Nước Cộng hòa tin tặc
CHƯƠNG 11
Thứ Sáu, 13 tháng Năm
Thứ Bảy, 14 tháng Năm

     áng sớm thứ Sáu khi đi từ tòa báo Millennium đến căn hộ xưa của Salander trên đường Lundagatan, Blomkvist chú ý để chắc chắn là mình không bị theo dõi. Anh phải gặp Idris Ghidi ở Goteborg. Vấn đề là làm sao đi đến đó mà không bị quan sát hay để lại dấu vết. Anh quyết định không đi tàu vì anh không muốn dùng thẻ tín dụng. Thường thường anh mượn xe Berger nhưng nay thì không thể. Anh đã nghĩ hỏi Cortez hoặc nhờ ai đó thuê xe cho anh nhưng như thế cũng có thể để lại dấu vết.
Cuối cùng đã lóe ra giải pháp. Anh rút tiền mặt ở một ATM trên đường Gotgatan. Anh có chìa khóa chiếc Honda màu mận tím của Salander. Từ tháng Ba nó vẫn đỗ ở bên ngoài chung cư của cô. Anh chỉnh ghế, thấy xăng còn nửa bình. Rồi anh lùi xe ra và băng qua Liljeholmsbron đến xa lộ E4.
2 giờ 50 anh đỗ xe ở một phố ngách bên ngoài Avenyn ở Goteborg. Anh ăn trưa muộn ở một quán cà phê lần đầu tiên anh đặt chân đến. 4 giờ 10 anh đi xe điện đến Angered và xuống ở trung tâm thành phố. Mất hai mươi phút để tìm ra địa chỉ nơi Ghidi sống. Bị muộn mất mười phút so với hẹn.
Ghidi mở cửa, bắt tay Blomkvist, mời anh vào gian phòng khách bày biện sơ sài. Ông hơi cà nhắc. Ông mời Blomkvist ngồi vào bàn ở cạnh một tủ bát đĩa trên đó có một chục bức ảnh đóng khung. Blomkvist xem chúng.
- Gia đình tôi, - ông nói.
Giọng ông nằng nặng. Blomkvist ngờ là ông đã không vượt qua nổi cuộc sát hạch ngôn ngữ mà Ðảng Nhân dân Thụy Ðiển yêu cầu.
- Ðây là anh em ông?
- Hai anh tôi ở bên trái đã bị Saddam giết từ những năm 80. Bố tôi đứng giữa đó. Hai chú tôi bị Saddam giết hồi những năm 90. Mẹ tôi chết năm 2000. Ba chị em gái tôi còn sống. Hai người ở Syria. Và em út tôi ở Madrid. - Ghidi rót cà phê Thổ Nhĩ Kỳ.
- Kurdo Baksi gửi lời chào.
- Kurdo nói ông muốn mướn tôi làm một việc, không phải việc tôi đang làm. Tôi cần phải nói ngay là nếu việc phi pháp thì tôi không làm đâu. Tôi không dám dính vào bất cứ việc gì như thế.
- Việc tôi nhờ ông không hề phi pháp gì cả. Nhưng nó không phải việc ông vẫn quen làm. Tôi chỉ nhờ ông làm việc này trong hai tuần. Và mỗi ngày ông làm có một phút. Mỗi tuần tôi sẽ trả cho ông một nghìn krona. Tôi trả cho ông và không báo cáo cơ quan thuế.
- Tôi hiểu. Thế vậy tôi phải làm gì đây?
- Một trong những việc ông làm ở bệnh viện Sahlgrenska - một tuần sáu ngày, nếu tôi hiểu đúng - là lau quét hành lang 11C, chỗ hồi sức chứ gì?
Ghidi gật.
- Việc tôi muốn ông làm là như thế này. - Blomkvist cúi về đằng trước nói rõ kế hoạch của mình.

*

Công tố viên Ekstrom đánh giá người khách. Ðây là lần thứ ba ông gặp sĩ quan cảnh sát Nystrom. Ông nhìn bộ mặt nhăn nheo với mái tóc ngắn hoa râm. Trong những ngày tiếp theo sau vụ giết Karl Axel Bodin, Nystrom đã gặp ông lần đầu tiên. Tài liệu ông ta đưa ra cho thấy ông ta là người của SIS. Họ đã nói chuyện lâu, nhẹ nhàng.
