CHƯƠNG 30

     ây là nơi Patrick Johnson đã làm việc,” Carter Gray vừa nói, vừa khoát tay quanh căn phòng.
Alex chậm rãi quan sát xung quanh. Căn phòng này rộng gần bằng một nửa sân bóng bầu dục với một khoảng trống rộng lớn ở giữa và các ô làm việc nhỏ bao quanh. Những chiếc máy tính với màn hình phẳng hiện diện trên tất cả các mặt bàn làm việc và tiếng những cỗ máy chủ kêu rì rì trong không khí. Những người đàn ông và phụ nữ diện đồ như dân kinh doanh hoặc là ngồi ở bàn của mình hoàn toàn tập trung vào công việc hoặc là đang rảo bước khắp gian sảnh nói chuyện vào những chiếc tai nghe bằng thứ thuật ngữ chuyên môn được mã hóa mà ngay cả Alex, với một thời gian dài làm việc cho liên bang, cũng không tài nào hiểu nổi. Không khí khẩn trương hiện hữu đến mức tưởng chừng như sờ thấy được.
Khi Gray dẫn họ tới một dãy ô làm việc sát trong góc, Alex thoáng nhìn thấy hình ảnh những bộ mặt người loang loáng hiện lên trên các màn hình máy tính, hầu hết là người Trung Đông, với những số liệu, có lẽ là về từng người một, chạy dọc một bên của màn hình. Anh không hề nhìn thấy một mảnh giấy nào.
“Chúng tôi không dùng giấy,” Gray nói.
Alex giật mình khi nghe lời tuyên bố đó. Chẳng lẽ trong vốn liếng của ông ta có cả khả năng đọc ý nghĩ của người khác?
“Ít nhất thì những người làm việc ở đây cũng không dùng. Tôi thì vẫn thích cảm nhận thứ chất liệu đó trong tay mình.” Ông ta dừng lại bên một ô làm việc, lớn hơn hẳn so với những ô còn lại, có vách cao ngang đầu người, thay vì chỉ đến ngang hông như bình thường.
“Đây là phòng của Johnson.”
“Con đoán anh ta là trưởng nhóm hay đại loại như vậy,” Simpson nhận xét.
“Đúng thế. Chính xác thì nhiệm vụ của anh ta là giám sát công việc trên những file dữ liệu của chúng ta về tất cả các nghi can liên quan đến khủng bố. Khi chúng ta tiếp quản NTAC, chúng ta kết hợp nhân sự rồi cả hồ sơ của họ vào với của mình. Đó là một sự kết hợp lý tưởng. Tuy nhiên, chúng ta, tất nhiên, không hề muốn loại bỏ hoàn toàn sự liên quan của Cơ quan Mật vụ. Đó là lý do tại sao Johnson và những người khác được gọi là nhân viên chung.”
Gray nói câu này với giọng làm ra vẻ đại lượng. Tuy nhiên, khi Alex nhìn quanh không gian làm việc, anh tự nhủ trong đầu. Chiếc xương quẳng cho bọn tôi nhìn thì đẹp nhưng đúng là vô tích sự, vì bọn tôi làm quái gì có quyền hành với những nhân viên “chung” của mình cơ chứ. Ánh mắt của anh dừng lại ở thứ đồ vật cá nhân duy nhất trong văn phòng. Đó là một bức ảnh nhỏ lồng khung của Anne Jeffries được đặt trên bàn làm việc của Johnson. Alex nhận thấy là khi người phụ nữ này trang điểm đầy đủ, nhìn cô ta rất xinh xắn. Anh tự hỏi không biết lúc này Anne Jeffries có đang gặp một luật sư không. Lát sau có một người đàn ông khác đến tham gia cùng với họ.
Tom Hemingway nhoẻn cười khi anh ta chìa tay mình ra với Alex. “Chà, tôi đoán là vỏ bọc của tôi bị lộ tẩy rồi, đặc vụ Ford.”
“Tôi cũng đoán thế,” Alex vừa nói vừa nhăn mặt vì bàn tay siết chặt của Tom.
Gray nhướng một bên lông mày. “Hai người biết nhau rồi à?”
“Thông qua Kate Adams, luật sư bên Bộ Tư pháp mà tôi đang làm việc cùng, thưa ngài.”
Simpson bước lên phía trước. “Tôi là Jackie Simpson, Cơ quan Mật vụ.”
