Dịch giả: Anh Tô
Chương mười

     ôi rất tiếc vì con bé đã đến đây, và bây giờ nó đã chết”, John Keene - 18 tuổi nói trong tiếng khóc, anh trai của Natalie 10 tuổi. “Ai đó đã giết em gái bé bỏng của tôi”. Thi thể Natalie được tìm thấy vào ngày 14 tháng Năm, bị lèn chặt giữa tiệm thẩm mỹ Cắt-và-Uốn Parlor và cửa hàng ngũ kim Bifty của thị trấn Wind Gap nhỏ bé. Cô bé là đứa trẻ thứ hai bị giết tại đây trong vòng chín tháng qua: Ann Nash, chín tuổi, được tìm thấy tại khe suối gần đó vào tháng Tám năm ngoái. Cả hai cô bé đều bị tên giết người xiết cổ và nhổ hết răng.
“Con bé là một đứa ngây ngô”, John Keene nói, khóc rấm rức, “như một đứa tomboy”. Keene, đã cùng gia đình chuyển từ Philadelphia đến đây vào khoảng hai năm trước, cậu vừa tốt nghiệp trung học, hình dung em gái mình là một cô bé sáng dạ, giàu trí tưởng tượng. Cô bé từng tự sáng tạo ra ngôn ngữ của riêng mình và đã hoàn chỉnh xong bảng chữ cái. “Với một đứa trẻ bình thường khác thì điều này có vẻ ngớ ngẩn”, Keene nói với nụ cười buồn bã.
Chuyện liên quan đến cảnh sát còn ngớ ngẩn hơn: những sĩ quan cảnh sát chính thức ở Wind Gap và Richard Willis, thanh tra phụ trách vụ giết người được điều động từ thành phố Kansas, thừa nhận có vài đầu mối: “Chúng tôi không buộc tội ai cả”, - Willis nói. “Chúng tôi điều tra rất cẩn thận về dân cư trong vùng, nhưng cũng hết sức cân nhắc khả năng những vụ giết người này có thể là việc làm của người bên ngoài”.
Cảnh sát từ chối bình luận đến một nhân chứng tiềm năng, một cậu bé thề thốt rằng đã thấy người bắt cóc Natalie Keene: đó là một phụ nữ. Tuy nhiên, một nguồn tin rất thân cận với cảnh sát lại cho biết, thực tế thì họ tin kẻ giết người là một người đàn ông trong cộng đồng địa phương. Nha sĩ tại Wind Gap, James L. Jellard, 56 tuổi, tán thành ý kiến này, ông cũng nói thêm rằng việc nhổ những chiếc răng “cần rất nhiều sức mạnh. Chúng không thể tự nhảy ra ngoài được”.
Trong khi cảnh sát đang theo sát vụ này, Wind Gap đã cháy hàng khóa an toàn và súng cầm tay các loại. Tiệm ngũ kim ở địa phương đã bán sạch khoảng ba tá khóa an ninh; những tay bán súng săn của thị trấn đã phải xử lý hơn 30 giấy phép dùng súng kể từ khi Keene bị giết. “Tôi nghĩ hầu hết dân địa phương quanh đây đã trang bị súng săn”, Dan R.Sniya, 35 tuổi, chủ tiệm súng lớn nhất thị trấn cho biết. “Nhưng tôi nghĩ tất nhiên là những ai chưa có súng thì họ sẽ trang bị”.
Một cư dân Wind Gap khác đã tăng cường kho vũ khí của mình chính là cha của Ann Nash, Robert, 41 tuổi. “Tôi còn hai đứa con gái và một con trai, chúng phải được bảo vệ”, ông nói. Nash miêu tả đứa con gái út là một đứa sáng dạ. “Đôi khi tôi nghĩ con bé thông minh hơn ông già của nó. Đôi khi con bé nghĩ nó thông minh hơn ông già của nó”. Ông nói con gái mình cũng kiểu tomboy như Natalie, một bé gái thích trèo cây và chạy xe đạp, điều mà con bé vẫn làm khi bị bắt cóc hồi tháng Tám vừa qua.
Cha Louis D. Bluell, cha xứ của nhà thờ Thiên Chúa địa phương nói rằng ông thấy được sự ảnh hưởng của những vụ giết người đối với những cư dân ở đây: số người tham dự lễ ngày Chủ nhật nhiều lên trông thấy, nhiều thành viên trong nhà thờ của ông tìm kiếm lời khuyên cho tâm hồn. “Khi những điều thế này xảy ra, con người cảm thấy thật sự khao khát sự nuôi dưỡng về tinh thần”, ông nói. “Họ muốn biết vì sao những chuyện thế này lại có thể xảy ra”.
Và có lẽ cảnh sát cũng muốn biết như thế.
Trước khi chúng tôi ấn lệnh in, Curry chế giễu tất cả kiểu viết tắt tên lót. Chúa lòng lành, người miền Nam quá yêu quý những nghi thức của họ. Tôi nói rằng thực tế thì Missouri thuộc vùng Trung Tây và ông cười nhạo tôi. Và tôi thì thực chất đang độ tuổi trung niên, nhưng hãy nói với Eileen tội nghiệp khi bà phải xoay xở với chứng viêm thanh mạc của tôi. Ông cũng cắt bỏ gần như toàn bộ trừ những chi tiết chính trong cuộc phỏng vấn với James Capisi. Nó khiến chúng tôi có vẻ tay mơ khi quá chú ý đến một đứa trẻ, đặc biệt là khi cảnh sát không hề cắn câu. Ông cũng cắt bỏ một câu trích dẫn không đâu ra đâu về John của mẹ cậu ta: “Nó là một đứa con trai tốt, lịch sự”. Lời bình luận duy nhất tôi có được từ bà trước khi bị đá ra khỏi cửa, thứ duy nhất làm cuộc viếng thăm khốn khổ đó có vẻ giá trị nhưng Curry nghĩ nó làm xao lãng. Tất nhiên là ông hoàn toàn đúng. Ông cũng khá hài lòng vì cuối cùng chúng tôi cũng có những điểm nghi vấn, “người đàn ông trong cộng đồng địa phương”. “Một nguồn tin rất thân cận với cảnh sát” là một sự bịa đặt, hay đó là một cách nói hoa mỹ, một sự hỗn hợp - mọi người từ Richard cho đến linh mục đều nghĩ rằng một gã đàn ông địa phương làm chuyện này. Tôi không nói với Curry về lời nói dối của mình.
Buổi sáng ngày bài viết được tung ra, tôi nằm trên giường và nhìn chăm chăm vào chiếc điện thoại quay số màu trắng, chờ nó reo lên với những cuộc gọi quở trách. Có thể là mẹ của John, người sẽ vô cùng giận dữ khi phát hiện tôi đã quay sang con trai bà. Hay Richard, vì tôi đã rò rỉ thông tin đây có thể do người địa phương làm.
