Dịch giả: Anh Tô
Chương năm

     lan mặc chiếc quần trắng, những nếp gấp phẳng lì như giấy, và chiếc áo thun màu xanh lá nhạt khi tôi xuống nhà ăn sáng. Ông ngồi một mình bên bộ bàn ăn khổng lồ bằng gỗ gụ, bóng ông hắt lên nền gỗ bóng loáng. Tôi lén nhìn xuống chân bàn xem đống lộn xộn tối qua thế nào. Alan chọn cách không để ý. Ông đang ăn trứng sữa trong một cái tô bằng muỗng cà phê. Khi ngước lên nhìn tôi, một giọt thức ăn rơi lủng lẳng dưới cằm ông.
“Camille. Ngồi xuống đi. Ta nói Gayla chuẩn bị món gì cho con nhé?” Ông lắc chiếc chuông bạc bên cạnh, và sau tiếng cửa mở thì Gayla xuất hiện, mười năm trước người phụ nữ này từng làm ở trang trại nuôi lợn, giờ thì phụ trách việc dọn dẹp và nấu ăn hàng ngày cho mẹ tôi. Cô ta cao cỡ tôi - nhưng nhẹ hơn 100 pound. Chiếc tạp dề đồng phục hồ trắng thắt lỏng lẻo trên người cô như một chiếc chuông.
Mẹ tôi bước qua cô, hôn lên má Alan, đặt một quả lê lên chiếc khăn ăn màu trắng trước chỗ của bà.
“Gayla, cô nhớ Camille không?”
“Đương nhiên là tôi nhớ, thưa bà Crellin”, cô ấy nói, chìa gương mặt nhọn như cáo sang tôi. Cô cười với hàm răng xiêu vẹo và đôi môi nứt nẻ. “Chào Camille, cô dùng trứng, bánh nướng hay trái cây?”
“Chỉ cà phê thôi, làm ơn. Với kem và đường”.
“Camille, chúng ta mua đồ ăn đặc biệt cho con đó”, mẹ tôi nói trong khi đang gặm phần cùi tròn lẳn của quả lê. “Ít nhất là hãy ăn chuối”.
“Và một quả chuối”. Gayla quay trở lại nhà bếp với nụ cười ngớ ngẩn trên môi.
“Camille, ta phải xin lỗi con vì chuyện tối qua”, Alan bắt đầu. “Amma đang trải qua những bước chuyển biến”.
“Con bé rất bám người khác và nhõng nhẽo”, mẹ tôi bảo. “Hầu hết theo cách rất ngọt ngào, nhưng đôi khi nó hơi mất kiểm soát”.
“Không chỉ hơi đâu ạ”, tôi nói. “Đó thật sự là một cơn giận dữ kinh khủng đối với đứa trẻ mười ba tuổi. Hơi đáng sợ một tý”. Đó là đứa-tôi-Chicago đã quay lại, quả quyết và mồm mép hơn. Tôi đã được giải phóng.
“Ừ, nhưng mà con cũng không mấy điềm tĩnh ở độ tuổi đó đâu”. Tôi không biết ý mẹ là gì - việc tôi cắt xẻo da thịt mình, hay việc tôi khóc lóc vật vã sau cái chết em gái mình, hay cuộc sống tình dục thái quá mà tôi đã dấn thân vào. Tôi quyết định chỉ gật đầu.
“Vâng, con hy vọng con bé ổn”, tôi nói những lời cuối cùng, và chuẩn bị rời đi.
“Coi nào, Camille, hãy ngồi xuống đi”, Alan nói với giọng nhẹ tênh, ông vuốt mép. “Hãy kể cho chúng ta nghe về Windy City [1] đi. Mọi người đều có thời gian mà”.
“Windy City thì ổn. Công việc cũng tốt, cháu nhận được những phản hồi tích cực”.
“Những phản hồi tích cực gì vậy?” Alan nghiêng người về phía tôi, hai bàn tay đan lại, như thể ông nghĩ câu hỏi vừa rồi khá hay ho.
“Ờ thì, cháu đưa tin những vụ án tương đối khó. Cháu đã xử lý ba vụ mưu sát kể từ đầu năm nay”.
“Và đó được xem là điều tốt à, Camille?” Mẹ tôi ngừng ăn lê. “Mẹ không thể hiểu nổi thiên hướng gắn bó những điều xấu xa của con bắt nguồn từ đâu. Cuộc sống của con có vẻ đủ những điều đó mà chẳng cần tìm kiếm làm chi”. Bà cười lớn, tiếng cười chói tai, như chiếc bong bóng vút bay trong gió.
Gayla quay trở lại với cà phê và chuối được lèn chặt một cách kỳ cục trong một cái tô. Như bà muốn, Amma bước vào và hai người như đang chơi ở một phòng giải trí. Con bé hôn mẹ tôi, chào Alan và ngồi đối diện tôi. Đá vào chân tôi dưới bàn và cười lớn. Ồ, chị đấy à?
“Em xin lỗi vì đã để chị thấy em trong bộ dạng đó, Camille”. Amma nói. “Đặc biệt là khi chúng ta chưa thân nhau nhiều. Em đang trải qua giai đoạn này thôi”. Cô bé vờ cười mỉm. “Nhưng giờ chúng ta sum họp rồi. Chị như nàng Lọ Lem nghèo khổ, còn em như là người em kế độc ác. Chị em cùng mẹ khác cha”.
“Không có chút gì độc ác trong con cả, bé cưng ạ”, Alan nói.
“Nhưng chị Camille là con đầu. Cái đầu tiên luôn luôn là tốt nhất. Bây giờ chị ấy đã trở về, bố mẹ sẽ yêu Camille hơn con đúng không?” Amma hỏi. Con bé bắt đầu câu hỏi với vẻ châm chọc, nhưng gò má của nó đỏ lên khi chờ mẹ tôi phản bác lại.
