CHƯƠNG 6

     a chả cần phải nói cũng biết Văng-sơ Coóc-lit rất ao ước được kết thân với cô gái mà anh đã có dịp tiếp đón.
Anh càng nghĩ đến buổi gặp gỡ đó thì anh mong gặp lại Phrôna Oen-sơ. Viễn cảnh lần gặp gỡ thứ hai nữa làm nẩy sinh ở anh một cảm giác xốn xang thú vị và một tâm trạng hứng khởi rất tự nhiên. Người thiếu nữ ấy là một kiểu mẫu phụ nữ mới lạ, hoàn toàn khác với những phụ nữ mà anh đã có dịp gặp. Cặp mắt màu hạt dẻ đã tươi cười với anh, bàn tay mềm mại mà mạnh dạn đã vẫy chào thân thiết anh. Hình ảnh ấy có sức quyến rũ đối với anh cũng mạnh mẽ như sức cám dỗ của quả cấm.
Dẫu rằng Văng-sơ Cooc-lit không phải là một người ngây thơ, cũng không phải là người theo lối sống khổ hạnh, nhưng sự giáo dục gia đình đã để lại ở anh màu sắc của chủ nghĩa nghiêm khắc cực đoan mà anh chưa thoát ly được hoàn toàn. Tư chất thông minh và hiểu biết rộng rãi của anh chỉ giảm được phần nào ảnh hướng của một người mẹ khắc nghiệt chứ chưa nói đến chuyện xóa bỏ. Ảnh hưởng đó vẫn bắt rễ âm thầm trong con người anh.
Văng-xơ Coóc-lít khao khát được gặp lại Phrôna Oen-sơ, anh thường nhớ lại những hình ảnh mà anh vẫn giữ trong tâm trí về cô. Dù anh đã nhanh chóng vượt qua khe, qua lộ, qua sông nhờ có đồng tiền, nhưng Phrôna vẫn tới Đao-sơn trước anh 15 ngày. Trong khi Văng-xơ phải dùng đồng tiền để san bằng những trở ngại thì chỉ cần mỗi cái tên Oen-sơ thôi - cái bùa hộ mệnh còn công hiệu hơn cả vàng bạc - cũng đủ tạo ra những điều thần kỳ để phục vụ cho Phrôna.
Sau khi đã tới Đao-sơn, Coóc-lít tiến hành ngay việc tìm một chỗ ở, chưa đầy 2 tuần anh đã mua được một căn nhà nhỏ. Kê dọn xong xuôi và đưa những thư giới thiệu gửi gấm tới những nơi quen biết. Mọi khó khăn dần dần đều vượt qua, một buổi tối, khi dòng sông đã đóng băng, thuyền bè không còn đi lại được nữa, anh đi về phía nhà của ông Gia-côp Oen-sơ. Anh hân hạnh được bà Xô-vin, phu nhân của ông ủy viên công chứng về khai thác vàng tháp tùng.
Coóc-lít không còn tin ở mắt mình nữa. Ở Klông-đai mà cũng có hệ thống lò sưởi do một trung tâm cung cấp! Khi đi vào tiền phòng và bước qua cánh cửa gỗ dày, anh đứng trong một phòng khách, một phòng khách thực sự! Đôi giầy mềm bằng da hươu rừng của anh lún trong nhửng tấm thảm mềm mại và đập ngay vào mặt anh là bức họa Mặt trời mọc của Tớc-nơ treo trên tường. Trong phòng còn trang trí nhiều bức tranh và nhiều đô mỹ thuật khác nữa. Những khúc gỗ thông lớn đang cháy lốp đốp trong hai lò sưởi kiểu Hà Lan.
Phrôna vừa dạo đàn dương cầm vừa hát. Cô rời ghế đứng dậy niềm nở ra đón tiếp Văng-xơ. Lúc gặp lại ngay trong nhà cô, bên ánh lửa bập bùng, cô thiếu nữ trông càng rực rỡ, khỏe khoắn, anh phải thầm thừa nhận rằng hình ảnh cô gái lần này đã làm lu mờ hẳn hình ảnh trong trí tưởng tượng của anh mặc dù vẫn rất giống nhau. Khi anh bắt tay cô, anh cảm thấy hơi bối rối xúc động vì một niềm vui khó tả. Bà Xô-vin đã gỡ cho anh:
- Thì ra! Cháu đã quen ông Coóc-lít rồi ư? Bà reo lên.