- Quan trọng là ông hiểu cho điều này: là tôi không hề cố ảnh hưởng đến cách làm việc của ông. Tôi cũng nhấn mạnh rằng dù thế nào đi nữa ông cũng không được lộ ra ngoài cái thông tin mà tôi cho ông, - Nystrom nói.
- Tôi hiểu.
Thực tình Nystrom nói những gì Ekstrom cũng chẳng hiểu hết nhưng ông không muốn hỏi, sợ tỏ ra mình không được thông minh mấy. Ông chỉ hiểu rằng cần phải xử lý hết sức kín đáo thận trọng vụ Karl Axel Bodin bị giết. Ông cũng hiểu Nystrom đến gặp ông đây là không chính thức, tuy các vị phụ trách cao nhất trong Cảnh sát An ninh có tán thành.
- Chuyện này phải bảo đảm tuyệt đối là một vấn đề sống chết, - Nystrom đã nói ngay trong lần gặp đầu. - Chừng nào mà đã dính đến Cảnh sát An ninh thì mọi cái liên quan đến vụ Zalachenko đều là Tối Mật hết. Tôi có thể nói với ông rằng hắn là một tên Nga đào ngũ, cựu nhân viên của Tình báo Quân đội Liên Xô, một vai chính trong lần Nga tấn công chống Tây Âu hồi thập niên 70.
- Blomkvist ở Millennium đã viện dẫn rõ ra điều này.
- Blomkvist khá chính xác trong việc này đấy. Hắn là nhà báo mà tình cờ thế nào lại sục nhằng vào một trong những tổ chức bí mật nhất do Bộ Quốc phòng Thụy Ðiển chỉ đạo.
- Hắn sẽ cho đăng thông tin này.
- Dĩ nhiên. Hắn thay mặt cho giới thông tin đại chúng với mọi thứ lợi thế và hạn chế. Chúng ta sống trong chế độ dân chủ nên tất nhiên chúng ta không thể ảnh hưởng đến những gì báo chí họ viết. Vấn đề ở trường hợp này là Blomkvist chỉ biết có một phần sự thật về Zalachenko, mà những cái hắn nghĩ là hắn biết đúng thì phần lớn lại sai tiệt.
- Tôi hiểu.
- Điều mà Blomkvist không nắm được là nếu để lộ ra sự thật về Zalachenko thì lập tức các thông tín viên và nguồn tin của chúng ta ở Nga sẽ bị người Nga lôi cổ ra hết. Những người đã liều mạng cho nền dân chủ sẽ lâm nguy hay bị giết.
- Nhưng Nga nay cũng là nước dân chủ rồi mà? Tôi muốn nói là nếu là trong thời cộng sản...
- Ảo tưởng mà thôi. Đây là nói những người đã chính thức làm việc do thám ở Liên Xô - không chế độ nào trên thế giới mà lại sẽ ủng hộ điều này, tuy điều này xảy ra đã từ nhiều năm trước rồi. Và một số nguồn tin hiện vẫn còn đang hoạt động.
Chẳng có điệp viên nào như thế tồn tại hết nhưng Ekstrom không biết điều đó. Ông buộc phải tin lời Nystrom. Và ông không thể không cảm thấy phởn rằng mình đã được cung cấp thông tin - bí mật, dĩ nhiên - cái thông tin nằm trong những điều bí mật nhất mà người ta có thể tìm thấy được ở Thụy Điển. Ông hơi ngạc nhiên sao Cảnh sát An ninh Thụy Ðiển lại có thể thâm nhập quân đội Liên Xô đến mức như Nystrom nói và ông hoàn toàn hiểu rằng dĩ nhiên là tuyệt đối không thể bép xép thông tin này.
- Khi tôi được giao nhiệm vụ tiếp xúc ông, Chúng tôi đã kiểm tra kỹ thông tin về ông, - Nystrom nói.