“Không”, Adora nói trong im lặng. Gayla đặt một dĩa thịt muối trước mặt Amma, con bé rưới mật ong lên nó theo hình xoắn ốc.
“Vì mẹ yêu con”, Amma nói, giữa cái miệng đầy thịt. Mùi thịt và vẻ ngọt muốn bệnh khẽ thoảng qua. “Con ước sao mình bị giết chết”.
“Amma, đừng nói như thế chứ”, mẹ tôi nói, mặt trắng bệch. Ngón tay bà run rẩy đưa lên lông mi, sau đó hạ xuống chỗ định sẵn trên mặt bàn.
“Khi đó con không phải lo lắng nữa. Khi chết đi chúng ta sẽ trở nên hoàn hảo. Con sẽ như Công nương Diana. Bây giờ mọi người đều yêu quý bà ấy”.
“Con là đứa trẻ nổi tiếng nhất trường, và ở nhà thì con rất đáng yêu. Amma. Đừng tham lam thế”.
Amma đá chân tôi dưới bàn và cười vẻ thấu hiểu, như thể có chuyện quan trọng gì đã được ấn định. Con bé quăng đám áo đang mặc qua vai, và tôi nhận ra cái mà tôi tưởng áo mặc ở nhà hóa ra là tấm khăn trùm màu xanh. Mẹ tôi cũng để ý thấy điều đó.
“Con đang mặc cái quái gì vậy, Amma?”
“Đây là áo choàng người hầu của con. Con sẽ vào rừng đóng vai Joan Arc [2]. Những đứa con gái sẽ đốt con”.
“Con sẽ không chơi như thế, con yêu”, mẹ tôi nạt, giật lấy hũ mật từ tay Amma, khi nó còn đang chăm chú nhấn chìm món thịt vào đó. “Hai đứa con gái cỡ tuổi con đã chết, và con còn nghĩ vào rừng chơi à?”
Lũ trẻ trong rừng chơi những trò xuẩn ngốc, bí ẩn. Câu đầu trong bài thơ tôi từng thuộc nằm lòng.
“Đừng lo, chúng con sẽ ổn thôi mà”. Amma nở nụ cười giả tạo lộ liễu.
“Con sẽ ở đây”.
Amma xiên miếng thịt và thì thầm nguyền rủa điều gì đó. Mẹ quay sang tôi trong khi vẫn cúi đầu, viên kim cương trên nhẫn cưới của bà lóe vào mắt tôi như tín hiệu cầu cứu.
“Giờ thì, Camille, ít nhất chúng ta có thể làm gì đó vui vẻ trong thời gian con ở đây?” Bà hỏi. “Chúng ta có thể ăn picnic ở sân sau. Hay có thể thay đổi một tí, đi dạo, có thể chơi gôn ở Woodberry. Gayla, mang giúp tôi ít trà đá”.
“Nghe hay đó mẹ. Con sẽ kiểm tra mình ở đây bao lâu”.
“Ừ, chúng ta cũng rất muốn biết điều đó. Không phải vì con không được chào đón ở đây, ở lâu chừng nào tốt chừng ấy”, bà nói. “Nhưng biết được thời hạn thì tốt, để chúng ta có thể tự lên kế hoạch của mình”.
“Tất nhiên rồi”. Tôi cắn một lát chuối, nó có vị của một thứ màu xanh nhạt nhẽo nào đó.
“Hoặc Alan và mẹ có thể sẽ đến chỗ con lúc nào đó trong năm. Chúng ta chưa lần nào tham quan thật sự Chicago cả”. Bệnh viện của tôi cách thành phố mười chín phút lái xe về phía nam. Mẹ tôi bay đến O’Hare và có tài xế taxi hộ tống. Mất khoảng 128 đô la hay 140 đô-la gì đó kể cả tiền boa.
“Điều đó cũng tuyệt nữa. Ở đó có vài bảo tàng rất tuyệt. Mọi người sẽ thích những cái hồ”.
“Mẹ không biết mình có thể hứng thú với nước được không nữa”.
“Sao vậy ạ?” Tôi biết mà.
“Sau khi con bé đó, Ann Nash bé bỏng, bị bỏ trong khe suối đến chết”. Bà dừng lại để nhấp một ngụm trà đá. “Mẹ biết nó, con hiểu chứ”.
Amma nhăn nhó và bắt đầu ngọ ngoạy trên ghế.
“Nó không chết đuối”, tôi nói, dù biết việc đính chính này sẽ khiến bà khó chịu. “Con bé bị treo cổ. Nó chỉ bị bỏ lại ở khe suối thôi”.
“Và cả con bé nhà Keene. Mẹ thích cả hai đứa nó. Rất thích”. Bà mơ màng một cách đầy tiếc nuối và Alan choàng cánh tay qua bà. Amma đứng phắt dậy, phát ra tiếng thét nho nhỏ giống như một chú cún con, và chạy lên lầu.
“Tội nghiệp con bé”, mẹ tôi nói. “Con bé có khoảng thời gian khó khăn giống mẹ”.
“Con bé gặp mấy đứa con gái gần như mỗi ngày, nên con chắc nó rất buồn”, tôi nói với vẻ cáu kỉnh khác thường. “Làm sao mẹ biết chúng?”
“Wind Gap, mẹ không cần nhắc con đây là một thị trấn nhỏ chứ. Chúng là những bé gái ngọt ngào, dễ thương. Xinh đẹp”.
“Nhưng mẹ không thật sự biết chúng”.
“Mẹ biết chúng. Rất rõ”.
“Như thế nào?”
“Camille, làm ơn đừng cố làm vậy. Mẹ vừa nói với con là mẹ rất buồn và đang rất mong manh, và thay vì an ủi, con lại ra sức tấn công mẹ”.
“Vậy. Mẹ thề không bao giờ chạm đến nước trong tương lai hả?”