Vài tiếng đồng hồ im lặng trôi qua trong khi tôi mỗi lúc một mướt mồ hôi, những con mòng bay vo vo ngoài cửa sổ, Gayla lượn qua lại ngoài cửa phòng, xúm xít để được vào trong. Khăn trải giường và khăn tắm luôn được thay hàng ngày, máy giặt đánh bọt không ngừng dưới tầng hầm. Tôi nghĩ đó là thói quen còn sót lại từ cuộc đời của Marian. Đám quần áo xoăn tít khiến chúng tôi quên đi vẻ ướt sũng và thứ mùi u ám toát ra từ cơ thể mình. Vào thời gian học cao đẳng, tôi phát hiện mình thích mùi tình dục. Một buổi sáng nọ, tôi vào phòng một người bạn thì một đứa con trai phóng qua tôi, cười cười và nhét vớ vào túi quần sau. Cô bạn thì nằm ườn trên giường, cáu bẩn và khỏa thân, một chân trần đung đưa dưới tấm trải giường. Thứ mùi ngọt ngào ẩm ướt đó sặc mùi thú vật, như từ góc sâu nhất của hang gấu. Nó gần như xa lạ với tôi, thứ mùi sống động. Thứ mùi gợi nhớ tuổi thơ của tôi được tẩy sạch.
Ngược lại, người gọi cú điện thoại giận dữ đầu tiên lại không phải từ bất kỳ người nào tôi đoán.
“Tôi không thể tin được là chị hoàn toàn loại tôi ra khỏi câu chuyện”, giọng của Meredith Wheeler the thé trong điện thoại. “Chị không hề sử dụng một điều gì tôi nói. Chị thậm chí còn không cho biết tôi đã có mặt ở đấy. Tôi là người đem John đến cho chị, nhớ không?”
“Meredith, chị chưa bao giờ nói sẽ sử dụng những đánh giá của em”, tôi nói, chọc vào sự huênh hoang của cô ta. “Chị xin lỗi nếu làm em nghĩ như thế”. Tôi chèn con gấu Teddy màu xanh dưới đầu, sau đó thấy tội lỗi và kéo nó xuống chân giường. Người ta nên có nghĩa vụ trung thành với những đồ vật tuổi thơ của mình.
“Em chỉ không hiểu tại sao chị không thêm em vào”, cô tiếp tục. “Nếu mọi chuyện là để tìm hiểu xem Natalie như thế nào, chị cần John. Và nếu chị cần John, chị cần em. Em là bạn gái anh ấy, ý em là em thực sự sở hữu anh ấy, chị cứ hỏi bất cứ ai xem”.
“Chà, em và John không phải là điểm tập trung chính của câu chuyện”, tôi nói. Bên cạnh tiếng thở của Meredith, tôi có thể nghe tiếng nhạc rock ballad đồng quê và tiếng đánh nhịp nhịp nhàng cùng tiếng huýt sáo.
“Nhưng chị đề cập đến những người khác ở Wind Gap vào bài báo. Chị đưa Cha Bluell ngớ ngẩn vào. Sao không phải em? John rất đau khổ, và em thật sự quan trọng với anh ấy, đã vượt qua mọi thứ cùng anh ấy. Anh ấy khóc suốt. Em là người đã vực anh ấy dậy”.
“Khi chị viết bài khác cần thêm nhiều ý kiến của người tại Wind Gap, chị sẽ phỏng vấn em. Nếu em có điều gì đó để thêm vào câu chuyện”.
Tiếng đánh nhịp. Huýt sáo. Con bé đang ủi đồ.
“Em biết rất nhiều về gia đình đó, rất nhiều điều về Natalie mà John không nghĩ đến. Hay nói đến”.
“Tuyệt. Chị sẽ liên lạc lại. Sớm thôi”. Tôi dập máy, không mấy dễ chịu với những gì con bé đề nghị. Khi tôi nhìn xuống, nhận ra mình viết “Meredith” theo kiểu nữ tính uốn lượn quanh các vết sẹo trên chân trái mình.
Ngoài hiên, Amma được quấn trong chiếc chăn bông màu hồng ấm áp, trên trán đắp chiếc khăn ẩm. Mẹ tôi cầm chiếc khay bạc đựng trà, bánh mì nướng, và một đống chai lọ trên đó, và bà ép mu bàn tay Amma lên má bà theo một chuyển động vòng quanh.
“Cưng ơi, cưng ơi, cưng ơi”, Adora thì thầm, cả hai đung đưa nhẹ nhàng trên xích đu.
Amma thiu thiu ngủ trong chăn như một đứa trẻ mới sinh, thỉnh thoảng mấp máy môi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại mẹ sau chuyến đi đến Woodberry. Tôi lượn đến trước mặt bà, nhưng bà không rời mắt khỏi Amma.
“Chào Camille”, Amma thì thầm, nhếch miệng lên thành nụ cười.
“Em gái con bệnh. Con bé lo lắng đến phát sốt từ khi con về đây”, Adora nói, không ngừng ép tay Amma theo vòng tròn đó. Tôi hình dung răng trong miệng bà đang nghiến vào nhau.
Tôi thấy Alan đang ngồi trong nhà, nhìn họ qua cửa sổ từ chiếc ghế bành trong phòng khách.
“Con phải làm con bé thấy thoải mái hơn khi ở cạnh con, Camille, con bé chỉ là một đứa trẻ”, mẹ tôi thủ thỉ với Amma.
Một đứa trẻ hay say xỉn. Khi rời khỏi phòng tôi tối qua thì Amma tự xuống nhà uống rượu một lúc lâu. Đó là cách ngôi nhà này hoạt động. Tôi để họ thì thầm với nhau, từ yêu thích ngọ ngoạy ở đầu gối.
“Chào, nhà săn tin”. Richard lượn quanh tôi trong chiếc xe mui kín. Tôi đang rảo bước đến nơi tìm thấy Natalie, kiếm vài chi tiết đặc biệt về những chiếc bóng bay hay giấy ghi chú xung quanh đấy. Curry muốn một bài về “thị trấn đang than khóc”. Nếu không có manh mối gì thêm về những vụ giết người. Dính vào đó thì tốt nhất là nên có vài tiến triển, và phải có sớm.
“Chào, Richard”.
“Bài báo hôm nay hay đấy”. Mẹ kiếp Internet. “Thật vui khi nghe nói cô đã tìm được nguồn tin thân cận với cảnh sát”. Anh ta mỉm cười khi nói vậy.
“Tôi cũng thế”.
“Vào đi, chúng ta có vài việc phải làm”. Anh mở cửa xe bên ghế phụ.
“Tôi có việc riêng phải làm. Hơn nữa làm việc với anh chả đem lại gì cho tôi ngoài những thứ vô ích, những bình luận theo kiểu miễn-bình-luận. Biên tập viên của tôi sắp lôi tôi ra khỏi đây rồi”.
“Chà, chúng ta không thể có cái đó được. Và tôi sẽ không phân tâm bất cứ điều gì cả”, anh nói. “Đi với tôi. Tôi cần hướng dẫn viên về Wind Gap. Đổi lại: tôi sẽ trả lời ba câu hỏi, hoàn chỉnh và thành thật. Tất nhiên là không ghi âm nhưng tôi sẽ thẳng thắn với cô. Nào, Camille. Trừ khi cô có hẹn với nguồn tin cảnh sát của cô”.