“Tôi là Tom Hemingway.”
“Rất vui được gặp anh, Tom.” Cô ngây người ngắm nhìn anh chàng Hemingway đẹp trai cho đến khi cô nhận ra Alex đang cau mày nhìn mình.
“Tôi đang chỉ cho họ xem qua văn phòng của Patrick Johnson và giải thích những gì anh ta làm cho chúng ta,” Gray nói. “Họ đại diện cho Cơ quan Mật vụ trong việc điều tra cái chết của anh ta.”
“Nếu ngài sẵn lòng, thưa ngài, tôi có thể tiếp quản từ đây. Tôi biết là ngài sắp có một cuộc họp.”
“Tom biết về máy tính hơn tôi rất nhiều,” Gray nói. Điều này không hoàn toàn chính xác, nhưng Gray chưa bao giờ là người thích khoe khoang những điểm mạnh của mình, vì chính sự kiêu căng sẽ biến chúng thành những điểm yếu.
“Đừng quên nói với cha con những gì ta vừa nói, Jackie.” Và rồi Gray để họ lại đó.
“Vậy chính xác hai người đang tìm kiếm điều gì?” Hemingway hỏi.
“Cơ bản là tìm hiểu những gì Johnson làm ở đây,” Alex trả lời. “Bộ trưởng Gray nói anh ta giám sát các file dữ liệu về những nghi can khủng bố.”
“Đúng vậy, cùng với một số việc khác nữa. Tôi nghĩ cách tốt nhất để miêu tả công việc này là anh ta và các trưởng nhóm giám sát dữ liệu khác cũng giống như những nhân viên kiểm soát không lưu kỳ cựu nhằm đảm bảo cho các mảnh ghép ăn khớp với nhau thật trơn tru. Các cơ sở dữ liệu được cập nhật liên tục với những thông tin tình báo mới. Và chúng tôi cũng phân luồng dữ liệu nữa. FBI, DEA, Bộ An ninh Nội địa, ATF, CIA, DIA và các cơ quan khác đều có những cơ sở dữ liệu của riêng mình. Có rất nhiều sự chồng chéo và thông tin sai lệch trong khi không có cách nào để một cơ quan có thể truy cập hoàn toàn vào cơ sở dữ liệu của một cơ quan khác. Đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến thảm kịch 11-9. Giờ thì tất cả đều được lưu giữ tại đây, nhưng các cơ quan khác được phép truy cập 24/24.”
Alex lên tiếng. “Chẳng phải như thế sẽ hơi rủi ro sao, dồn tất cả vào một chỗ?”
“Chúng tôi có một trung tâm dự phòng, tất nhiên,” Hemingway nói.
“Nó được đặt ở đâu?” Alex hỏi.
“Tôi e rằng đó là thông tin tuyệt mật.”
Hừm, lại giở cái trò đó ra nữa rồi.
“Và hãy nhớ rằng hệ thống của chúng tôi không thay thế cho hệ thống AFIS của FBI,” Hemingway nói, anh ta muốn ám chỉ hệ thống xác định dấu vân tay tự động của FBI. “Chúng tôi chỉ truy lùng những tên khủng bố, chứ không phải những tên ẩu đả hoặc dân cướp ngân hàng. Chúng tôi cũng mua một số công ty tư nhân chuyên về khai thác dữ liệu tình báo và những lĩnh vực chuyên môn công nghệ khác.”
“NIC mua những công ty tư nhân ấy à?” Alex hỏi.
Hemingway gật đầu. “Chính phủ không việc gì phải tái đầu tư cho những gì mà khu vực tư nhân đã có. Các phần mềm thực sự có khả năng truy cập vào hàng nghìn tỷ byte thông tin trong nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau và xây dựng các mô hình, đặc điểm tình nghi và hành vi cũng như các quy luật hoạt động có thể được sử dụng cho các cuộc điều tra. Những điệp viên của chúng tôi có thiết bị cầm tay, như PalmPilot, cho phép họ truy cập ngay lập tức tới những cơ sở dữ liệu này. Với một lệnh truy vấn duy nhất họ có thể truy cập tất cả những thông tin liên quan về một chủ đề. Đó thực sự là một thành tựu phi thường.”
“Làm thế nào các anh có thể duy trì hiệu quả hoạt động có quy mô lớn như thế này trong khi các cơ quan khác không ngừng chuyển dữ liệu về cho các anh?” Alex hỏi.