Mẹ tôi thốt ra âm thanh the thé, cụt lủn. “Con cần im miệng lại, Camille”. Bà gấp tờ khăn ăn bọc quanh trái lê đang ăn dở như quấn tã và rời khỏi phòng. Alan đi theo bà và huýt sáo, như một tay đàn dương cầm cổ điển đang đệm những điệu nhạc trong một thước phim câm.
Dường như tất cả bi kịch xảy ra trên thế giới đều xảy ra với mẹ tôi, và dường như tất cả những gì liên quan đến bà đều gây ảnh hưởng đến tôi. Bà lo lắng cho những người bà chưa bao giờ gặp nhưng gặp phải vận rủi. Bà khóc than cho những tin tức trên toàn cầu. Tất cả, sự tàn nhẫn của nhân loại, đều quá sức chịu đựng của bà.
Bà đã không bước ra khỏi phòng suốt một năm từ khi Marian chết. Một căn phòng lộng lẫy: giường phủ màn trướng với kích cỡ một chiếc thuyền, bàn trang điểm rỗng tuếch phủ đầy những lọ nước hoa bụi bặm. Sàn nhà xinh đẹp đến mức nó từng được rất nhiều các tạp chí thiết kế chụp ảnh: Làm từ ngà voi nguyên chất, cắt miếng vuông vức, nâng căn phòng từ phía dưới. Căn phòng và sàn nhà đó làm tôi phát khiếp, hơn thế là tôi bị cấm lại gần nó. Nổi tiếng như Truman Winslow, thị trưởng Wind Gap, đã trả tiền cho những chuyến viếng thăm hàng tuần, mang theo hoa tươi và tiểu thuyết cổ điển. Tôi có thể tình cờ thoáng thấy mẹ khi cánh cửa mở ra cho những người khác vào. Mẹ luôn ở trên giường, dựa vào chồng gối chất cao như núi, mặc những chiếc đầm vải hoa mỏng. Tôi chưa bao giờ đặt chân vào đó.
Hạn chót của Curry cho bài báo này chỉ còn hai ngày, và tôi có rất ít chứng cứ. Ở trong phòng, nằm ườn trên giường với đôi tay đan lại như một xác chết, tôi tổng kết những gì mình biết và buộc mình phải sắp xếp lại. Không ai chứng kiến vụ bắt cóc Ann Nash hồi tháng Tám năm ngoái. Con bé, chỉ đơn giản là bốc hơi, mười giờ sau thi thể được tìm thấy tại Falls Creek, cách đó vài dặm. Nó bị xiết cổ khoảng bốn tiếng sau khi bị bắt đi. Chiếc xe đạp không bao giờ được tìm thấy. Nếu buộc phải đoán, tôi nghĩ con bé biết người đó. Túm lấy một đứa trẻ và xe đạp trong khi nó chống cự là một việc ồn ào gây chú ý trên đoạn đường đó. Có phải ai đó trong nhà thờ, thậm chí là hàng xóm không? Ai đó có vẻ vô hại.
Nhưng nếu như vụ mưu sát đầu tiên diễn ra rất thận trọng, vậy thì tại sao lại bắt Natalie ngay giữa ban ngày, ngay trước mắt một đứa bạn? Nó rất vô lý. Nếu James Capisi đứng ngay bìa rừng, thay vì trốn những tia mặt trời đầy tội lỗi như thế, bây giờ thằng bé có phải là đứa đã chết không? Hay Natalie Keene là một mục tiêu được chọn lựa. Con bé cũng bị giữ lại lâu hơn: mất tích hơn hai ngày trước khi được phát hiện, bị nhét vào chỗ trống khoảng mười hai inch giữa cửa hàng ngũ kim và tiệm làm đẹp trên Đường Chính nhộn nhịp.
James Capisi đã thấy gì? Thằng nhóc rất lưu luyến tôi. Tôi không nghĩ nó nói dối. Nhưng lũ trẻ tiêu hóa nỗi sợ một cách rất khác biệt. Thằng bé thấy một sự việc đáng sợ, và nỗi sợ đó biến thành mụ phù thủy trong các truyện cổ tích, một nữ hoàng băng giá độc ác. Nhưng nếu kẻ đó chỉ đơn giản là giống phụ nữ thì sao? Một gã đàn ông gầy còm tóc dài, một thằng nhóc ái nam ái nữ thì sao? Phụ nữ không giết người theo kiểu này, đơn giản là họ không làm thế. Bạn có thể đếm các nữ sát nhân hàng loạt chỉ với một bàn tay, và nạn nhân của họ gần như hoàn toàn là nam giới - thường là khi những mối quan hệ tình ái trở nên tệ hại. Nhưng những bé gái không hề bị xâm hại tình dục, và nó không khớp với kiểu mẫu này.
Việc chọn hai đứa con gái cũng rất vô lý. Nếu không phải là Natalie Keen, tôi tin chúng là kiểu nạn nhân khờ dại xui xẻo. Nhưng nếu James Capisi không nói dối thì hung thủ cần rất nhiều nỗ lực để bắt con bé ở công viên, và nếu như con bé thực sự đúng là đối tượng mà kẻ giết người hướng tới thì Ann không phải là mục tiêu ngớ ngẩn. Cả hai đứa con gái đều không sở hữu vẻ đẹp đến mức ám ảnh. Như Bob Nash nói, Ashleigh là đứa xinh đẹp nhất. Natalie thì xuất thân từ một gia đình khá giả, còn khá mới mẻ ở Wind Gap. Ann thì ở dưới đáy của tầng lớp trung lưu, và gia đình Nash đã sống ở Wind Gap nhiều thế hệ. Thậm chí mấy đứa con gái còn không phải là bạn của nhau. Sự liên quan duy nhất của chúng là cùng có bản chất xấu xa, nếu như câu chuyện của Vickery đáng tin. Và còn giả thuyết một tên đi nhờ xe. Đó có phải là điều Richard Willis đang nghĩ? Chúng tôi ở rất gần tuyến đường xe tải chạy đi và về Memphis. Nhưng chín tháng là khoảng thời gian dài để một kẻ lạ mặt không bị chú ý, và khu rừng quanh Wind Gap cũng không quá rộng, không có nhiều thú vật. Chúng đã bị săn từ nhiều năm trước rồi.
