu không? Trong trại giam đấy!".
"Sao?".
"Ông đi kiếm Davenheim để nhốt vào tù, thế ông không bao giờ muốn thấy ông ta vào ngồi trong đó sao?"
"Ý ông muốn nói gì vậy?"
"Ông đã nói với tôi rằng bà Davenheim là một người đàn bà kém thôngminh. Tuy nhiên tôi vẫn nghĩ rằng nếu ông đưa bà ta tới Bow Street cho bà ta nhìn mặt người đàn ông tên là Billy Kellett, bà ta sẽ nhận diện được người này! Dù cho người này đã cạo hết râu ria, có đôi mắt đục với mái tóc cắt ngắn. Phụ nữ gần như luôn luôn nhận ra chồng mình, trong khi cả thế giới có thể bị đánh lừa".
"Billy Kellett ư? Nhưng anh ta là tên mà cảnh sát quá biết!".
"Tôi chưa nói với ông rằng ông Davenheim là một người thông minh sao? Đầu óc ông ta đã chuẩn bị cho việc này từ lâu... Mùa thu rồi ông ta không ở Buenos Aires đâu... ông ta đóng vai một gã tên Billy Kellett làm một vụ cách đây ba tháng để bị bắt, thế nên lần này cảnh sát đâu nghi ngờ gì nữa. Ông hãy nhớ, đóng xong màn kịch này ông ta sẽ có một tài sản khổng lồ khi được thả tự do. Đó là cái giá đáng kể khi mọi chuyện trót lọt. Chỉ có..."
"Sao ạ?"
"À, về sau ông ta vẫn phải mang râu và tóc giả, làm sao cho giống một lần nữa, v&agra quen thiếu mạch lạc mọc lên anh từ bao giờ vậy, Hastings. Chỉ vì có mỗi một yếu tố của sự việc này làm tôi phải suy nghĩ thôi. Nếu Ridgevvay chính là kẻ trộm số tiền ấy... dù sao, vẫn có khả năng như thế lắm... thì vụ án này tuyệt vời biết bao nhiêu, phần việc sẽ rất đúng bài bản.
- Nhưng sẽ không hay chút nào cho cô Farquhar.
- Có thể anh nói đúng. Vì thế mọi việc đều phải vì cái gì tốt đẹp nhất. Nghe này, Hastings, chúng ta hãy trở lại với vụ án này đi. Có thể thấy rõ anh tối dạ quá đấy. Cái hộp tiền rơi khỏi chiếc va li và bốc hơi mất tiêu - như lời cô Farquhar đã nói - chúng ta hãy gạt bỏ cái sự bốc hơi ấy đi, bởi nó đâu có chút khoa học nào trong thời đại này, mà phải chú ý đến cái gì có thể làm ra một việc như thế. Mọi người xác nhận điều không thể tin được ấy là những kẻ không biết đâu là bờ bến nữa.
- Đúng, nhưng chúng ta biết...
- Anh cũng có thể biết hở, Hastings. Tôi thì không. Tôi phải chọn ra một khung cảnh từ chỗ khó tin nổi, mà nó khó tin thật. Chỉ còn lại có hai điều là có thể thôi; là giấu tiền đâu đó trên tàu... cũng là điều khó thực hiện đấy... hoặc là ném nó xuống biển thôi.
- Ý ông muốn nói là làm cái việc như đóng nút chai vậy chứ gì?
- Không cần gì đóng nút chai.
Tôi chăm chú nghe tiếp.
- Nhưng nếu những tờ ngân phiếu này được ném xuống biển, thế thì chúng đâu được rao bán ở New York.
- Tôi khâm phục cái đầu đầy lý luận của anh đấy, Hastings. Những tờ ngân phiếu đã được bán ở New York, thế thì chúng đâu bị ném xuống biển. Anh cũng biết là chúng ta phải đi từ đầu mối nào chứ?
- Đó là nơi chúng ta bắt đầu.
- Không đời nào! - Ông Poirot thốt lên lời phủ nhận bằng tiếng Pháp rồi tiếp - Nếu hộp tiền được ném xuống biển và nó cũng được bán ở New York thì cái hộp được ném đi đó không có tờ ngân phiếu nào. Có bằng chứng nào cho thấy cái hộp đó có chứa ngân phiếu không? Hãy nhớ lại xem, Ridgeway nói không bao giờ anh ta mở nó ra từ lúc được giao tại London.
- Phải, nhưng mà...
Ông Poirot khoa tay:
- Hãy để tôi nói tiếp. Lần cuối cùng những tờ ngân phiếu được thấy đúng là những tờ ngân phiếu thì chính là buổi sáng ngày 23, tại văn phòng của ngân hàng London và Scotland. Chúng tái xuất hiện tại New York nửa giờ sau khi tàu Olympia cập bến, thuộc sở hữu của một người đàn ông trước khi, tôi nói là trước khi, con tàu vào bến. Thử nghĩ xem nào, những tờ ngân phiếu không bao giờ có mặt trên tàu Olympipa ấy phải không? Có nhiều cách để chúng bay đến New York lắm chứ gì? Đúng vậy, chiếc Gigantic cũng rời Southampton cùng một ngày như chiếc Olympia, nhưng lộ trình của nó tiến thẳng ngả Đại Tây dương. Nếu chuyển số ngân phiếu này theo tàu Gigantic, chúng sẽ tới New York một ngày trước khi chiếc Olympia đến nơi. Mọi việc quá rõ ràng. Bản thân vụ án đã tự giải thích điều đó. Chiếc hộp niêm phong chỉ là đồ giả, đồ bù nhìn mà thôi, và nó đã được tráo ngay tại văn phòng của Ngân hàng. Để đánh tráo cái hộp đó là một điều rất dễ dàng cho một trong số ba người đàn ông có mặt lúc niêm phong. Hay vậy đó! Những tờ ngân phiếu đã được chuyển đến New York cho đồng bọn, với lời dặn là bán ngay khi tàu Olympia vào cảng, nhưng phải có một người cùng đi trên tàu Olympia đề bày ra vụ trộm này.
- Nhưng sao phải thế?
- Bởi vì nếu Ridgeway bất ngờ mở hộp tiền ra thì sẽ phát hiện ngay rằng đó là cái hộp bị đánh tráo, và sẽ tuyên bố về sự gian trá từ London. Vậy thì người đàn ông bám theo ở kế phòng anh ta phải làm việc đó, tạo ra dấu vết như một vụ trộm bẻ khóa nhưng cuối cùng ông ta chỉ dùng chìa khóa giả để mở va li, lấy cái hộp đựng tiền ném xuống biển và đợi đến phút chót mới rời khỏi tàu để lên bờ. Bình thường ông ta phảo đeo kính đen để giấu đôi mắt, giả như người tàn phế để phòng rủi ro khi nhỡ phải đối mặt với Ridgeway. Có lẽ ông ta lên bờ xong thì cũng đáp ngay chuyến tàu đầu tiên để trở về.
- Nhưng kẻ đó là ai, làm việc cho ai vậy?
- Người đàn ông có chìa khóa giả, người đặt làm khóa, người không hề bị chứng viêm cuống phổi phải nghỉ ốm... Cuối cùng, chỉ là cái ông già Shaw khó ưa ấy. Đôi khi ở những chỗ quyền thế cũng đầy tội ác, bạn à. À, chúng tôi đây này, thưa cô Farquhar. Tôi đã thành công! Cô cho phép chứ?
Và với vẻ mặt tươi cười rạng rỡ, ông Poirot bước tới hôn lên hai bên má của cô gái đang ửng hồng vì mắc cỡ.