Muốn cám dỗ ai thì luôn phải tính đến việc phát hiện ra chỗ yếu của người đó. Chỗ yếu của công tố viên Ekstrom là ông đinh ninh rằng bản thân ông có tầm quan trọng nào đó. Như bất cứ ai khác, ông thích nghe phỉnh. Với ông thì mánh lới cám dỗ là làm cho ông cảm thấy ông đã được kén chọn đặc biệt.
- Và chúng tôi có thể tự hài lòng rằng lực lượng cảnh sát... Và dĩ nhiên các nhóm của Chính phủ nữa, đều rất kính trọng ông.
Ekstrom nom khoái trá. Các cá nhân giấu tên trong các nhóm của Chính phủ đã rất tin tưởng thì có nghĩa là nếu như Ekstrom chơi ván bài này tử tế, ông sẽ có thể trông vào lòng biết ơn của họ.
- Nói đơn giản thì nhiệm vụ của tôi là cung cấp cho ông những thông tin càng cần thiết, càng bí mật càng hay. Ông chắc cũng hiểu câu chuyện này đã hóa ra phức tạp đến mức khó ngờ như thế nào. Bởi lẽ đang tiến hành một cuộc điều tra sơ bộ mà chính ông gánh lấy trách nhiệm cao nhất ở đó. Không ai - ngay cả Chính phủ hay Cảnh sát An ninh hay bất cứ chỗ nào khác - có thể can thiệp vào cách ông chỉ đạo cuộc điều tra này. Việc của ông là xác định sự thật và đưa các bên phạm tội ra tòa. Một trong những chức năng chủ yếu ở một đất nước dân chủ là thế mà.
Ekstrom gật đầu.
- Nếu toàn bộ sự thật về Zalachenko lộ ra thì sẽ là một thảm họa quốc gia.
- Vậy đúng ra ông đến là với mục đích gì?
- Thứ nhất, làm cho ông nhận ra tính chất nhạy cảm của tình hình. Tôi không ngờ sau Thế chiến thứ hai, Thụy Ðiển lại rơi vào một tình thế bị phơi phong ra như thế này. Có thể nói ở một mức độ nào đó số phận của Thụy Điển đang nằm trong tay ông.
- Nhưng ai là cấp trên của ông chứ nhỉ?
- Tôi rất tiếc không thể nói tên của bất cứ ai đang làm việc trong vụ này. Nhưng tôi có thể nói tôi nhận chỉ thị của cấp cao nhất.
Chúa lòng lành. Hắn làm việc theo lệnh của Chính phủ. Nhưng hắn không thể nào nói mà không làm bung ra một trận bão lửa chính trị được.
Nystrom trông thấy Ekstrom đã nuốt phải mồi.
- Nhưng việc tôi có thể làm là cung cấp thông tin cho ông. Tôi được trao quyền dựa vào phán xét của tôi mà cho ông xem các tài liệu, trong đó có một số đã được xếp hạng cao nhất ở đất nước này.
- Tôi hiểu.
- Như thế nghĩa là nếu ông muốn hỏi điều gì, có thể là bất cứ điều gì, thì ông nên tìm tôi. Ông không được nói với bất cứ ai ở Cảnh sát An ninh, trừ chỉ với mình tôi. Nhiệm vụ của tôi là dẫn ông đi trong mê cung này, nếu có nguy cơ nổi lên xung đột ở giữa các lợi ích khác nhau thì lúc ấy chúng ta sẽ giúp nhau tìm ra giải pháp.
- Tôi hiểu. Trong trường hợp này tôi nên
- Nếu có bạn nào cần một chút thời gian cho mình hay muốn nghỉ một lát để suy nghĩ thì xin mời, các bạn cứ viết. Các bạn đều biết thời hạn của chúng ta cả rồi.
Chị để ý thấy vài người gật đầu tán thành.
- Nào, các anh chị em, đi làm việc nhỉ, - chị hạ giọng nói bằng tiếng Anh.

*

Holmberg giơ hai tay lên tỏ ý bất lực. Bublanski và Modig đang nom ngờ vực. Vẻ mặt Andersson bình thản. Họ đang xem xét kết quả của lần điều tra sơ bộ mà Holmberg vừa làm xong sáng nay.