Tôi có thể cảm nhận những suy nghĩ của mình tự nổ tung, bị vấy bẩn bởi những định kiến xưa cũ và hiểu biết nội tại. Tôi đột nhiên thấy liều mạng muốn nói chuyện với Richard Willis, một người không phải cư dân Wind Gap, người nhìn thấy những gì đang xảy ra với tư cách công việc, một vụ án cần sắp xếp và hoàn thiện, mảnh ghép cuối cùng cần đặt đúng vị trí, gọn gàng. Tôi cần suy nghĩ như thế.
Tôi tắm nước lạnh mà không bật đèn. Sau đó tôi ngồi ở thành bồn tắm và thoa kem dưỡng của mẹ khắp cơ thể một lượt, rất nhanh. Cảm giác xót xa và nhớp nháp khiến tôi rúm người lại.
Tôi mặc một chiếc quần thun sáng màu và một chiếc áo dài tay cổ tròn. Tôi chải tóc và nhìn vào gương. Bất chấp những gì tôi đã làm với phần còn lại của cơ thể mình, gương mặt tôi vẫn xinh đẹp. Không phải kiểu mà người ta có thể chọn từng điểm xuất sắc, mà chính là hài hòa. Nó đem lại ấn tượng sâu sắc. Mắt to xanh dương, xương gò má cao tôn lên dáng chiếc mũi nhỏ. Đôi môi đầy đặn với khóe miệng hơi trễ xuống. Tôi trông rất xinh, miễn là mặc đầy đủ quần áo. Nếu sự việc khác đi thì có lẽ tôi đã tự tiêu khiển với hàng loạt người tình bất hạnh. Tôi đã có thể hẹn hò với vài chàng tuyệt vời. Hoặc có thể tôi đã kết hôn.
Ngoài kia, phần bầu trời của Missouri vẫn như mọi khi, màu xanh của ánh điện. Nó khiến mắt tôi nhòe nước khi nghĩ về điều đó.
Tôi thấy Richard ở quán Broussard, ăn bánh quế không có si rô, một tập hồ sơ cao ngang vai anh ta. Tôi ngồi tõm vào ghế đối diện và thấy vui vẻ một cách kỳ lạ - cảm giác bí ẩn và thoải mái.
Anh ta nhìn lên và cười. “Cô Preaker. Ăn vài lát bánh nướng nhé. Lần nào đến đây tôi cũng bảo họ không lấy bánh nướng. Có vẻ không hiệu quả cho lắm. Như thể họ cố đạt hạn mức quy định vậy”.
Tôi lấy một lát, trét một lớp bơ mỏng lên nó. Bánh mì lạnh và cứng, tôi cắn làm vỏ bánh tung tóe khắp bàn. Tôi gom chúng vào dĩa và đi thẳng vào vấn đề chính.
“Nghe này, Richard. Nói cho tôi biết. Dù có ghi âm hay không. Tôi không tìm ra được gì cả. Tôi không đủ khách quan”.
Anh ta vỗ vào tập hồ sơ cạnh mình, vẫy tay về phía tôi. “Tôi có tất cả những điều khách quan mà cô muốn - ít nhất là từ năm 1927. Không ai biết chuyện gì xảy ra với những hồ sơ trước đó. Có lẽ vài nhân viên lễ tân đã quẳng chúng đi để đồn cảnh sát gọn gàng hơn, tôi đoán vậy”.
“Loại hồ sơ gì vậy?”
“Tôi đang biên soạn lại hồ sơ tội phạm của Wind Gap, lịch sử tội ác của thị trấn”, anh ta nói, đẩy chồng giấy tờ về phía tôi. “Cô có biết năm 1975, hai bé gái vị thành niên đã chết ở rìa Falls Creeks với cổ tay bị cắt, rất gần chỗ Ann Nash bị kẹt lại? Cảnh sát cho đó là tự sát. Những đứa con gái gần gũi, thân mật trên mức bình thường ở độ tuổi của chúng. Nghi ngờ về mối quan hệ đồng tính được đặt ra. Nhưng họ không bao giờ tìm được con dao. Thật kỳ quặc”.
“Một trong hai người có tên là Murray”.
“A, cô biết rồi à”.
“Cô ấy có một đứa con nhỏ”.
“Ừ, một bé gái”.
“Đó chắc là Faye Murray. Cô ấy học chung trường trung học với tôi. Họ gọi cô là Fag [3] Murray. Bọn con trai thường dắt cô vào rừng sau giờ học và luân phiên quan hệ với cô. Mẹ cô tự tử, và mười sáu năm sau, Faye quan hệ với tất cả những đứa con trai trong trường”.
“Tôi không hiểu”.
“Điều đó chứng tỏ cô ta không bị đồng tính. Mẹ nào con nấy, đúng không? Nếu không quan hệ với bọn con trai trong trường, chẳng ai liên quan đến cô ấy cả. Nhưng cô ấy đã làm. Và cô đã chứng minh mình không phải đồng tính. Cô ấy đã là đứa con gái dâm đãng. Và chẳng ai làm bạn với cô ấy cả. Đó chính là Wind Gap. Chúng tôi biết bí mật của người khác. Và chúng tôi đều lợi dụng chúng”.
“Một nơi thật dễ thương”.
“Vâng. Cho tôi ý kiến xem nào”.
“Tôi vừa nói đấy thôi”.
Điều này làm tôi phá lên cười, và khiến mình ngạc nhiên. Tôi có thể tưởng tượng điều này khi gửi bài cho Curry: “Cảnh sát không có chứng cứ, nhưng tin rằng Wind Gap là một nơi dễ thương”.