“Richard”.
“Không, thật mà, tôi không muốn quấy rầy tình yêu vừa đâm chồi nảy lộc này đâu. Cô và người cộng sự bí ẩn có thể là một cặp đẹp đôi đấy”.
“Câm miệng”. Tôi bước vào xe. Anh dựa vào tôi, kéo dây an toàn và cài lại, dừng lại một giây khi môi anh gần môi tôi.
“Tôi phải giữ cho cô an toàn”. Anh ta chỉ vào quả bóng bay đang nhún nhảy ở khoảng trống tìm thấy xác Natalie. Nó viết chữ Mau Bình Phục.
“Cái đó cho tôi”, Richard nói, “kết luận hoàn hảo của Wind Gap”.
Richard muốn tôi đưa anh ta đến những nơi bí mật của thị trấn, những xó xỉnh mà chỉ có dân địa phương mới biết. Nơi mọi người tụ tập lừa gạt, hút thuốc phiện, nơi những đứa trẻ vị thành niên nốc rượu, hay cư dân mò đến ngồi đồng và quyết định nơi cuộc đời họ rẽ lối. Ai cũng có giây phút đi chệch hướng. Khoảnh khắc của tôi là ngày Marian chết. Ngày tôi nhặt con dao ấy lên cũng là giây phút khó khăn.
“Chúng tôi vẫn chưa tìm được hiện trường vụ giết người lý tưởng xảy ra với cả hai bé gái”, Richard nói, một tay đặt trên vô lăng, tay kia choàng sau ghế tôi. “Nơi nào đó hoang vắng và thực sự bẩn thỉu”. Anh dừng lại. “Xin lỗi, ‘hiện trường giết người lý tưởng’ là cụm từ xấu xa”.
“Thích hợp hơn lò sát sinh”.
“Chà, từ ấy đáng giá đấy, Camille. Ở Wind Gap chắc phải đáng giá hơn [1]”.
“Phải rồi, tôi quên mất những cư dân Kansas City văn hóa đến mức nào”.
Tôi dẫn Richard đến một con đường đầy sỏi cát, cách nơi tìm thấy xác Anna mười dặm về phía Nam và chúng tôi rảo bước trong đám cỏ cao tới đầu gối. Tôi phẩy tay sau cổ trong bầu không khí ẩm ướt, giật mạnh tay áo, xắn lên cánh tay. Tôi tự hỏi không biết Richard có ngửi được mùi say xỉn tối qua giờ đang theo mồ hôi tỏa ra trên da tôi không. Chúng tôi đi bộ vào rừng, xuống đồi rồi lại trèo lên. Như mọi khi, đám cây bông tỏa ra ánh sáng lờ mờ với những cơn gió nhẹ tưởng tượng. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng những con thú lẩn khuất vào rừng, một con chim đột ngột bay lên. Richard bước đi bình ổn cạnh tôi, nhổ đám lá và chầm chậm xé nát chúng dọc đường đi. Lúc đến nơi, quần áo chúng tôi sũng nước, mặt nhễ nhại mồ hôi. Đó là trường học một phòng kiểu cổ, nghiêng nhẹ sang một bên, dây nho quấn phía trong và ngoài các thanh gỗ.
Bên trong, một nửa tấm bảng đen được neo dính vào tường. Nó thể hiện những hình vẽ phức tạp về các dương vật cắm vào âm đạo - không có cơ thể người. Lá khô và vỏ chai rượu tung tóe trên sàn, vài lon bia cũ rỉ sét có từ thời trước khi có nắp bật. Vài chiếc bàn nhỏ còn sót lại. Một cái được phủ khăn, một bình hoa hồng đã chết nằm ở giữa. Một nơi đáng thương dành cho bữa tối lãng mạn. Tôi hy vọng nó đã diễn ra suôn sẻ.
“Đẹp đấy”, Richard nói, chỉ vào một trong những bức tranh vẽ bằng chì màu. Chiếc áo xanh nhạt dính sát vào người anh ta. Tôi có thể thấy khuôn ngực rắn chắc.
“Rõ ràng dây là nơi tụ tập của lũ trẻ”. tôi nói. “Nhưng nó gần suối, nên tôi nghĩ anh nên xem qua nó”.
“Mm-hm”. Anh nhìn tôi trong im lặng. “Khi trở về Chicago, cô sẽ làm gì lúc không làm việc?” Anh dựa vào bàn, rút bông hồng ra khỏi bình và bắt đầu bóp vụn những chiếc lá.
“Tôi sẽ làm gì à?”
“Cô có bạn trai không? Tôi cá là có”.
“Không. Tôi đã không có bạn trai khá lâu rồi”.
Anh bắt đầu bứt những cánh hoa và tôi không đoán được anh có hứng thú với câu trả lời của tôi không. Anh chỉ nhìn tôi và mỉm cười.
“Cô là người cứng rắn, Camille. Cô không nhận nhiều từ người khác. Cô bắt tôi làm việc. Tôi thích điều đó, nó rất khác biệt. Gần như không thể bắt con gái các cô im miệng được. Tôi không có ý xúc phạm”.
“Tôi không cố tỏ ra khó khăn. Đó chỉ là câu hỏi tôi không mong đợi”, tôi nói, thu chân lại trong khi trò chuyện. Tán gẫu và giễu cợt. Chuyện này thì tôi có thể làm được. “Anh có bạn gái không? Tôi cá là anh có hai cô. Một tóc vàng và một tóc đen, để phối với cà vạt”.
“Sai hết. Không có bạn gái và cô nàng cuối cùng của tôi là tóc đỏ. Cô ấy chẳng hợp với thứ gì tôi có cả. Phải đi thôi. Gái đẹp thì tệ thật”.
Thông thường, Richard là kiểu con trai tôi không thích, được sinh ra và nuôi dạy trong xa hoa: vẻ ngoài, sự thanh lịch, thông minh, tất nhiên là giàu có nữa. Kiểu đàn ông đó không bao giờ hứng thú với tôi; họ không có giới hạn và thường là những kẻ hèn nhát. Họ tránh xa bất kỳ tình huống nào khiến mình xấu hổ hay lúng túng một cách bản năng. Nhưng Richard lại không khiến tôi nhàm chán. Có thể vì nụ cười của anh ấy có vẻ gian manh. Hay vì anh ấy xoay sở cuộc sống mình quanh những thứ xấu xa.
“Cô từng đến đây khi còn nhỏ phải không Camille?” Giọng anh trầm, có vẻ hơi xấu hổ. Anh nhìn hướng khác và ánh nắng ban trưa khiến tóc anh vàng rực lên.
“Chắc chắn rồi. Nơi này rất hoàn hảo cho những hoạt động phi pháp mà”.
Richard đến gần, đưa cho tôi bông hồng cuối cùng, lướt ngón tay lên gò má mướt mồ hôi của tôi.
“Tôi có thể thấy điều đó”, anh nói. “Lần đầu tiên tôi ước gì mình đã lớn lên ở Wind Gap”.
“Anh và tôi có thể chơi với nhau khá tốt”, tôi nói, và thực sự có ý đó. Đột nhiên tôi cảm thấy buồn vì mình chưa hề biết cậu nhóc nào như Richard khi trưởng thành, ít nhất là ai đó khiến tôi bị thách thức một chút.