- Không có gì cả ư? - Modig hỏi. Nghe thấy vẻ chị ngạc nhiên.
- Không có gì cả, - Holmberg lắc đầu nói. - Báo cáo kết luận của bác sĩ bệnh học đã đến sáng nay. Không có gì cho thấy là không phải tự treo cổ chết.
Họ lại xem một lần nữa các bức ảnh chụp trong căn nhà nghỉ hè ở Smaladaro. Mọi cái dẫn tới kết luận rằng Gunnar Bjorck, Phó trưởng phòng Nhập cư của Cảnh sát An ninh đã leo lên một ghế đẩu, buộc dây thừng vào một cái móc treo đèn, quấn nó vào quanh cổ rồi đá rất mạnh làm ghế văng sang bên kia gian phòng. Bác sĩ bệnh học không thể nói rõ giờ phút chết nhưng biết được là chiều ngày 12 tháng Tư. Chính là thanh tra Andersson ngày 19 tháng Tư phát hiện ra xác chết chứ không phải ai khác. Tìm ra là nhờ Bublanski nhiều lần cố nắm được Bjorck. Ngán ngẩm, cuối cùng ông đã phái Andersson đi tróc hắn về.
Một lúc nào đó trong tuần, cái móc đèn đã tụt khỏi trần và Bjorck rơi xuống sàn. Qua cửa sổ, trông thấy cái xác, Andersson đã báo động. Ðến căn nhà nghỉ mùa hè cùng mấy người nữa, Bublanski lập tức coi đây là hiện trường của một vụ án mạng, cho rằng Bjorck rõ ràng đã bị một kẻ nào đó xiết cổ. Chiều hôm ấy, nhóm pháp y thấy cái móc đèn. Holmberg được trao nhiệm vụ tìm xem Bjorck đã bị giết như thế nào.
- Không có bất cứ điều gì gợi ý ra đây là án mạng hay có người thứ hai lúc Bjorck chết, - Holmberg nói.
- Thế cái đèn?
- Cái đèn trần có những dấu vân tay của người chủ căn nhà - người đã treo nó lên hai năm trước - và của bản thân Bjorck. Điều này nói lên rằng chính hắn đã hạ cây đèn xuống.
- Dây thừng là ở đâu ra?
- Ở cột cờ trong vườn. Ai đã cắt lấy hai mét. Có một con dao Mora còn cả bao ở trên thành cửa sổ bên ngoài cửa ra vào đằng sau. Theo người chủ nhà, con dao ấy là của ông ta. Ông ta thường để nó trong một ngăn kéo đựng dụng cụ ở bên dưới mặt tấm ván làm ráo nước trên chậu rửa. Ở cán và lưỡi dao có dấu vân tay của Bjorck.
- Thắt nút kiểu gì?
- Nút đơn giản. Ngay cái thòng lọng cũng lỏng. Điều này có lẽ hơi lạ đây. Là thủy thủ thì Bjorck phải biết cách thắt nút đúng chứ. Nhưng ai biết được, một người đang ngẫm nghĩ chuyện tự sát thì có thể sẽ lơ đãng không chú ý tới cách thắt nút thòng lọng dành cho mình.
- Về thuốc men thì sao?
- Theo báo cáo về độc tố học, có những dấu vết của một loại thuốc giảm đau mạnh trong máu của Bjorck. Thuốc này có trong đơn bác sĩ kê cho hắn. Cũng có dấu vết rượu nhưng tỉ lệ phần trăm không đáng kể. Nói cách khác hắn có ít nhiều tỉnh táo.
- Bác sĩ độc học nói có những vết thương trầy xước.
- Một trầy xước dài hơn ba phân ở rìa đầu gối trái của Bjorck. Trông giống một vết gãi. Tôi đã nghĩ như vậy nhưng mà cũng có thể là do hàng chục nguyên nhân gây ra... hắn đi va vào góc bàn hay ghế dài chẳng bạn.