“Nghe này, Camille, hãy thỏa thuận thế này. Tôi sẽ cho cô những ý kiến để cô ghi âm, và cô giúp tôi điền vào những chỗ còn trống trong những câu chuyện. Tôi cần ai đó nói cho tôi biết thị trấn này thật sự thế nào, và Vickery thì không làm điều đó. Ông ta rất... thận trọng”.
“Cho tôi những ý kiến để ghi âm. Nhưng làm việc với tôi khi tắt ghi âm. Tôi sẽ không dùng bất kỳ điều gì anh cung cấp trừ khi anh nói điều đó ổn. Anh có thể dùng tất cả những gì tôi cung cấp cho anh”. Đây không phải là một thỏa thuận sòng phẳng, nhưng tôi phải làm.
“Tôi phải đưa ý kiến như thế nào?” Richard cười.
“Anh có thật sự tin những vụ giết người này là do người bên ngoài gây ra không?”
“Để đăng báo à?”
“Phải”.
“Chúng tôi không nghiêng về bất cứ giả thuyết nào cả”. Anh ta cắn miếng bánh quế cuối cùng và ngồi suy tư, mắt dán chặt lên tường. “Chúng tôi đã tìm hiểu rất kỹ những đối tượng tình nghi trong cộng đồng, nhưng cũng cân nhắc rất cẩn thận khả năng những vụ giết người này có thể do người bên ngoài làm”.
“Vậy anh không có manh mối nào”.
Anh ta cười, nhún vai. “Tôi đã cho cô ý kiến của mình”.
“Rồi, không ghi âm, anh không có manh mối nào à?”
Anh ta cạy nắp chai si rô nhớp nháp lên xuống vài lần, đặt chéo bộ đồ dùng bằng bạc lên dĩa.
“Tắt ghi âm, Camille, cô thực sự nghĩ vụ này giống như tội ác do bên ngoài làm à? Cô là phóng viên hình sự à?”
“Tôi không có”. Nói to điều này làm tôi bối rối. Tôi cố gắng giữ mắt không nhìn vào mấy cái răng nĩa trước mặt.
“Cô gái thông minh đấy”.
“Vickery nói anh nghĩ có thể là gã nào đó đi nhờ xe hay tương tự vậy”.
“Ồ, mẹ kiếp, tôi đề cập đến nó như một khả năng khi lần đầu đến đây hồi chín tháng trước. Ông ta bám vào nó như là bằng chứng cho việc tôi thiếu năng lực. Vickery và tôi có vấn đề về giao tiếp”.
“Anh có nghi ngờ thật sự nào không?”
“Để tôi mời cô đi uống tuần này. Tôi muốn cô nói ra tất cả những gì cô biết về tất cả mọi người ở Wind Gap”.
Anh ta lấy phiếu tính tiền, đẩy chai si rô vào tường. Nó để lại vệt đường hình tròn trên bàn, và không cần suy nghĩ, tôi nhúng ngón tay vào đó rồi đút vào miệng. Những vết sẹo thoáng lộ ra dưới tay áo. Richard chỉ thấy như tôi vừa rút tay xuống bàn.
Tôi không màng đến ý nghĩ kể hết những câu chuyện về Wind Gap cho Richard. Tôi thấy mình không đặc biệt yêu mến thị trấn này. Đây là nơi em gái tôi đã chết, nơi tôi bắt đầu cắt da thịt mình. Thị trấn chật chội và nhỏ bé, bạn lướt qua những người bạn căm ghét mỗi ngày. Mọi người biết mọi thứ về bạn. Đây là nơi để lại dấu tích.
Bề ngoài thì có vẻ tôi không thể được đối xử tốt hơn khi ở đây. Mẹ tôi thấy vậy. Thị trấn yêu quý bà, bà là vật trang trí trên đỉnh bánh kem: cô gái xinh xắn, ngọt ngào nhất mà Wind Gap từng nuôi dưỡng. Cha mẹ bà, ông bà ngoại của tôi, sở hữu trang trại nuôi heo và một nửa số nhà xung quanh đó, nuôi dạy mẹ tôi dưới những quy định nghiêm khắc mà họ áp dụng cho công nhân của mình: không rượu chè, không thuốc lá, không văng tục, nghĩa vụ nhà thờ bắt buộc. Tôi có thể tưởng tượng họ phải phản ứng thế nào khi biết mẹ tôi mang thai ở tuổi mười bảy. Thằng nhóc nào đó từ Kentucky mà mẹ đã gặp ở buổi cắm trại nhà thờ, đã đến thăm vào dịp Giáng sinh và để tôi lại trong bụng bà. Ông bà tôi giận dữ với khối u song sinh cho hợp với cái bụng của mẹ ngày một to ra, và đã chết vì ung thư năm tôi chào đời.
Ông bà tôi có bạn ở Tennesse, và con trai họ theo đuổi Adora trước khi tôi thành hình, đã đến thăm mẹ tôi hàng tuần. Tôi không thể hình dung việc theo đuổi này là gì ngoài sự vụng về. Alan, vuốt và ép chặt nếp quần, bàn về thời tiết. Mẹ tôi, lần đầu tiên trong đời cảm thấy cô đơn và đơn độc, cần một sự tương xứng, phá lên cười về... những câu chuyện đùa? Tôi không chắc Alan có bao giờ nói đùa trong suốt cuộc đời ông, nhưng tôi chắc mẹ đã tìm ra được lý do nào đó để cười khúc khích một cách duyên dáng với ông. Và tôi ở đâu trong bức tranh đó? Chắc chắn ở góc phòng xa xôi nào đó, bị người hầu bắt giữ im lặng, Adora tuồn cho cô ta thêm năm đô vì những rắc rối. Tôi có thể tưởng tượng ra Alan, cầu hôn mẹ tôi trong khi giả vờ nhìn qua vai bà, hay bực mình với cái cây nào đó, bất cứ điều gì để tránh trao đổi ánh mắt với nhau. Mẹ tôi chấp nhận thật hòa nhã và rót thêm trà cho ông. Họ trao nhau nụ hôn ráo hoảnh, có lẽ vậy.