“Lúc tất cả các file của những cơ quan khác mới được chuyển đến, quả thực đã gây ra hiện tượng tồn ứ phải giải quyết. Và nói để anh biết thôi, cũng đã có những trục trặc nhất định, và quả thật hệ thống cũng đổ vỡ một vài lần. Nhưng giờ thì tất cả đều vận hành trơn tru rồi. Nhiệm vụ của Johnson cũng như những người khác ở đây là giám sát và bảo đảm về độ chính xác của những thông tin được nạp vào hệ thống. Đó là công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ rất kỳ công.”
“Vậy là không được tốc độ cho lắm,” Alex nói.
“Tốc độ cũng trở nên vô ích nếu như thông tin đó không chính xác,” Hemingway phản bác. “Mặc dù chúng tôi cố gắng giữ cho tất cả đều cập nhật và chính xác hết mức có thể, nhưng sự hoàn hảo, tất nhiên, là rất khó có thể đạt được.”
“Anh có thể cho chúng tôi xem một số file mẫu được không?” Simpson hỏi.
“Chắc chắn rồi.” Hemingway ngồi xuống bàn làm việc của Johnson và đặt bàn tay của gã lên một máy đo đạc sinh học. Sau đó gã bấm vài phím trên máy tính, và một khuôn mặt hiện ra trên màn hình cùng với dấu vân tay và những dữ liệu nhận dạng khác.
Đột nhiên Alex nhận ra anh đang nhìn vào hình ảnh của chính mình, với thông tin gần như về tất cả mọi việc anh đã làm kể từ khi lọt lòng mẹ.
“Tiền án vì uống rượu chưa đủ tuổi,” Simpson nói, sau khi đọc thử một đoạn.
“Thông tin đó lẽ ra phải được xóa khỏi hồ sơ của tôi rồi chứ,” Alex xẵng giọng.
“Tôi tin chắc là nó đã được xóa khỏi hồ sơ chính thức,” Hemingway nói. “Với lại cái cổ của anh thế nào rồi? Có vẻ như anh đã phải chịu đựng một chấn thương rất nghiêm trọng.”
“Các anh còn có cả bệnh án của tôi nữa à? Chuyện quái quỷ gì xảy ra với quyền riêng tư vậy?”
“Chắc chắn anh đã quên không đọc những dòng chữ nhỏ in trên Đạo luật Yêu nước rồi.” Hemingway gõ thêm vài phím và một miền tìm kiếm khác hiện ra. Gã nói, “Anh tới LEAP Bar rất thường xuyên.” Gã chỉ vào một danh sách đề nghị thanh toán thẻ tín dụng từ quán bar này. “Tôi tin chắc là sự có mặt của cô nàng Kate Adams xinh đẹp đó cũng là một yếu tố.”
“Vậy ra cứ lần nào tôi dùng thẻ tín dụng là các anh biết tôi đang làm gì?”
“Đó là lý do tại sao tôi luôn thanh toán bằng tiền mặt,” Hemingway tự đắc nói.
Gã gõ thêm vài lệnh, và hình ảnh của Jackie Simpson, dấu vân tay đã được số hóa và trang thông tin cá nhân cơ bản hiện lên. Cô chỉ vào một dòng. “Thông tin này sai rồi. Tôi sinh ra ở Birmingham, không phải là Atlanta.”
Hemingway mỉm cười. “Thấy chưa, ngay cả NIC cũng không phải là không thể sai lầm. Tôi sẽ bảo đảm là thông tin này được điều chỉnh lại.”
“Các anh có kẻ xấu nào trong đó không, hay các anh chỉ toàn theo dõi cảnh sát với nhau vậy?” Alex hỏi.
Hemingway gõ thêm vài phím nữa, và một khuôn mặt khác vụt hiện lên. “Tên hắn là, đã từng là, Adnan al-Rimi. Hắn bị một tên khủng bố khác giết tại Virginia. Hai người có thể thấy là al-Rimi đã được xác nhận là đã chết. Đó là ý nghĩa của biểu tượng đầu lâu xương chéo ở phía góc trên bên phải. Kể ra cũng hơi cổ lỗ sĩ và tôi cũng không biết chắc là ai đã nảy ra cái ý tưởng đó, nhưng đúng là rất rõ ràng về tình trạng hiện thời của mỗi đối tượng.” Hemingway mở một cửa sổ kéo thấp phía dưới. “Anh có thể thấy hình ảnh dấu vân tay ở đây. Chúng tôi đã xác định được chính xác danh tính của al-Rimi nhờ hình ảnh dấu vân tay của hắn mà chúng tôi lưu giữ ở đây.”