Modig cầm lên búc ảnh chụp bộ mặt méo xệch của Bjorck. Thòng lọng đã nghiến quá sâu vào cổ hắn đến nỗi sợi dây thừng lẩn mất hẳn vào dưới da. Bộ mặt sưng lên kỳ cục.
- Hắn lủng lẳng ở đấy chừng hai mươi tư giờ rồi thì cái móc đèn rụng xuống. Máu hắn hoặc đồn hết cả lên đầu - cái thòng lọng giữ không cho máu chảy trở về thân thể - hoặc xuống các phần bên dưới. Lúc cái móc rụng, người hắn rơi xuống thì ngực đã đập vào cái bàn cà phê, gây nên vết tím bầm sâu ở đây. Nhưng vết thương này xảy ra sau khi hắn chết đã lâu.
- Chết kiểu gì mà khốn khổ như thế chứ, - Andersson nói.
- Tôi không biết. Dây thòng lọng quá mảnh nên lằn sâu làm cho máu ngừng chảy. Chắc hắn đã mê đi vài giây rồi chết trong vòng một hai phút.
Bublanski ngán ngẩm đóng bản báo cáo sơ bộ lại. Ông không thích thế này. Ông tuyệt đối không thích việc Zalachenko và Bjorck cả hai lại cùng chết một ngày như kiểu họ đã có vẻ bảo nhau. Nhưng muốn suy diễn thế nào thì cũng không thay đổi được sự thật là cuộc điều tra hiện trường không đưa ra một chút xíu gì ủng hộ cho cái lý nói rằng đã có một bên thứ ba giúp Bjorck một tay.
- Hắn bị quá nhiều sức ép, - Bublanski nói. - Hắn biết toàn bộ vụ Zalachenko đang có nguy cơ bị phanh phui và hắn thì có thể bị một án tù vì buôn bán tính dục, cộng thêm còn bị phơi mặt trên báo đài nữa. Tôi nghĩ điều này làm hắn sợ nhất. Hắn ốm, đau đớn kinh niên đã lâu... tôi không biết. Tôi mong hắn có để lại một bức thư.
- Nhiều vụ tự sát không có thư lưu lại.
- Tôi biết. OK. Lúc này hãy gác Bjorck sang một bên. Đành thế, chả có cách nào hơn.

*

Berger không thể cho mình vào ngồi ngay trong phòng làm việc của Morander hay gạt đồ đạc của ông sang bên được. Chị sắp xếp cho Magnusson nói chuyện với gia đình Morander để khi nào thích hợp thì bà vợ ông có thể đích thân, hay cử một ai đó đến chọn lấy đồ đạc của ông về.
Thay vào đó, chị có một bàn làm việc đã được thu dọn sạch sẽ ở trung tâm phòng biên tập, chị sẽ đặt máy tính xách tay ở đó và chỉ đạo. Đang bề bộn. Nhưng trong một hoàn cảnh đáng sợ như thế, ba giờ sau khi chị nắm tay lái của SMP, trang nhất đã đi nhà in. Magnusson đã đặt vào đấy một bài dài bốn cột về cuộc đời và sự nghiệp của Morander. Trang nhất được trình bày quanh một bức chân dung viền đen, gần như chiếm hết nửa trên của trang cùng với bài xã luận viết dở đang của ông ở bên trái và một dải ảnh chạy ngang hết dưới chân trang. Trình bày không đẹp nhưng nó kích động đến đạo đức và tình cảm.
Ngay đúng 6 giờ, khi Berger xem hết các tít bài ở trang hai và đang bàn đến các bài viết với người phụ trách duyệt nội dung thì Borgsjo đi đến chạm vào vai chị. Chị ngửng lên.
- Tôi nói một câu có được không?
Hai người đi ra chỗ để máy pha cà phê trong căng tin.
- Chỉ là vì tôi muốn nói tôi rất thích cách chị nắm công việc hôm nay. Tôi nghĩ chị đã làm tất cả chúng tôi ngạc nhiên đấy.
- Tôi chả còn biết cách nào làm hơn thế. Nhưng trước khi tự đi được, tôi thực sự có thể bị loạng choạng đôi chút.
- Chúng tôi hiểu điều đó.