“Cô biết cô rất xinh đẹp, đúng không?” Anh hỏi. “Tôi đã nói với cô nhưng cô gần như gạt bỏ điều đó. Thay vào đó tôi nghĩ...”
Anh hướng đầu tôi về phía anh và hôn tôi, ban đầu thì chầm chậm và rồi, khi tôi không quay mặt đi, anh kéo tôi vào lòng, đưa lưỡi vào miệng tôi. Lần đầu tiên tôi hôn ai đó trong ba năm qua. Tôi đưa tay vuốt ve bờ vai của anh, bông hồng trượt xuống lưng anh. Tôi kéo cổ áo của anh ra và liếm.
“Tôi nghĩ em là người con gái đẹp nhất tôi từng gặp”, anh nói, ngón tay lướt qua hàm dưới của tôi. “Lần đầu thấy em, tôi thậm chí không thể suy nghĩ gì trong ngày hôm đó. Vickery đã đuổi tôi về”. Anh cười.
“Em cũng nghĩ anh rất đẹp trai”, tôi nói, nắm lấy tay anh để chúng không chạy loạn. Áo tôi mỏng, tôi không muốn anh nhận ra những vết sẹo.
“Em cũng nghĩ anh rất đẹp trai?” Anh cười. “Chúa ơi, Camille, em thật sự không chơi trò lãng mạn nhỉ?”
“Em chỉ bị mất cảm giác thôi. Ý em là, đầu tiên đây là ý tồi, em và anh”.
“Khủng khiếp”. Anh hôn dái tai tôi.
“Vậy anh có muốn đi loanh quanh đây không?”
“Cô Preaker, tôi đã lùng sục nơi này từ tuần thứ hai sau khi đến đây. Tôi chỉ muốn đi dạo với em thôi”.
Richard cũng khám phá thêm hai nơi khác mà tôi đã hình dung sẵn trong đầu, và đúng như thế. Một chòi săn ở phía nam khu rừng còn vương lại sợi ruy băng ca-rô màu vàng mà cha mẹ của hai đứa bé không ai nhận ra. Ở một con dốc thẳng đứng ở phía đông Wind Gap, bạn có thể ngồi và nhìn thấy dòng sông Mississippi bên dưới, vẫn còn lưu lại dấu giày trẻ con không khớp với bất cứ đôi giày nào của chúng. Vài giọt máu khô rơi lại bên thảm cỏ, nhưng nhóm máu cũng không trùng với cả hai. Một lần nữa tôi lại thấy mình vô dụng. Và Richard cũng không tỏ vẻ quan tâm. Dù vậy chúng tôi cũng lái xe đến con dốc, mang theo nửa tá bia và ngồi nhìn dòng sông Mississippi trôi lững lờ như con rắn lười biếng dưới ánh mặt trời.
Đây là một trong những nơi yêu thích nhất của Marian khi con bé có thể rời khỏi giường. Trong một lúc, tôi có thể cảm nhận trọng lượng trẻ con của em trên lưng mình, nghe tiếng em khúc khích bên tai, vòng tay mảnh khảnh ôm chặt lấy vai mình.
“Em sẽ mang những bé gái đi đâu để giết chết chúng?” Richard hỏi.
“Xe hay nhà em”, tôi nói với vẻ ngạc nhiên.
“Và để nhổ hết mấy cái răng?”
“Nơi nào đó có thể dọn dẹp sạch sẽ. Tầng hầm. Bồn tắm. Trước đó bọn trẻ đều đã chết đúng không?”
“Đây là một trong những câu hỏi của em à?”
“Đúng vậy”.
“Chúng đều đã chết”.
“Chết bao lâu thì đủ để máu không bắn ra ngoài?”
Một chiếc xà lan đang lượn lờ trên sông bắt đầu đổi hướng, nhiều người xuất hiện trên boong với những mái chèo dài để nó xoay đúng hướng.
“Với Natalie thì có máu. Răng bị nhổ ngay sau khi xiết chết”.
Tôi hình dung Natalie Keene bị nhấn chìm trong bồn tắm khi ai đó cạy răng em, đôi mắt nâu đông cứng mở trừng trừng. Máu chảy trên cằm Natalie. Một bàn tay cầm kềm. Một bàn tay phụ nữ.
“Anh có tin James Capisi không?”
“Anh thật sự không biết, Camille, và anh không tung hỏa mù với em. Thằng nhóc bị dọa mất hồn. Mẹ nó đã gọi cho bọn anh nhiều lần yêu cầu cử người bảo vệ. Nó tin rằng người phụ nữ đó sẽ bắt nó. Anh thử dọa nó một chút, gọi nó là đồ dối trá, thử xem nó có thay đổi câu chuyện không. Chẳng có gì cả”. Anh quay lại để đối diện với tôi. “Anh nói cho em biết điều này: James Capisi tin vào câu chuyện của nó. Nhưng anh không biết nó có thật không. Nó không đúng với bất kỳ hồ sơ nào mà anh từng nghe đến. Nó có vẻ không ổn với anh. Trực giác của cớm. Em đã nói chuyện với nó, em nghĩ sao?”
“Em đồng ý với anh. Em tự hỏi có phải thằng bé quá say mê với căn bệnh ung thư của mẹ nó và tạo ra nỗi sợ theo cách đó không. Em không biết. Thế còn John Keene?”
“Hồ sơ sạch bong: đúng tuổi, thành viên của một trong những gia đình nạn nhân, có vẻ quá suy sụp sau mọi chuyện”.
“Em gái cậu ấy bị giết”.
“Đúng. Nhưng... anh là đàn ông và anh có thể nói cho em biết bọn con trai tuổi vị thành niên thà chết còn hơn khóc trước mặt mọi người. Còn cậu ta thì bù lu bù loa khắp thị trấn”. Richard thổi sáo bằng chai bia của anh ấy, gọi một chiếc tàu kéo đang chạy qua.
Trăng đã khuất, tiếng ve sầu rỉ rả trong rừng khi Richard cho tôi xuống trước nhà. Tiếng kẽo kẹt của chúng hợp với nhịp đập rộn ràng giữa hai chân khi tôi để anh chạm vào. Kéo dây kéo xuống, tay tôi dẫn anh chạm vào âm vật của mình và giữ anh ở yên đó khám phá và tránh để anh chạm vào đường lằn của những vết sẹo. Chúng tôi cởi quần áo cho nhau như một cặp học sinh, làm tình ở ngoài đùi trái của tôi khi lên đỉnh, và cơ thể tôi nhớp nháp, nồng nặc mùi tình dục khi tôi mở cửa và bắt gặp mẹ đang ngồi ở cuối bậc thang với vò amaretto sour.
Bà mặc chiếc áo ngủ màu hồng tay phồng rất nữ tính và một chiếc nơ lụa quanh cổ. Tay bà cuộn quanh chiếc băng gạc trắng như tuyết một cách thừa thãi, mặc dù đã cố giữ sạch sẽ nhưng chúng đã nhúng sâu vào ly của bà. Bà nhẹ nhàng quay lại khi tôi bước qua cửa, như thể một bóng ma đang đấu tranh có nên biến mất không. Và bà quyết định ở lại.