“Liệu Johnson có thông tin nào có giá trị đối với ai đó không?”
“Tôi cho rằng về cơ bản thì tất cả mỗi nhân viên làm việc tại NIC đều có những thông tin có thể có giá trị đối với một kẻ thù của đất nước này, đặc vụ Ford ạ. Đó là lý do tại sao chúng tôi kiểm tra lý lịch và thực hiện chế độ theo dõi nhân viên rất chặt chẽ.”
“Không thể nào làm tốt hơn thế được,” Jackie Simpson nói.
“Ấy vậy mà sự giàu có bất thường của Patrick Johnson cũng đâu có được ai ở đây nhận ra?” Alex hỏi.
Hemingway không giấu nổi vẻ khó chịu. “Lẽ ra thì phải có người nhận ra rồi. Sẽ có nhiều cái đầu bị rơi vì vụ này.”
“Nhưng không phải đầu của anh,” Alex nhận xét.
“Không, việc đó không phải là trách nhiệm của tôi,” Hemingway trả lời.
“Anh thật may mắn. Vậy nếu ma túy không phải là nguồn thu nhập của Johnson, anh có cho rằng ít có khả năng anh ta đã bán bí mật ở đây cho bên ngoài?”
“Ít có khả năng nhưng không phải là không thể. Nhưng ma túy đã được tìm thấy ở nhà anh ta cơ mà.”
“Anh có phản đối không nếu tôi nói chuyện với những đồng nghiệp của Johnson?”
“Tôi có thể bố trí việc đó, nhưng tôi e là những cuộc thảo luận của các vị cũng sẽ được giám sát.”
“Ái chà, giống hệt trong nhà tù, chỉ có điều chúng tôi là những người tốt,” Alex nói.
“Chúng tôi cũng là những người tốt mà,” Hemingway bật lại.
Một tiếng đồng hồ tiếp theo, sau khi họ đã nói chuyện với ba trong số những đồng nghiệp của Johnson, Alex và Simpson nhận ra rằng chẳng ai trong số họ thực sự biết rõ Johnson ở khía cạnh cá nhân.
Sau khi hai người đã lấy lại súng, Hemingway tiễn họ ra ngoài. “Chúc may mắn,” anh ta nói trước khi cánh cửa tự động đóng lại sau lưng họ.
“Vâng, đúng rồi, cám ơn vì tất cả sự giúp đỡ của anh,” Alex càu nhàu.
Họ quay ra xe trong khi hai tay lính vác súng máy M-16 tò tò bám theo sau.
“Có ai trong số các anh muốn nắm tay tôi trong trường hợp tôi bỗng nhiên nổi điên không?” Alex hỏi trước khi quay ngoắt lại và bước đi trong sự giận dữ.
“Hừm, đúng là phí thời gian chẳng đâu vào đâu cả,” Simpson nói.
“Đó là thực tế của chín mươi phần trăm công việc điều tra. Cô phải biết điều đó,” Alex cáu kỉnh nói.
“Anh đang hậm hực chuyện gì mới được chứ?”
“Tất cả những chuyện xảy ra trong đó không khiến cô bực mình chút nào sao? Chết tiệt, tôi cứ đinh ninh là một bức ảnh lúc tôi đánh mất đi đời trai tân của mình cũng hiện luôn ra chứ.”
“Tôi chẳng có gì phải giấu giếm cả. Và tại sao anh lại tỏ ra là một kẻ khốn kiếp đối với Tom như vậy?”
“Tôi là một kẻ khốn kiếp đối với Tom vì thật tình cờ là tôi chả thích cái thằng chó đẻ ấy một tí nào.”
“Ồ, được rồi, tôi nghĩ điều đó giải thích cho mối quan hệ của anh với tôi.”
Alex không thèm trả lời. Nhưng anh cố tình để lại cả một vệt cao su dài trên mặt nhựa asphalt tinh khôi của NIC trước khi biến một mạch khỏi Thị trấn Anh cả.