Điều này không quan trọng. Vì lúc tôi biết nói thì họ đã cưới nhau rồi. Tôi hầu như không biết gì về cha ruột của mình. Tên trên giấy khai sinh là giả: Newman Kennedy, tên của một diễn viên và vị tổng thống mẹ tôi yêu thích nhất, một cách tôn trọng. Bà từ chối cho tôi biết tên thật, sợ tôi tìm kiếm ông. Không hề, thật ra tôi đã từng giả vờ mình là con của Alan. Điều này rất khó vì bà đã nhanh chóng có con với Alan, tám tháng sau khi ông cưới bà. Bà hai mươi tuổi, ông thì ba mươi lăm, với số tiền của gia đình mà bà không cần vì chính bà đã có rất nhiều tiền. Không ai trong số họ từng làm việc. Qua vài năm, tôi biết thêm vài chuyện khác của Alan. Ông từng thắng giải đua ngựa nhưng không còn tham gia vì nó làm Adora căng thẳng. Ông hay bệnh, và ngay cả khi không bệnh thì ông cũng hầu như bất động. Ông đọc vô số sách về Nội chiến và phần lớn để mẹ tôi nói suốt trong những cuộc chuyện trò. Ông dịu dàng và nông cạn như cái ly thủy tinh. Và lần nữa, Adora không bao giờ cố tạo ra sự ràng buộc giữa chúng tôi. Tôi vờ làm con của Alan nhưng ông chưa bao giờ trở thành cha của tôi, tôi cũng chưa bao giờ được khuyến khích gọi ông là gì khác ngoại trừ tên thật. Alan không bao giờ cho tôi biết họ của ông và tôi cũng chưa từng hỏi. Tôi nhớ một lần, khi còn nhỏ, mình đã từng cố gọi Cha và vẻ mặt rất sốc của ông đã đủ chặn đứng bất kỳ nỗ lực nào khác. Thẳng thắn thì tôi nghĩ Adora thích chúng tôi là những người lạ. Bà muốn mọi mối quan hệ trong nhà đều thông qua bà.
Tuy nhiên, quay lại với đứa trẻ, Marian là một đứa bé ngọt ngào nhưng đầy bệnh tật. Ban đầu con bé bị khó thở, vào buổi tối phải thức giấc và lắp bắp thở, nó bẩn thỉu và xám ngoét. Từ phòng mình, tôi có thể nghe tiếng con bé như một làn gió bệnh hoạn thổi dọc hành lang, trong phòng ngủ cạnh phòng mẹ. Đèn sáng lên và những lời thì thầm an ủi, hay đôi khi là tiếng khóc hay quát tháo. Vài chuyến cấp cứu đều đặn, ở tận Woodberry cách đó hai mươi lăm dặm. Sau đó, con bé có vấn đề với hệ tiêu hóa và ngồi lẩm bẩm với những con búp bê của mình trên chiếc giường bệnh viện được kê trong phòng, trong khi mẹ tôi rót thuốc bổ và cho con bé ăn bằng ống.
Suốt những năm tháng cuối cùng, mẹ tôi vặt trụi lông mi của mình. Bà không thể rời tay khỏi chúng. Bà để nhiều cọng lông mi nhỏ xíu trên bàn. Tôi tự nói đó là những tổ chim. Tôi nhớ mình tìm thấy hai cọng lông mi dài màu vàng vướng ở chân và đã giữ chúng bên gối hàng tuần liền. Vào buổi tối tôi cù chúng vào má và môi mình, cho đến một ngày thức dậy thì phát hiện chúng đã bay mất.
Vào thời điểm em gái tôi chết, theo một cách nào đó, tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Với tôi, dường như con bé bị ném vào thế giới này mà không được chuẩn bị đầy đủ. Con bé chưa sẵn sàng cho gánh nặng này. Mọi người thì thầm những lời an ủi rằng Marian được gọi về thiên đàng, nhưng mẹ tôi bị phân tâm vì nỗi sầu khổ của bà. Đến hôm nay thì nó đã trở thành thói quen.
Xe hơi của tôi, màu xanh đã bạc, đầy phân chim, những cái ghế da hẳn đang nóng sôi lên, có vẻ không chào đón cho lắm nên tôi quyết định đi bộ quanh thị trấn. Ở Đường Chính, đi ngang cửa hàng gia cầm treo lủng lẳng đám thịt gà tươi vừa được gia công ở nông trại Arkansas. Cái mùi xộc thẳng vào mũi tôi. Khoảng hơn một tá chim được treo một cách dâm đãng trên cửa sổ, ít lông trắng rơi xuống bậc cửa bên dưới.
Đi thẳng đến cuối đường, một đền thờ tạm thời cho Natalie được dựng lên, tôi có thể thấy Amma và ba đứa bạn của con bé. Chúng đang gỡ đám bong bóng và quà của cửa hàng dược phẩm, ba đứa đứng gác trong khi đứa em cùng mẹ khác cha của tôi thó hai cây đèn cầy, một bó hoa và một con gấu bông. Tất cả, trừ con gấu, chui tọt vào cái túi to ngoại cỡ của nó. Nó cầm con gấu khi đám con gái còn lại khoanh tay và soi mói về phía tôi. Thật ra là nhìn thẳng vào tôi, không dừng lại cho tới khi tôi cách chúng chừng một inch, không khí ngập mùi nước hoa khá nồng được phát từ những mẫu quảng cáo trên tạp chí.
“Chị có thấy tụi này làm không? Chị có đưa nó lên báo không?” Amma rít lên. Rõ ràng là con bé không thể hiện cơn giận dữ như vụ ngôi nhà búp bê. Những việc ấu trĩ đó dứt khoát đã bị bỏ ở nhà. Bây giờ con bé mặc đồ mùa hè và một chiếc váy mini, giày đế xuồng và áo ngắn. “Nếu chị làm, làm ơn viết đúng tên em nhá: Amity Adora Crellin. Các cậu, đây là... chị tớ. Từ Chicago. Đứa con hoang của gia đình”. Amma nhướng lông mày về phía tôi, và đám con gái khúc khích. “Camille, đây là những người bạn rấttt đáng yêu của em, nhưng chị không cần viết về họ. Em là đứa cầm đầu”.