“Camille. Đến đây ngồi”. Bà vẫy bàn tay bị quấn lùng nhùng về phía tôi. “Không! Lấy cái ly trong bếp đã. Con có thể uống với Mẹ. Với mẹ của con”.
Điều này sẽ rất bất hạnh đấy, tôi lầm bầm khi chộp lấy ly nước. Nhưng ẩn sâu đó là ý nghĩ: thời gian riêng với mẹ! Những chuyện tầm phào thời thơ ấu. Phải chỉnh đốn lại nó mới được.
Mẹ tôi lơ đãng rót rượu nhưng rất hoàn hảo, dừng ngay vạch ly trước khi nó trào ra. Cũng như thế, tôi nhấp môi để nó không trào ra ngoài với một thủ thuật nhỏ. Bà nhìn tôi cười ngớ ngẩn. Dựa vào trụ cầu thang, mẹ xếp chân lại, nhấp môi.
“Mẹ nghĩ cuối cùng mình cũng đã nhận ra tại sao mình không thương con”, bà nói.
Tôi biết bà không thương tôi, nhưng chưa bao giờ nghe bà thừa nhận thế này. Tôi cố thuyết phục rằng mình sẽ cảm thấy hứng thú, như một nhà khoa học đứng trước ngưỡng một phát minh mới, nhưng lại cổ họng thít lại và tôi buộc phải hít thở thật sâu.
“Con làm ta nhớ đến mẹ mình, Joya. Lạnh lùng và xa cách và rất, rất tự mãn. Mẹ ta cũng chưa từng thương ta. Và nếu các con không thương ta, ta cũng không thương các con”.
Một làn sóng giận dữ lướt qua tôi. “Con chưa bao giờ nói mình không thương mẹ, điều đó thật nực cười. Sự nực cười khốn khiếp. Mẹ chính là người chả bao giờ thích con, ngay cả khi con là một đứa trẻ. Con chưa bao giờ cảm nhận được gì ngoại trừ sự lạnh lùng từ mẹ, sao mẹ dám đổ lỗi cho con?” Tôi bắt đầu xát mu bàn tay vào gờ cầu thang. Bà nhìn hành động đó của tôi và cười khinh miệt. Tôi dừng lại.
“Con lúc nào cũng ương bướng, chẳng khi nào dễ thương cả. Ta nhớ khi con lên sáu hay bảy. Ta muốn con cuốn tóc thành lọn để chụp ảnh cho trường. Thay vì vậy con cắt trụi chúng bằng kéo cắt vải của ta”. Tôi không nhớ mình đã làm vậy. Tôi nhớ mình từng nghe kể rằng Ann mới là người làm thế.
“Con không nghĩ vậy đâu, mẹ ạ”.
“Cứng đầu. Như đám con gái đó. Mẹ cố gần gũi đám con gái đó, những đứa đã chết”.
“Gần gũi với chúng là sao?”
“Chúng làm ta nhớ đến con, chạy rong khắp thị trấn. Như những con thú xinh đẹp. Ta nghĩ nếu mình có thể gần gũi chúng, ta có thể hiểu con nhiều hơn. Nếu ta có thể thích chúng, có thể ta sẽ thích con. Nhưng ta vẫn không thể”.
“Không, con không mong chờ điều đó”. Chiếc đồng hồ cũ của ông ngoại điểm 11 giờ. Tôi tự hỏi mẹ đã nghe âm thanh này bao nhiêu lần khi lớn lên ở đây.
“Khi ta có mang con trong bụng, khi ta còn là một cô gái - rất trẻ so với con bây giờ - ta đã nghĩ con sẽ cứu rỗi đời ta. Ta nghĩ con sẽ thương ta. Và rồi mẹ ta cũng sẽ thương ta. Đó chỉ là một trò đùa”. Giọng mẹ tôi cất cao và the thé, như chiếc khăn choàng màu đỏ tung bay trong cơn bão.
“Con chỉ là một đứa bé”.
“Thậm chí ngay từ đầu con đã không nghe lời, không ăn. Như thể con trừng phạt ta vì đã sinh ra con. Làm ta như một con ngốc. Như đứa con nít”.
“Mẹ từng là đứa con nít”.
“Và giờ đây, khi con quay lại và tất cả những gì ta có thể nghĩ là ‘Vì sao lại là Marian mà không phải nó?’”
Cơn thịnh nộ lập tức chuyển thành nỗi tuyệt vọng cùng cực. Ngón tay tôi tìm được đinh ghim gỗ dưới ván sàn. Tôi đâm mạnh ngón tay vào nó. Tôi sẽ không khóc vì người phụ nữ này.
“Con cũng không vui khi bị kẹt ở đây đâu, thưa Mẹ, nếu điều này khiến bà thấy dễ chịu hơn”.
“Con thật đáng ghét”.
“Con chỉ học từ bà”.
Mẹ tôi bật dậy, tóm lấy tôi bằng cả hai cánh tay. Sau đó bà với tay ra sau lưng tôi, với một ngón tay, vòng quanh vị trí không có những vết sẹo trên lưng tôi.
“Nơi duy nhất con chừa lại”, bà thì thầm với tôi. Hơi thở bà ngọt ngào giả tạo và thơm mùi xạ, không khí mùa xuân.
“Đúng vậy”.
“Ngày nào đó ta sẽ khắc tên mình ở đấy”. Bà lắc tôi một cái, thả ra, và bỏ tôi lại trên cầu thang với mùi rượu nồng nàn.
Tôi uống nốt phần rượu còn lại và có một cơn ác mộng dơ bẩn. Mẹ tôi cắt tôi ra và gỡ từng bộ phận của tôi, xếp chúng thành hàng trên giường trong khi da thịt tôi lòng thòng ở phía bên kia. Bà đang khâu những tế bào của bà vào từng bộ phận, sau đó thả chúng vào người tôi, cùng với đám đồ cũ đã bị lãng quên: quả bóng cao su DayGlo màu cam tôi lấy được từ chiếc máy bán kẹo cao su khi lên mười; đôi vớ len màu tím tôi từng mang khi mười hai tuổi; chiếc nhẫn mạ vàng rẻ tiền mà một thằng nhóc cho tôi khi học năm nhất. Từng món một, tôi cảm thấy an ủi vì chúng sẽ không bị thất lạc nữa.
Khi tôi thức giấc thì đã quá trưa, cảm thấy bị mất phương hướng và sợ hãi. Tôi nhấp một ngụm rượu từ chai dẹt đựng vodka để xoa dịu cơn hoảng loạn, sau đó chạy vào phòng tắm nôn ra tất cả cùng đám nước bọt màu nâu từ rượu amaretto sours.
Trần truồng và trườn vào bồn tắm, hơi lạnh từ bồn sứ áp vào lưng tôi. Tôi duỗi thẳng người ra, mở nước, và để nó chảy nhẹ nhàng qua mình, lấp đầy hai tai cho đến khi chúng chìm xuống với một tiếng rền vang thỏa mãn, “whup!”, như một con tàu đang chìm xuống. Tôi có nên tập để nước tràn qua mặt, dìm chết mình trong khi vẫn còn mở mắt? Chỉ cần chống lại khao khát trầm mình xuống khoảng hai inch thì tất cả sẽ chấm dứt.