- Chúng tôi?
- Ý tôi là Ban biên tập và Hội đồng Quản trị. Nhất là Hội đồng Quản trị. Nhưng sau công việc diễn ra hôm nay tôi càng đinh ninh chị là người lý tưởng để cho chúng tôi chọn. Chị đến vừa đúng lúc và chị gánh trách nhiệm trong một tình thế rất khó khăn.
Berger suýt đỏ mặt. Nhưng từ mười bốn tuổi chị đã không biết chuyện này.
- Tôi có thể khuyên chị một điều được không?
- Dĩ nhiên ạ.
- Nghe nói chị không đồng ý với Anders Holm về tít một bài báo.
- Chúng tôi không nhất trí ở góc độ nói về kiến nghị thuế của Chính phủ trong bài báo. Ông ấy cho một ý kiến xen vào tít ở phần tin, cho rằng ý kiến đó là trung lập. Các ý kiến thì nên dành cho trang của Ban biên tập. Còn tôi thì lại đang trông nom chủ đề này... thỉnh thoảng tôi sẽ viết xã luận mà. Nhưng như tôi đã nói với ông, tôi không hoạt động trong một đảng phái nào cho nên chúng ta cần giải quyết vấn đề ai sẽ phụ trách phần Xã luận của báo.
- Lúc này Magnusson có thể nhận được, - Borgsjo nói.
Erika nhún vai:
- Ông chỉ định ai thì với tôi cũng vậy thôi. Nhưng đó phải là một người ủng hộ rõ ràng quan điểm của tờ báo. Họ nên thể hiện ở chỗ ấy chứ không phải ở phần tin.
- Hoàn toàn đúng. Ðiều tôi muốn nói là có lẽ chị nên dành cho Holm chút ít nhân nhượng. ông ấy đã làm việc cho SMP một thời gian dài và đã phụ trách mảng tin tức trong mười lăm năm. Ông ta có thể đôi khi hay cẳn nhẳn cằn nhằn nhưng Holm là không thể thay được.
- Tôi biết. Morander đã bảo tôi. Nhưng đụng đến chuyện chính sách thì ông ấy phải tuân theo quan điểm của tờ báo. Tôi là người ông thuê để ra tờ báo.
Borgsjo nghĩ một lát rồi nói:
- Lúc nào các vấn đề này nổi lên chúng ta sẽ giải quyết chúng.

*

Tối thứ Tư, khi lên chuyến tàu X2000 ở Ga Trung tâm Goteborg, Giannini vừa mệt vừa cáu. Chị cảm thấy như đã mất hết cả tháng ở trên con tàu này rồi. Mua cà phê ở toa ăn, về ghế ngồi, mở hồ sơ các ghi chép về lần trò chuyện cuối cùng với Salander ra. Cô gái này cũng là lý do tại sao chị cảm thấy mệt và cáu.
Cô ta đang giấu điều gì đó. Con ranh rồ dại này không nói với mình sự thật. Cả Mikael cũng đang giấu một cái gì nốt. Chúa mới biết được họ đang chơi cái trò gì.
Chị cũng cảnói tôi rất biết ơn ông và các bạn đồng nghiệp của ông đang muốn giúp tôi làm công việc này được thuận lợi.
- Chúng tôi muốn quá trình pháp lý cứ đi theo tiến trình của nó dù đây là một tình thế khó khăn.
- Tốt. Tôi bảo đảm với ông là tôi sẽ giữ bí mật tuyệt đối. Dù sao thì đây cũng không phải là lần đầu tiên tôi nắm thông tin Tối Mật.
- Vâng, cái ấy chúng tôi biết chứ.
Ekstrom đưa ra hơn một chục câu hỏi mà Nystrom ghi lại tỉ mỉ, rồi trả lời hết khả năng cho phép của mình. Trong lần gặp thứ ba này, những câu hỏi Ekstrom đặt ra trước đây đã được trả lời. Trong đó câu quan trọng nhất là: sự thật xung quanh bản báo cáo năm 1991 của Bjorck là gì?