“Bạn ấy là đứa cầm đầu vì là đứa ồn ào nhất”. Một con bé nhỏ nhắn có mái tóc màu mật ong và giọng ồm ồm nói.
“Và bạn ấy có ngực bự nhất”, đứa thứ hai có tóc màu đồng nói.
Đứa thứ ba, tóc màu vàng dâu, chộp lấy ngực trái của Amma và nhéo nó: “Phần là thật, phần là độn”.
“Bỏ ra, Jodes”. Amma nói và vả vào mu bàn tay con bé như thể trừng phạt một con mèo. Con bé ứa nước mắt và thì thầm lời xin lỗi.
“Dù sao đi nữa, thỏa thuận là gì, chị gái?” Amma đề nghị, nhìn xuống con gấu bông. “Tại sao chị lại viết về hai đứa con gái đã chết mà trước đây không ai thèm để ý? Giống như việc bị giết khiến chị nổi tiếng vậy”. Hai đứa con gái cười lớn, đứa thứ ba vẫn nhìn chằm chằm xuống đất. Nước mắt rơi xuống vệ đường.
Tôi nhận ra vẻ khiêu khích trong cuộc trò chuyện của đám con gái này. Và trong khi một phần tôi theo dõi câu chuyện, tôi muốn bảo vệ Natalie và Ann, và một phần thái độ hung hăng đầy khinh miệt của đứa em gái khiến tôi xù lông. Chân thành mà nói, tôi nên thêm vào là tôi đang ganh tỵ với Amma. (Tên lót của con bé là Adora?).
“Chị cá Adora sẽ không vui khi đọc được con gái bà trộm đồ quyên góp cho một trong những đứa bạn cùng trường”, tôi nói.
“Bạn cùng trường không giống như bạn bè”, con bé cao ráo vừa nói vừa nhìn xung quanh để xác nhận sự ngu ngốc của tôi.
“Ô, Camille, tụi em chỉ đùa thôi mà”, Amma nói. “Em thấy khủng khiếp. Tụi nó là những đứa con gái dễ thương. Chỉ kỳ quặc thôi”.
“Hoàn toàn kỳ quặc”, một đứa trong đám lặp lại.
“Này các cậu, nếu hắn giết hết bọn lập dị thì sao?” Amma khúc khích.
“Chẳng phải quá tuyệt sao?” Con bé đang khóc nhìn lên và cười. Amma phớt lờ nó.
“Hắn?” tôi hỏi.
“Mọi người đều biết ai làm mà”, con bé tóc vàng giọng ồm ồm nói.
“Anh trai Natalie. Gia đình lập dị”. Amma tuyên bố.
“Hắn ta có đồ đạc của con gái”, con bé tên Jodes buồn bã nói.
“Hắn ta luôn tìm cớ nói chuyện với em”, Amma nói. “Ít nhất là giờ thì em biết hắn sẽ không giết em. Quá đã”. Con bé quăng một nụ hôn gió và chuyển con gấu sang Jodes, móc tay vào đám con gái khác, và, xùy một tiếng hỗn xược về phía tôi. Jodes lẽo đẽo theo sau.
Trong sự ác ý của Amma, tôi bắt được sự tuyệt vọng và chính đáng. Như lúc con bé rên lên ở bữa sáng: Con ước mình bị giết. Amma không muốn ai được chú ý hơn con bé. Đương nhiên không đứa con gái nào có thể cạnh tranh được với nó khi chúng còn sống.
Tôi gọi về nhà Curry lúc gần nửa đêm. Curry thực hiện một sự đảo lộn, ông mất chín mươi phút đến văn phòng chúng tôi ở khu ngoại ô, khi đi từ căn hộ mà ba mẹ ông đã để lại ở Mt. Greenwood, khu vực của tầng lớp lao động người Ái Nhĩ Lan tại Sound Side. Ông và vợ ông, Eileen, không có con cái. Không bao giờ muốn đứa nào cả, Curry luôn quát lên như thế, nhưng tôi đã thấy cách ông nhìn những đứa con của nhân viên từ đằng xa, cách ông để tâm đến những đứa trẻ thỉnh thoảng xuất hiện trong văn phòng chúng tôi như thế nào. Curry và vợ kết hôn muộn. Tôi đoán họ đã không nhận thức được điều đó.
Eileen là một phụ nữ tóc đỏ với thân hình hấp dẫn và tàn nhang mà ông gặp ở tiệm rửa xe nhà hàng xóm lúc ông bốn mươi hai tuổi. Sau đó, hóa ra bà là họ hàng của người bạn thân thuở nhỏ của ông. Họ kết hôn sau ba tháng kể từ khi nói chuyện với nhau lần đầu tiên. Bên nhau hai mươi hai năm. Tôi thích cách Curry vui vẻ kể lại câu chuyện.
Eileen trả lời điện thoại rất ấm áp, đó là điều tôi đang rất cần. Đương nhiên là chưa ngủ, bà cười lớn. Thật ra thì Curry đang chơi xếp hình, 4.500 miếng. Nó ngập cả phòng khách và bà cho ông một tuần để hoàn thành nó.
Tôi có thể nghe tiếng Curry trên điện thoại, gần như ngửi được mùi thuốc lá của ông. “Preaker, cô gái, có gì không? Cô ổn chứ?”
“Tôi ổn. Không mấy tiến triển ở đây. Mất từng này thời gian chỉ để có kết luận chính thức từ cảnh sát”.
“Cái nào?”
“Họ để ý tất cả mọi người”.
“Ừ. Chết thật. Phải có nhiều hơn. Tìm nữa đi. Cô có nói chuyện lại với cha mẹ đứa bé nữa không?”
“Không”.