Nước tràn qua mắt, bao bọc lấy mũi và phủ kín lấy tôi. Tôi thử hình dung mình từ phía trên: da dẻ chằng chịt và gương mặt đang rung rinh dưới làn nước. Cơ thể tôi đang gào thét. Áo lót, dơ bẩn, chì chiết, quả phụ! Nó rống lên. Bụng và cổ họng tôi chấn động, liều mạng hít không khí. Ngón tay, điếm, trống rỗng! Vài khoảnh khắc luyện tập. Một cái chết thật trong sạch. Hoa nở, ra hoa, xinh đẹp.
Tôi trồi gấp lên mặt nước, hớp không khí. Tôi thở hổn hển và nghiêng đầu về phía trần nhà. Xem nào, xem nào, tôi tự nói với mình. Được rồi, cô gái bé bỏng, cô sẽ ổn thôi. Tôi vỗ nhẹ hai bên má, dịu dàng an ủi bản thân - đáng thương làm sao - nhưng hơi thở vẫn dồn dập.
Sau đó là một cơn hoảng loạn ập đến. Tôi với ra phía sau tìm vùng da hình tròn trên lưng mình. Vẫn mượt mà.
Mây đen là đà bên dưới như bao trùm thị trấn, mặt trời uốn quanh bên ngoài và biến mọi vật thành một màu vàng xám xịt, chúng tôi như đám bọ dưới ánh đèn huỳnh quang. Vẫn còn kiệt sức sau cuộc chạm trán bất ngờ với mẹ tôi, ánh sáng yếu ớt có vẻ phù hợp với tôi. Tôi có cuộc hẹn phỏng vấn với Meredith Wheeler, liên quan đến gia đình Keenes. Không chắc nó sẽ đem lại điều gì quan trọng nhưng ít ra tôi sẽ lấy được câu trích dẫn nào đó mà mình cần, vì đã không nghe được lời nào của họ từ sau bài báo cuối cùng của tôi. Với tình trạng John đang sống sau nhà Meredith như hiện nay thì, thật sự mà nói tôi không có cách nào khác để tiếp cận cậu ta mà không thông qua con bé. Tôi nghĩ nó rất hài lòng với điều này.
Tôi đi bộ đến Đường Chính để lấy xe vì hôm qua đã bỏ nó lại để đi cùng Richard. Thả mình vào ghế lái một cách yếu ớt. Tôi vẫn xoay xở để đến nhà Meredith sớm nửa giờ. Biết trước sự chuẩn bị và tán thành cuộc gặp gỡ của tôi, tôi đoán là con bé sẽ sắp xếp gặp tôi ở hiên nhà sau và tôi có cơ hội tiếp cận John. Tuy nhiên, ngược lại, con bé không hề có ở đó, nhưng tôi có thể nghe tiếng nhạc phát ra từ sau nhà, và lần theo nó để rồi bắt gặp Bốn Cô Nàng Tóc Vàng Bé Bỏng diện những bộ bikini màu dạ quang ở một phía hồ bơi, chuyền điếu thuốc qua lại, và John ngồi trong bóng râm ở thành hồ còn lại, nhìn. Amma, tóc vàng, da có vẻ rám nắng và ngon lành, không hề có dấu tích của cơn nhức đầu hôm qua. Con bé nhỏ bé và rực rỡ như một món khai vị.
Đối mặt với tất cả cơ thể láng mướt ấy, tôi cảm thấy da mình bắt đầu run rẩy. Tôi không thể kiểm soát một cuộc gặp mặt trực tiếp trong cơn say xỉn hoảng loạn. Vì vậy tôi do thám từ vòng ngoài của căn nhà. Ai cũng có thể thấy tôi, nhưng chẳng ai thèm bận tâm. Ba đứa bạn của Amma nhanh chóng chuyển sang hút-và-phà những vòng cần sa xoắn ốc, nghiêng mặt xuống mền của chúng.
Amma ngồi thẳng, nhìn chăm chú vào John, thoa kem chống nắng lên vai, ngực, trượt bàn tay xuống dưới áo tắm, nhìn John đang quan sát mình. John không phản ứng, như một đứa trẻ xem tivi suốt sáu giờ liền. Amma càng thoa kem một cách khêu gợi, cậu ta càng ít rung động. Một góc tam giác của chiếc áo tắm xộc xệch làm lộ phần ngực bên dưới của con bé. Chỉ mười ba tuổi, tôi tự nhủ, nhưng lại có một sự ngưỡng mộ to lớn đối với con bé. Khi buồn, tôi làm đau bản thân mình. Amma thì làm hại những người khác. Khi muốn được chú ý, tôi dâng hiến bản thân mình cho đám con trai: Làm những gì các người muốn, chỉ cần thích tôi. Lời đề nghị tình dục của Amma có hơi hướm của một cuộc chinh phục. Chân thon dài, cổ tay mảnh khảnh, giọng trẻ con cao vút, tất cả đều như được vũ trang. Làm những gì tôi muốn, có thể tôi sẽ thích các người.
“Ê John, em có làm anh nhớ đến ai không?” Amma gọi.
“Một cô gái nhỏ cư xử không đúng mực và nghĩ nó đáng yêu hơn thực tế”, John đáp lại. Cậu ngồi bên thành hồ bơi với chiếc quần sọc và áo thun, bàn chân chìm sâu xuống nước. Hai chân của cậu gầy, gần giống chân con gái với những sợi lông đen nhỏ. “Thật chứ? Thế tại sao anh nhìn em không chớp từ nơi ẩn náu nhỏ bé của mình vậy”, nó nói, giơ chân đến căn nhà xe, với cửa sổ nhỏ lộ ra màu xanh thể thao. “Meredith sẽ ghen đó”.
“Anh thích để mắt tới em, Amma. Em biết anh luôn để mắt tới em”.
Tôi đoán: đứa em cùng mẹ khác cha của tôi đã lẻn vào phòng cậu ta, vơ vét vài thứ của cậu. Hoặc chờ cậu trên giường.
“Chắc chắn anh đang làm vậy rồi”, nó cười lớn và nói, hai chân con bé dang rộng. Trông nó thật kinh khủng dưới ánh sáng mờ đục, những tia sáng đổ từng khối bóng lên mặt nó.
“Ngày nào đó sẽ đến lượt em, Amma”, cậu nói. “Sớm thôi”.
“Người đàn ông trưởng thành. Em nghe rồi”, Amma đáp lại. Kylie nhìn lên, tập trung ánh mắt vào bạn mình, mỉm cười, và lại nằm xuống.
“Và kiên nhẫn nữa”.
“Anh sẽ cần nó”. Nó gửi cho cậu nụ hôn gió.
Mùi amaretto sour quay lại với tôi, và tôi phát bệnh vì lời giễu cợt. Tôi không thích John Keene tán tỉnh Amma, bất kể con bé đã khiêu khích như thế nào. Nó chỉ mới mười ba.
