Dịch giả: Nguyễn Ngọc Minh
Bên Chúa bên tình

     iữa những khu vườn và những ngọn đồi nối liền hải cảng Beirut với nọi địa Liban có một ngôi đền nhỏ rất cổ kính bằng đá hoa cương trắng, có ô liu, hạnh, và dương liễu vây quanh. Dù ngôi đền này chỉ cách quốc lộ chưa đầy một cây số, vào thời câu chuyện này xảy ra, ít người yêu cổ tích chịu khó đến viếng thăm. Đó là một trong những nơi thanh cảnh, kín đáo và bị lãng quên ở Liban. Chính nhờ cô tịch mà ngôi đền thành nơi nương tựa cho tín đồ, chốn Thiêng Liêng của những người tình cô đơn.
Thoạt bước vào đền người ta thấy trên tường phía đông là một bức tranh Phénicie tạc trong đá ảnh tượng Ishtar, nữ thần ái tình và sắc đẹp, ngồi trên ngai, xung quanh có bầy trinh nữ khỏa thân đứng theo những tư thế riêng. Nàng thứ nhất cầm một ngọn đuốc, nàng thứ hai một cây lục huyền cầm, nàng thứ ba một lư trầm hương, nàng thứ tư một bình rượu bồ đào, nàng thứ năm một cành hồng, nàng thứ sáu một vòng nguyệt quế, và nàng thứ bảy đeo cung tên; tất cả đều cung kính chiêm ngưỡng nữ thần Ishtar.
Trên bức tường thứ nhì khắc một bức tranh khác mới hơn bức tranh trước, biểu tượng Chúa Ki tô bị đóng đanh trên thập tự giá, bên cạnh Ngài là Đức Mẹ sầu thảm, nàng Madelaine và hai người đàn bà khác đang khóc lóc. Bức tranh kiểu Byzantine này chứng tỏ được khắc vào thế kỷ mười lăm hay mười sáu.
Trên tường phía tây có hai ngách hình tròn đưa ánh sáng vào đền rọi trên hai bức tranh, làm chúng trông như cẩn kim nhũ. Giữa đền là một bệ cẩm thạch có những bức tranh cổ bao quanh; một vài bức khó nhận ra dưới những khối huyết đã kết thạch, cho thấy người xưa đã dâng hiến những tế vật trên phiến đá, và xức nước hoa, rượu nho, và dầu lên trên.
Không còn gì khác trong ngôi đền nhỏ đó ngoài sự trầm lặng, thổ lộ cùng người đời những bí ẩn của vị nữ thần, nói lên bằng vô ngôn chuyện bao đời trước và bước thăng trầm của các tôn giáo. Một cảnh tượng như vậy đưa thi sĩ đến một thế giới ngàn trùng cách biệt với thế giới đang sống và làm cho triết gia tin rằng con người bẩm sinh đã mang lòng tín mộ; họ cảm thấy một nhu cầu về điều họ không thể mục kích nên họ vẽ những hình tượng mà ý nghĩa thổ lộ những bí ẩn sâu kín trong lòng cùng những khát vọng về cuộc đời và cái chết.
Trong ngôi đền hoang phế đó tôi gặp Selma mỗi tháng một lần, cùng nàng hàng giờ ngắm những bức tranh trên tường, nghĩ về Chúa bị đóng đinh và suy gẫm về những thanh niên thiếu nữ Phénicie đã sống, đã yêu, và đã thờ phụng cái đẹp trong hình tượng Ishtar bằng cách đốt hương dưới chân nàng và xức nước hoa lên bệ nàng, những người chẳng còn gì lưu lại ngoài cái tên mà bước thời gian nhắc nhở trước khuôn mặt Vô Cùng.
Khó mà viết thành lời kỷ niệm của những giờ tôi gặp Selma - những giờ thần thánh đầy đau đớn, hạnh phúc, sầu não, hy vọng, và khốn khổ.
Chúng tôi gặp nhau âm thầm trong ngôi đền cổ, nhớ lại những ngày xưa, bàn chuyện hiện tại, lo sợ tương lai, và dần dà bộc lộ những bí ẩn giấu kín trong đáy lòng, cùng nhau than thở nỗi khổ đau; và cố an ủi nhau bằng những hy vọng mơ hồ và những giấc mơ buồn thảm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại lặng lẽ lau nước mắt và mỉm cười quên hết chỉ biết có tình yêu; chúng tôi hôn nhau đến chảy tan cả cõi lòng; rồi Selma sẽ ghi một cái hôn thanh khiết trên trán tôi và rót đầy hoan lạc trong tim tôi. Tôi sẽ hôn lại khi nàng nghiêng cổ ngà và gò má ửng hồng như tia bình minh thứ nhất trên trán đồi. Chúng tôi yên lặng ngắm chân trời xa nơi mây nhuộm màu cam của ánh hoàng hôn.
Lời tâm sự của chúng tôi không phải chỉ giới hạn trong chuyện yêu đương. Thỉnh thoảng chúng tôi lại lái sang những đề mục thường nhật và trao đổi tư tưởng. Trong khi trò chuyện Selma nói về địa vị người phụ nữ trong xã hội, vết hằn do các thế hệ trước in sâu trong cá tính họ, mối liên hệ vợ chồng, những chứng bệnh tinh thần và những sa đọa đe dọa cuộc sống lứa đôi. Tôi nhớ nàng nói: “Văn nhân thi sĩ cố tìm hiểu thực chất của người đàn bà, nhưng tới ngày nay họ chưa hiểu những bí ẩn chôn giấu trong lòng nàng, vì họ nhìn nàng qua tấm màn tình dục và chỉ thấy những khía cạnh bên ngoài. Họ quan sát nàng qua tấm kính khuếch đại làm bằng đố kỵ n&g cây trắc bá: trên nấm mồ hồn chàng thấp thoáng bay về đêm đêm để chiêu niệm Selma, nhập vào cây cỏ để cùng cất lời oán thán, nỉ non thương tiếc cuộc ly biệt của Selma người hôm qua còn là một tiết điệu thắm tươi trên làn môi trần thế, nhưng hôm nay đã thành nỗi bí ẩn lặng thinh dưới lòng đất.
Than ôi! Hỡi những người bạn trong thời niên thiếu của tôi! Nhân danh những nàng thục nữ mà các bạn đã yêu bằng cả trái tim, tôi khẩn cầu các bạn hãy đặt một vòng hoa trên nấm mồ bị rẻ rúng của người tôi yêu, bởi những đóa hoa mà các bạn đặt lên mồ Selma sẽ giống những hạt sương mai rơi từ đôi mắt của bình minh trên những cánh hồng khô héo.