- Ðây là một vấn đề nghiêm trọng, - Nystrom làm ra bộ như mình có liên quan đến vấn đề. - Vì bản báo cáo này đang nổi lên như một vấn đề rắc rối, cho nên chúng tôi đã có một nhóm phân tích làm việc gần như suốt ngày đêm để phát hiện chính xác xem đã xảy ra việc gì. Nay chúng tôi đã đến chỗ sắp rút ra được kết luận. Những kết luận phiền toái nhất.
- Tôi hình dung ra rõ được. Báo cáo này cáo buộc Cảnh sát An ninh và bác sĩ tâm thần Peter Teleborian đã bắt tay nhau để đưa Lisbeth Salander vào bệnh viện tâm thần.
- Giá mà chỉ có như thế thôi, - Nystrom hơi mỉm cười nói.
- Tôi không hiểu.
- Nếu tất cả chỉ có như vậy thì chuyện đã đơn giản. Một vụ giết người đã xảy ra và dẫn tới khởi tố. Chỗ khó là bản báo cáo này không giống với các báo cáo khác ở trong hồ sơ của chúng tôi.
Nystrom lấy một cặp hồ sơ xanh mở ra:
- Cái tôi đang có đây là bản báo cáo chính tay Bjorck viết năm 1991. Đây cũng là bản gốc của thư từ giữa ông ta với Teleborian. Hai bản không khớp nhau.
- Xin giải thích.
- Điều kinh khủng là Bjorck đã tự treo cổ chết. Có lẽ vì sợ các trò lệch lạc tính dục của mình bị lộ ra. Tờ tạp chí của Blomkvist đang có ý bêu ông ấy. Điều này làm ông ấy thất vọng ghê gớm đến nỗi phải tự kết liễu đời mình.
- À...
- Bản báo cáo là nói về chuyện Lisbeth Salander mưu sát bố, Alexander Zalachenko bằng một quả bom xăng. Ba mươi trang đầu của bản báo cáo mà Blomkvist tìm thấy thì khớp với bản gốc. Thật ra thì các trang này không có gì đáng nói cả. Phải đến trang ba mươi ba, khi Bjorck rút ra kết luận và nêu ý kiến xử lý thì chỗ khác nhau mới nổi lên.
- Khác nhau ra sao?
- Trong bản gốc Bjorck đưa ra năm ý kiến đã được lập luận vững chắc. Chúng tôi không cần phải giấu sự thật là họ muốn bôi xấu vụ Zalachenko ở trên truyền thông đại chúng và v.v. Bjorck đề nghị cho Zalachenko, ông ta bị bỏng rất nặng, hồi phục sức khỏe ở nước ngoài. Và những việc tương tự. Ông ấy cũng đề nghị nên trông nom chữa chạy tối đa về tâm thần cho Salander.
- Tôi rõ...
- Vấn đề là một số câu chữ đã bị sửa đổi rất tinh vi. Ở trang ba mươi tư, có một đoạn Bjorck gợi ý nên coi Salander là người mắc bệnh tâm thần để nếu có ai đó hỏi đến Zalachenko thì họ sẽ không mấy tin vào lời cô ấy nữa.
- Và trong bản gốc thì không có đề nghị này.
- Chính xác. Không hề có đề nghị nào thuộc loại này ở trong báo cáo của chính Bjork viết. Không nói đến các cái khác, chỉ riêng về luật thôi thì đề nghị này đã là vi phạm rồi. Ông ấy nhiệt tình nêu ra ý kiến rằng rõ ràng là cô gái cần được chữa chạy và nên cho cô gái hưởng như vậy. Trong bản của Blomkvist, thì ý kiến này đã xoay chuyển thành ra một âm mưu.
- Tôi có thể đọc bản gốc được không?
- Chắc chắn rồi. Khi đi tôi đã mang nó theo mà. Trước khi ông đọc, xin cho tôi hướng chú ý của ông vào chỗ phụ lục, ở đấy là thư từ tiếp theo giữa Bjorck và Teleborian. Nó gần như hoàn toàn bị làm mạo. Ở đây không hề là chuyện sửa chữa tinh vi mà là chuyện giả mạo trắng trợn.