“Xin chào?” Tôi gọi to, đánh tiếng với Amma đang vẫy ngón tay về phía tôi. Hai trong ba cô nàng tóc vàng nhìn lên, sau đó lại nằm xuống. John vốc nước hồ lên mặt trước khi nhếch mép với tôi. Cậu ta nhớ lại cuộc đối thoại, đoán xem tôi đã nghe được bao nhiêu. Tôi cách xa cả hai bên và bước lại gần John, ngồi cách khoảng sáu feet.
“Cậu đọc bài báo chưa?” tôi hỏi. Cậu gật đầu.
“Vâng, cám ơn, nó rất hay. Ít ra là phần Natalie”.
“Chị đến đây để nói chuyện với Meredith về Wind Gap, có thể vài chuyện về Natalie”, tôi nói. “Em thấy ổn không?”
Cậu nhún vai.
“Chắc rồi. Cô ấy không có ở nhà. Không đủ đường cho món trà ngọt. Cô ấy tức giận nên chạy xộc ra cửa hàng mà không hề trang điểm”.
“Khiếm nhã vậy”.
“Vâng, với Meredith thì đúng vậy”.
“Mọi chuyện ở đây thế nào?”
“À, ổn cả”, cậu nói. Cậu bắt đầu vỗ nhẹ tay phải. Tự trấn an. Tôi lại thấy tội nghiệp cậu. “Em không biết còn điều gì được coi là tốt đẹp ở đâu đó không nên rất khó đánh giá nó tốt hơn hay đang tệ đi, chị hiểu ý em nói chứ?”
“Như là: Nơi này thật khốn khổ và tôi muốn chết, nhưng tôi không thể nghĩ ra mình nên ở nơi nào khác”, tôi nhận xét. Cậu quay lại và nhìn chăm chú vào tôi, đôi mắt xanh phản chiếu lại lòng hồ hình ô-van.
“Chính xác ý em là vậy đó”. Quen với nó đi, tôi nghĩ.
“Em nghĩ có nên tìm người tư vấn, hay gặp bác sĩ trị liệu không?” tôi nói. “Nó có thể có ích đấy”.
“Phải rồi, John, nên đè nén những thôi thúc, những mong ước của anh. Chúng có thể gây chết chóc, anh biết chứ? Chúng ta không muốn có thêm những bé gái bị nhổ hết răng đâu”. Amma trườn xuống hồ và bơi lượn lờ cách chúng tôi khoảng mười feet.
John đứng phắt dậy, trong một giây tôi nghĩ cậu sẽ lặn xuống hồ và dìm chết nó. Thay vào đó, cậu chỉ vào con bé, mở miệng rồi ngậm lại, và bỏ về căn phòng áp mái của mình.
“Điều này thật sự rất tàn nhẫn đấy”, tôi nói với nó.
“Nhưng vui”, Kylie nói, trôi bồng bềnh trên một chiếc nệm hơi màu hồng.
“Đồ quái dị”, Kelsey lướt ngang qua và nói thêm.
Jodes đang ngồi trên chiếc mền của con bé, đầu gối để sát cằm, mắt dõi theo căn nhà xe.
“Em đã rất dễ thương với chị đêm đó. Giờ em lại quá thay đổi”, tôi thì thầm với Amma. “Tại sao lại thế?”
Con bé có vẻ bị bất ngờ trong giây lát. “Em không biết. Em ước mình có thể sửa chữa nó. Em sẽ làm vậy”. Con bé bơi về phía đám bạn khi Meredith xuất hiện ở cửa và gọi tôi vào một cách cáu kỉnh.
Nhà Wheeler có vẻ rất quen: chiếc ghế bành dày cộm, chiếc bàn cà phê trưng mô hình thuyền buồm, chiếc ghế dài màu xanh lá cây nhạt nằm chễm chệ, một bức ảnh trắng đen của tháp Eiffel được bày ở một góc khuất. Pottery Barn, catalogue mùa xuân. Ngay giữa bàn, Meredith đặt một chiếc dĩa màu vàng chanh với một chiếc bánh tart dâu bóng lưỡng.
Con bé mặc một chiếc áo vải lanh mùa hè màu hồng đào nhạt, tóc vén sau tai và buộc kiểu đuôi ngựa trễ nải hoàn hảo đến mức phải mất hai mươi phút mới làm được. Đột nhiên con bé trông rất giống mẹ. Cứ như thể nó là con của Adora chứ không phải tôi. Tôi thấy một cơn bực tức kéo đến, cố kềm lại khi con bé rót cho chúng tôi một tách trà ngọt và mỉm cười.
“Em không biết em gái em nói gì với chị nhưng đoán là những lời đáng ghét hay dơ bẩn, nên em xin lỗi”, cô nói. “Tuy nhiên, em đoan chắc chị biết Amma thật sự là đầu sỏ ở đây”. Cô nhìn chiếc bánh tart nhưng có vẻ ghét ăn nó. Nó quá xinh đẹp.
“Em chắc chắn hiểu rõ Amma hơn chị”, tôi nói. “Con bé và John không có vẻ là...”
“Nó là một đứa trẻ thiếu thốn tình thương”, cô nói, bắt chéo chân, rồi thả chúng ra, vuốt thẳng váy. “Amma lo sợ bị nhạt nhòa hay bốc hơi nếu sự chú ý không luôn hướng về nó. Đặc biệt là từ đám con trai”.
“Sao con bé không thích John? Nó đã ám chỉ John là người giết hại Natalie”. Tôi lấy máy ghi âm và nhấn nút ON, một phần vì tôi không muốn tốn thời gian chơi đùa với cái tôi cá nhân, và một phần tôi hy vọng cô nói điều gì đó đáng giá về John để đưa lên mặt báo. Nếu cậu là một kẻ tình nghi, ít nhất trong suy nghĩ của dân Wind Gap, tôi cần những bình luận.
“Chỉ có Amma. Nó là đứa có tính nết xấu xí, John thích em nên nó tấn công anh ấy. Nó cố cướp anh ấy từ tay em. Giống như chuyện đó sẽ xảy ra vậy”.
“Mặc dù vậy, có nhiều người nói rằng họ nghĩ John có thể dính dáng gì đó đến chuyện này. Em biết tại sao không?”
Cô nhún vai, cắn chặt môi dưới, nhìn băng thu âm kêu rè rè trong phút chốc.
“Chị biết lý do tại sao mà. Anh ấy từ nơi khác đến. Anh ấy thông minh và bề ngoài đẹp gấp tám lần bất kỳ ai xung quanh đây. Mọi người muốn mọi chuyện là do anh ấy, vì thế có nghĩa là... tội ác không bắt nguồn từ Wind Gap. Nó ở bên ngoài. Chị ăn bánh đi”.
“Em có tin cậu ấy vô tội không?” tôi cắn một miếng, lớp dầu nhỏ từng giọt xuống môi tôi.
“Đương nhiên là em tin. Tất cả chỉ là những lời bàn tán rỗi hơi. Chỉ vì ai đó lái xe lòng vòng... nhiều người quanh đây cũng làm thế mà. Chỉ là John có thời gian tồi tệ thôi”.