“Nói chuyện lại với cha mẹ nó. Nếu không moi được gì, tôi muốn có thông tin về những đứa con gái đã chết. Đó là những gì mọi người quan tâm, không chỉ từ các báo cáo chính xác của cảnh sát. Nói chuyện với những bậc cha mẹ khác luôn, xem họ có giả thiết gì không. Hỏi họ có gia tăng sự đề phòng không. Nói chuyện với thợ khóa và tay bán vũ khí xem họ có phi vụ ngoài lề nào không. Tìm tay giáo sĩ hay giáo viên nào đó. Có thể là nha sĩ, thử xem nhổ từng ấy răng có khó không, dùng dụng cụ gì, như vậy cô sẽ có thêm kinh nghiệm. Nói chuyện với lũ trẻ. Tôi muốn những tiếng nói. Tôi muốn những gương mặt. Nộp tôi ba mươi inch vào chủ nhật, hãy làm việc này khi chúng ta còn chút riêng tư”.
Tôi ghi chú vào giấy, sau đó vào trong đầu mình, và tôi bắt đầu miết những vết sẹo trên cánh tay phải bằng cây viết bấm.
“Ý ông là trước khi có vụ án mạng khác”.
“Trừ phi cảnh sát biết nhiều hơn những gì họ cung cấp cho cô, tất nhiên sẽ có vụ khác, đúng thế. Kiểu người này sẽ không dừng lại sau hai vụ, sẽ không khi nó hớ hênh thế này”.
Curry không biết bất cứ điều gì về những vụ giết người theo nghi thức thế này, nhưng ông đã nghiên cứu một vài tội ác cấp thấp thật sự, đánh dấu những quyển sách với bìa bóng loáng mà ông chọn tại hiệu sách quen thuộc của mình.
“Vậy thì, Cục Bông, có giả thiết nào việc đó là do người địa phương làm không?”
Curry có vẻ thích đặt biệt danh cho tôi, con nhóc phóng viên yêu thích của ông. Giọng ông luôn líu lại khi dùng từ đó, như chính từ ngữ đó xấu hổ vậy. Tôi có thể hình dung ông ngồi trong phòng khách, dán mắt vào bộ xếp hình, Eileen kéo nhanh một hơi từ điếu thuốc của ông trong khi bà trộn xà lách cá ngừ với dưa chua ngọt cho bữa trưa của Curry. Ông ăn nó ba lần một tuần.
“Không ghi âm, họ nói có”.
“Tốt quá, mẹ kiếp, buộc họ nói vậy khi ghi âm. Chúng ta cần nó. Điều đó rất tốt”.
“Có vài điểm kỳ lạ, Curry. Tôi nói chuyện với một thằng nhóc nói nó đã ở cùng Natalie khi con bé bị bắt. Nó nói đó là một phụ nữ”.
“Một phụ nữ? Không phải phụ nữ đâu. Cảnh sát nói gì?”
“Miễn bình luận”.
“Thằng nhóc là con ai?”
“Con trai của một công nhân giết lợn. Cậu bé hiền lành. Nó có vẻ rất sợ, Curry”.
“Cảnh sát không tin nó, hay cô thấy nên nghe chuyện đó. Đúng không?”
“Tôi thật tình không biết. Ở đây họ rất kín kẽ”.
“Chúa ơi, Preaker, khai thác đám con trai. Ghi âm điều gì đó”.
“Nói thì dễ lắm. Điều này rất khó khăn vì tôi là người ở đây. Họ sẽ gửi xác tôi về trong tấm vải bọc vì nó đấy”.
“Làm cho họ thích cô. Cô là người đáng yêu. Mẹ cô sẽ bảo đảm cho cô”.
“Bà cũng không vui khi tôi ở đây”.
Im lặng, sau đó là tiếng thở dài bên đầu dây của Curry làm tai tôi kêu vo vo. Cánh tay phải của tôi là một tấm bản đồ của những nỗi buồn sâu thẳm.
“Cô ổn không, Preaker? Cô có chăm sóc mình tốt không?”
Tôi không nói gì. Đột nhiên tôi thấy mình sắp khóc.
“Tôi ổn. Nơi này tác động đến tôi rất tệ. Tôi thấy... không có gì ổn cả”.
“Cô sẽ ổn, cô gái ạ. Cô đang làm rất tốt. Cô sẽ ổn thôi. Và nếu mọi việc xấu đi, hãy gọi cho tôi. Tôi sẽ đưa cô ra khỏi đó”.
“Được rồi, Curry”.
“Eileen nói cô cẩn thận. Mẹ kiếp, tôi nói là hãy cẩn thận đấy”.
Chú thích:
[1] Một tên gọi khác của thành phố Chicago.
[2] Joan of Arc hoặc Jeanne d’Arc (1412-1431), còn được biết đến với tên gọi “Thánh nữ Orleans”, được phong là một vị thánh của đạo Thiên Chúa và là nữ anh hùng dân tộc của nước Pháp. Sinh ra ở miền Đông nước Pháp, Joan đã lãnh đạo quân đội Pháp giành một số thắng lợi trong Cuộc chiến Trăm Năm (Hundred Years’ War), tuyên bố mình được thần thánh dẫn dắt và gián tiếp góp phần đưa vua Charles VII lên ngôi. Cô bị người Anh bẳt giữ, đưa đi xét xử ở tòa án giáo hội và bị thiêu sống khi mới 19 tuổi. Mãi đến 24 năm sau, Tòa Thánh mới xem xét lại quyết định của tòa án giáo hội, nhận ra cô vô tội và tuyên bố cô đã tử vì đạo. Cô được ban phúc lành năm 1909 và được phong thánh năm 1920.
Joan Arc giữ hình ảnh rẵt quan trọng trong văn hóa phương Tây. Từ thời
Napoleon cho đến nay, các chinh trị gia Pháp của mọi đảng phái đểu rất tôn thờ cô.
[3] Tiếng lóng, chỉ người đồng dâm.