- Vâng, cháu đã gặp ông ấy trên đường mòn Đi-ê. Quen biết nhau trong hoàn cảnh như thế thì không thể nào quên được. Phrôna đáp.
- Thật là lãng mạn!
Bà vợ ông ủy viên công chứng tán dương.
Người thiếu phụ 40 tuổi mập mạp và lãnh đạm này bao giờ cũng cường điệu những lời tán tụng và vỗ tay đôm đốp mỗi khi bà chưa lơ mơ buồn ngủ. Đức lang quân của bà vẫn thường nói vung rằng không biết có phải Chúa đã nhập vào vợ ông hay không thì bà lại vỗ 2 bàn tay chuối mắn và reo lên: "Thật là lãng mạn!".
- Kể cho tôi nghe câu chuyện ra sao nào, bà nói tiếp. Ông ta đã cứu cháu trong một vụ đắm tàu phải không, nhận đi! Ông Coóc-lít, thế mà ông không kể với tôi chuyện đó. Tôi muốn biết rõ câu chuyện đến chết được.
Ô! Có gì đâu. Anh vội đáp lại. Tôi... nghĩa là chúng tôi...
Nhờ vị trí xã hội của gia đình anh và sự giao du của anh trong giới thượng lưu Coóc-lít tiếp xúc dễ dàng với tất cả mọi người ở đây.
  • CHƯƠNG 3
  • CHƯƠNG 4
  • CHƯƠNG 5
  • CHƯƠNG 6
  • CHƯƠNG 7
  • CHƯƠNG 8
  • CHƯƠNG 9
  • CHƯƠNG 10
  • CHƯƠNG 11
  • CHƯƠNG 12
  • CHƯƠNG 13
  • CHƯƠNG 14
  • CHƯƠNG 15
  • CHƯƠNG 16
  • CHƯƠNG 17
  • CHƯƠNG 18
  • CHƯƠNG 19
  • CHƯƠNG 20
  • CHƯƠNG 21
  • CHƯƠNG 22
  • CHƯƠNG 23
  • CHƯƠNG 24
  • CHƯƠNG 25
  • CHƯƠNG 26
  • CHƯƠNG 27
  • CHƯƠNG 28
  • CHƯƠNG 29
  • Anh làm cho Đen Bi-xốp phải khâm phục và thèm muốn sự thoải mái của anh. Đen Bi-xốp lúc đó đang ngồi trên mép chiếc ghế đầu tiên anh ta thấy và đang kiên nhẫn chờ đợi một người nào đó đứng dậy cáo từ ra về dể biết cách phải làm ra sao. Anh đã chuẩn bị sẵn cung cách cho việc cáo từ, đã tính trước từ chỗ anh ngồi ra tới cửa là bao nhiêu bước đi và đã biết phải nói gì với Phrôna nhưng anh vẫn còn phân vân không biết có phải bắt tay tất cả mọi người hay không. Anh dự định tới thăm Phrôna và "ghé qua chào cô thôi" nhưng anh lại thấy cô trong một xã hội gồm toàn những người xa lạ đối với anh...
    Coóc-lít sau khi trao đổi vài câu với một tiểu thư Moóc-ti-mơ nào đó, về sự suy thoái của trường phái văn học tượng trưng Pháp liền tiến lại chỗ Đen-bi-xôp. Anh chàng thợ mỏ đã trông thấy anh đứng trước lều ở Trại chào mừng nên nhận ra anh ngay. Anh ta đã cảm ơn rối rít về việc anh tiếp đãi Phrôna, thề thốt sẽ nhớ mãi và để đền ơn thì dù cho chỉ còn có một mảnh chăn thôi cũng sẵn sàng xan xẻ.