“Và gia đình thì sao? Em có thể kể cho chị về một trong hai đứa trẻ?”
“Chúng là những bé gái đáng yêu, cư xử rất tốt và ngọt ngào. Giống như Chúa mang những bé gái tốt nhất ở Wind Gap về thiên đàng với Ngài vậy”. Con bé đã tập luyện, từ ngữ và nhịp điều lặp lại đều đều. Ngay cả nụ cười cũng được tính toán: nhỏ quá thì có vẻ hà khắc, to quá thì không phù hợp. Nụ cười này thì vừa đủ. Can đảm và hy vọng, nó thể hiện như vậy đó.
“Meredith, chị biết đó không phải là những gì em nghĩ gì về chúng”.
“Vậy chị cần kiểu bình luận gì?” Nó nạt lại.
“Một câu chân thật”.
“Em không làm được. John sẽ ghét em”.
“Vậy thì chị không thể để tên em trong bài báo này”.
“Vậy tại sao em phải thực hiện cuộc phỏng vấn này?”
“Nếu em biết điều gì đó về những đứa trẻ mà mọi người không nói, em nên kể với chị. Nó có thể làm sự chú ý tránh xa John, nhưng còn phụ thuộc nội dung thông tin là gì”.
Meredith rón rén uống một hớp trà, chùi nhẹ khóe miệng màu dâu của con bé bằng khăn giấy.
“Nhưng liệu tên em có ở đâu đó trong bài báo không?”
“Chị có thể để tên em ở đâu đó”.
“Em muốn có đoạn Chúa mang chúng về Thiên đàng”, Meredith vòi vĩnh. Cô nắm chặt tay mình và nhìn tôi cười.
“Không. Không phải cái đó. Chị sẽ dùng câu John đến từ bên ngoài thị trấn và đó là lý do tại sao mọi người bàn tán về cậu ta”.
“Sao chị không thể dùng phần em muốn?” tôi có thể thấy Meredith như đứa trẻ lên năm, ăn mặc như công chúa và càu nhàu vì con búp bê yêu thích nhất của mình không thích món trà tưởng tượng của cô.
“Vì nó đi ngược lại rất nhiều điều chị nghe và vì thực tế không ai nói thế cả. Nó rất giả tạo”.
Đó là cuộc đối đầu bi đát nhất mà tôi từng có, cách thức hoàn toàn sai lầm để thực hiện công việc của mình. Nhưng tôi muốn có câu chuyện khốn khiếp của cô ta. Meredith xoắn dây chuyền bạc quanh cổ và dò xét tôi.
“Chị biết mình có thể trở thành người mẫu không?” Đột nhiên con bé nói.
“Chị rất nghi ngờ điều đó đấy”, tôi phản bác. Mỗi khi ai đó nói tôi xinh đẹp, tôi lại nghĩ đến những thứ xấu xí bò ngoằn ngoèo dưới lớp áo quần.
“Chị có thể mà. Em luôn muốn trở thành chị khi lớn lên. Em nghĩ về chị, chị biết đấy? Ý em là, mẹ chúng ta là bạn nên em biết chị ở Chicago và hình dung chị trong một căn nhà lớn với vài đứa bé tóc xoăn và chồng là nhà đầu tư ngân hàng. Hai người đứng trong bếp, chị đang uống nước cam và anh ta thì uống thứ gì đó trong ly mình rồi đi làm. Nhưng em đoán mình tưởng tượng sai rồi”.
“Em sai rồi. Mặc dù nghe khá hay”. Tôi cắn một miếng bánh nữa. “Giờ thì nói cho chị nghe về những đứa bé”.
“Mọi chuyện hả? Chị chưa bao giờ là người thân thiện cả. Em biết em gái chị. Việc chị có đứa em gái đã chết”.
“Meredith, chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. Chị thích thế. Sau chuyện này. Nhưng giờ thì trở về câu chuyện, sau đó có thể chúng ta sẽ tự thưởng cho mình”. Tôi không định ở lại thêm phút nào sau khi cuộc phỏng vấn kết thúc.
“Được thôi... Vậy thì, nó đây. Em nghĩ em biết tại sao... mấy cái răng...” cô ra dấu việc nhổ răng.
“Tại sao?”
“Em không tin được là mọi người từ chối thừa nhận điều này”, cô nói.
Meredith nhìn quanh phòng.
“Chị không nghe chuyện này từ em, được chứ?” cô tiếp tục. “Lũ con gái, Ann và Natalie, chúng hay cắn”.
“Ý em là gì, hay cắn à?”
“Cả hai đứa nó. Chúng có tính khí rất tệ. Cáu kỉnh trong sợ hãi. Tính nết cộc cằn của đám con trai. Nhưng chúng không đánh. Chúng cắn. Nhìn này”.
Cô chìa tay phải ra. Ngay dưới ngón tay cái là ba vết sẹo màu trắng ánh lên trong tia nắng chiều.
“Đó là do Natalie. Và cái này”. Cô vén tóc để lộ ra tai trái với dái tai chỉ còn một nửa. “Nó cắn tay em khi em đang sơn móng tay cho nó. Được giữa chừng thì nó bảo là không thích kiểu đó, nhưng em nói hãy để em làm cho xong, và khi nắm tay nó lại, nó cắm răng vào em”.
“Còn dái tai?”
“Một đêm em ngủ lại khi xe em không khởi động được. Em đang ngủ trong phòng khách và điều kế tiếp em biết là máu và tai mình đang bốc cháy, kiểu như em muốn vùng khỏi nó nhưng nó lại dính chặt lấy đầu em. Và Natalie thì hét lên như nó mới là người chịu đau đớn. Tiếng thét đó còn kinh khủng hơn vết cắn nữa. Ông Keene phải lôi nó xuống. Con nhóc đó có những vấn đề nghiêm trọng. Bọn họ tìm dái tai của em, coi có thể nối lại không, nhưng nó mất rồi. Em đoán con nhỏ đã nuốt nó”. Giọng cười của cô như tiếng rít. “Em gần như thấy tội nghiệp cho nó”.
Dối trá.
“Ann, con bé có tệ như vậy không?” tôi hỏi.
“Tệ hơn. Hầu hết mọi người của thị trấn này đều có dấu răng của nó. Kể cả mẹ chị”.
“Cái gì?” Tay tôi đổ mồ hôi và lạnh gáy.
“Mẹ chị dạy kèm cho nó và Ann không hiểu. Nó hoàn toàn không hiểu, rồi kéo đứt tóc mẹ chị và cắn cổ tay bà. Mạnh. Em nghĩ phải có dấu khâu lại”. Tưởng tượng cánh tay mỏng manh của mẹ tôi giữa những cái răng bé xíu, Ann lắc đầu qua lại như một con chó, máu bắn ra lên áo bà, trên môi Ann. Tiếng thét, một sự giải phóng.
Một vòng tròn nhỏ được tạo thành bởi dấu răng nhọn, và bên trong là một vòng tròn da hoàn hảo.
Chú thích:
[1] Chơi chữ: fifty-cent word, và seventy-five cents.