    Còn Đa-vơ Hác-nây thì không phải vì lầm lẫn mà đến phòng khách này, lại không chịu ngồi ngay vào chiếc ghế đầu tiên trông thấy. Với tư cách là ông vua vàng miền Enđôrađô, lão thấy mình xứng đáng góp mặt ở cái xã hội thượng lưu này với vị trí của nhà triệu phú, dẫu rằng lão chẳng biết nói năng lịch sự gì mấy ngoài những lời lão vẫn dùng trong sòng bạc nhưng lão đã đóng rất đạt, và rất hài lòng về bộ điệu mà tân khách quen thuộc. Lão cũng đối đáp trôi chảy và tỏ ra tự tin nhờ bộ đồ lịch sự và dáng điệu ung dung của lão tôn thêm lên. Với ai lão cũng buông được một đôi câu bâng quơ, không ăn nhập gì với nhau cả. Tiểu thư Moóc-ti-mơ nói tiếng Pháp đúng giọng Pari làm cho lão hơi kiềng một chút với những câu thơ của phái tượng trưng. Lão dùng đúng tiếng lóng của giới thợ săn Canada để đề nghị cô nhượng cho lão 25 li-vrơ đường trắng hay đỏ cũng được, nhưng tiểu thư Moóc-ti-mơ cũng chẳng ưu ái gì hơn mấy người khác với lão. Mỗi lần như vậy lão đều vừa cười vừa hỏi lại một cách khéo léo: "Không có đường ư? Thôi, cho tôi xem đi!".
    Lão coi thành công xã giao cực kỳ nhất của lão là đề nghị cô Phrôna đàn bài Anh đã bỏ tổ quốc vì em. Cô không thuộc bài tình ca này, nhưng vì lão hát nho nhỏ với cô mấy nốt nhạc đầu cho nên cô đệm theo bằng đàn piano. Đa-vơ hát bằng một giọng khỏe và Đen Bi-xốp lúc đó bỗng thấy mình cũng có giọng đôi chút nên đã hát hòa theo với lão ở quãng điệp khúc. Từ lúc đó Đen Bi-xốp thấy thoải mái hẳn lên nên cuối cùng đã rời ghế đứng dậy. Khi về tới nhà, anh ta dùng chân đánh thức người chung lều với anh dậy để kể lại buổi tối vui vẻ vừa qua tại nhà ông Oen-sơ.
    Bà Xô-vin lúc nào cũng hớn hở cho rằng buổi tiếp tân hôm nay thật tuyệt vời. Bà rất vui thích được nghe chàng trung úy đội cảnh sát kỵ binh và hai người đông hương với bà hát ông ổng bài Quyền lực của nước Anh và Chúa chở che cho Nữ Hoàng. Những tân khách người Mỹ đáp lại ngay bằng bài Tổ quốc tôi đây cũng là của anh và bài Giôn Brao. Gã cao lớn A-lêch. Bô-biêng, ông vua của thị trấn Tròn yêu cầu hát bài La Méc-xây-e. Rồi cuối cùng các vị khách kết thúc bằng bài Người lính canh trên sông Rin.
    Anh đừng lui tới những buổi tiếp khách như thế này nữa. Phrôna nói nhỏ với Coóc-lít lúc cáo từ ra về. Chúng ta chẳng nói được với nhau đến 3 câu, mà tôi thì cảm thấy rằng chúng ta sẽ trở thành đôi bạn tuyệt vời. Lão Đa-vơ Hác-nây có moi được anh tý đường nào không?
    Cả hai cùng cười, thế rồi Coóc-lit trở về nhà anh trong ánh sáng của mặt trời bắc cực vừa đi vừa phân tích những cảm nghĩ của anh.

    - Tôi hiểu.
    - Vậy không được lãng phí. Anh đưa 300 người đi chuyến này. Khi nào mặt sông phủ một lớp băng khá dày thì nhiều khả năng số người chuyển đi sẽ tăng lên gấp đôi. Như vậy anh sẽ phải nuôi hàng ngàn người trong mùa đông. Phải cung cấp theo khẩu phần và phải bắt họ làm việc. Sử dụng họ vào việc xẻ gỗ và xếp thành đống bên bờ sông ở những nơi tàu bè có thể ghé vào. Trả công cho họ mỗi dẫy gỗ 6 đô-la. Ai không làm thì không ăn. Anh rõ chưa?
    - Rõ.
    - Một ngàn người ăn không ngồi rồi có thể trở thành nguy hiểm. Nhàn cư vi bất thiện, điều đó đúng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Phải trông nom cẩn thận những nơi chứa lương thực. Nếu họ định ăn trộm...thì anh cứ việc thi hành nhiệm vụ của anh.
    Viên thuyền trưởng gật đầu. Hai bên tay anh ta nắm lai theo bản năng, vết sẹo đo trên trán tự nhiên chuyển sang màu tai tái.
    - Năm chiếc tàu đã bị kẹt vì băng. Anh phải đảm bảo cho những tàu này an toàn vào lúc băng tan khi mùa xuân tới. Trước hết, chuyển hết hàng lên một kho lớn và cho người canh giữ. Phái người đi Pho-bơ ngay để yêu cầu ông Các-tơ cử cho 3 nhân viên của ông ta. Ông ta không cần đến họ nữa vì tình hình ở thị trấn Tròn đã gần ổn định. Yêu cầu cả ông Bớc-oen cấp cho nửa quân số của ông ta. Họ sẽ có ích cho anh. Chắc chắn anh sẽ phải đương đầu với một số lớn những tên có võ khí.
    Anh phải tỏ ra cứng rắn ngay từ đầu. Cần nhớ rằng kẻ nào nổ súng trước thì kẻ ấy sống. Và chủ yếu là phải coi giữ chặt chẽ các kho lương thực.
    - Cũng như cả súng ống nữa. Viên thuyền trưởng Măc Grê-go lẩm bẩm khi bước ra.
    Thưa ông, ông Giôn Men-tơn xin gặp ông?
    - Ông Oen-sơ, thế này là thế nào?
    Người tên là Giôn Men-tơn theo ngay chân người thư ký bước vào một cách giận dữ, suýt xô ngã cả anh ta, vung tờ giấy trước mũi ông giám đốc công ty.
    - Này xem! Ông có nhìn thấy viết gì ở đây không?
    Ông Gia-côp Oen-sơ liếc nhìn tờ giấy rồi bình tĩnh trả lời:
    - Phiếu lĩnh 1.000 li-vrơ thực phẩm.
    - Tôi nói có đúng không nào, thế mà nhân viên của ông lại bảo không phải. Anh ta chỉ cấp cho tôi có 500 li-vrơ.
    - Anh ta nói phải.
    - Thế nhưng phiếu này...
    - Phiếu này trị giá 1.000 li-vrơ nhưng ở cửa hàng nó chỉ có giá trị là 500.
    Sao lại thế, không phải là chữ ký của ông đây hay sao?
    Ông Giôn Men-tơn chìa tờ phiếu vào sát mắt ông Gia-côp Oen-sơ.
    - Phải.
    - Vậy thì ông tính sao bây giờ?
    - Tôi sẽ cấp cho ông 500 li-vrơ thực phẩm.
    - Tôi không chịu.
    - Được lắm. Thế thì không cần nói nữa.
    - Ờ, lạ thật! Từ nay trở đi tôi không thèm làm ăn bất cứ chuyện gì với ông nữa, tôi thừa sức cho chuyển hàng của tôi qua những eo sông, ngay sang năm tôi sẽ làm cho ông xem.
    - Không hề gì. Ông có 300 ngàn đô-la vàng cám còn đọng ở kho của tôi. Ông đi gặp ông At-slơ để rút ngay số vàng cám đó đi.
    Lão Men-tơn giận quá, lồng lộn lên trong phòng.
    - Làm thế nào để có 500 li-vrơ thực phẩm nữa thì làm? Không biết! Tôi đã trả tiền rồi! Dù thế nào chăng nữa chắc ông cũng không muốn để tôi chết đói chứ?
    - Ông Men-tơn, ông nghe đây (Ông Gia-côp Oen-sơ sau một lát lặng yên để gạt tàn ở điếu xì gà) Ông muốn chuyện này đi đến đâu? Ông hi vọng cái gì?
    - Một ngàn li-vrơ thực phẩm.
    - Cho một mình ông thôi?
    Ông vua vàng vùng Bônanda gật đầu. Những nếp nhăn trên trán ông Gia-côp Oen-sơ nhíu lại:
    - Lúc này ông chỉ quan tâm đến thân ông thôi, còn tôi, tôi phải lo ăn cho 20 ngàn người!
    - Thế sao hôm qua ông cấp toàn bộ cho phiếu hàng của Tôm Măc Ke-đi? Hắn cũng CÓ một phiếu lĩnh hàng 1.000 livrơ như tôi.
    - Chỉ từ hôm nay mới thi hành chế độ hạn chế.
    - Tại sao ông không đến hôm qua và Tôm Măc Re-đi hôm nay?
    Bộ mặt của ông Men-tơn tái mét đi đến nỗi ông Gia-côp Oen-sơ phải trả lời cho chính câu hỏi của ông ta bằng một cái nhún vai.
    - Như thế đấy, ông Men-tơn. Tôi không ưu tiên cho ai cả. Nếu ông trách tôi đ&atil
    CHƯƠNG 28 CHƯƠNG 29