- Giả mạo?
- Tôi nghĩ chỉ có gọi như thế thì mới thỏa đáng. Bản gốc cho thấy Peter Teleborian được tòa án quận giao việc khám nghiệm pháp y về tâm thần của Lisbeth Salander. Chẳng có gì lạ lùng ở đây sất. Salander mười hai tuổi và cố giết bố - chuyện đến thế mà lại không dẫn tới một báo cáo tâm thần thì mới là kỳ quái quá chứ.
- Ðúng vậy.
- Tôi cho rằng nếu là công tố viên thì chắc chắn ông sẽ yêu cầu phải điều tra cả về hai mặt xã hội lẫn tâm thần.
- Dĩ nhiên rồi.
- Bất chấp Teleborian là một bác sĩ tâm thần nổi tiếng chuyên điều trị cho thiếu nhi và làm việc trong ngànhlander ngồi im lìm, không bị quấy rầy. Cô lại đau đầu nhưng nhẹ và cách quãng. Nhưng cô cảm thấy không yên.
Cô giận Giannini. Theo con mắt hành nghề, cô có thể thấy tại sao chị luật sư lại cứ nhắc đi nhắc lại hoài những chi tiết về quá khứ của cô. Về lý, cô hiểu việc đó. Giannini cần nắm rõ mọi sự việc. Nhưng cô không muốn nói chút nào về tình cảm hay hành động của cô. Đời cô là việc của riêng cô. Bố cô là một kẻ bạo dâm bệnh hoạn, một tên giết người thì đâu có phải lỗi của cô. Anh cô là một tên giết người thì cũng đâu cô phải lỗi của cô chứ. Và ơn Chúa, không ai biết hắn là anh ruột cô, nếu không thì chắc chắn người ta sẽ nắm lấy chuyện này để chống lại cô, vì sớm muộn thế nào người ta cũng làm cuộc đánh giá tâm thần. Cô không phải là người giết Dag Svensson và Mia Johansson. Cô không chịu trách nhiệm về việc chỉ định một người giám hộ mà rồi hóa ra lại là một con lợn, một tên hiếp dâm.
Thế nhưng chính cuộc đời cô lại sắp bị phơi bày hết cả ra. Cô sẽ buộc phải nói rõ về mình và xin tha thứ vì cô phải tự bảo vệ lấy mình.
Cô chỉ mong được để cho yên thân. Và nếu được như thế thì cô là người sẽ phải sống với chỉ bản thân mình. Cô không trông chờ một ai đó làm bạn. Nhiều phần chắc chắn là Anika Trời đánh Giannini đứng về phía cô nhưng đó là tình bạn nghề nghiệp của một người chuyên nghiệp đang làm luật sư cho cô. Kalle Hăng máu Blomkvist đang ở đâu đó ngoài kia - vì một lý do nào đó Giannini nói dè dặt về anh mình - còn Salander thì không bao giờ hỏi. Cô không trông chờ bây giờ mình sẽ được anh hoàn toàn quan tâm đến vì vụ giết Svensson đã được giải quyết và Blomkvist thì có bài báo của anh.
Cô nghĩ sau khi tất cả các chuyện này xảy ra thì Armansky sẽ nghĩ về cô như thế nào đây.
Cô nghĩ Holger Palmgren sẽ nhìn nhận tình hình này ra sao.
Theo Giannini thì cả hai đều nói ủng hộ cô nhưng đó là lời nói. Hai ông có thể không làm gì cả để giải quyết các vấn đề riêng của cô.
Cô nghĩ Miriam Wu thì cảm thấy sao về cô.
Cô nghĩ đến cái điều cô vẫn nghĩ về bản thân, đã nghĩ ra điều đó và đi đến chỗ nhận ra rằng cô cảm thấy hoàn toàn dửng dưng về toàn bộ cuộc đời mình.
Cô bị phá ngang khi người canh gác của An ninh Securitas mở khóa cửa để bác sĩ Jonasson vào.
- Chào Salander. Hôm nay cô thấy sao?
- OK, - cô nói.
Ông xem biểu đồ theo dõi thể trạng của cô, thấy cô đã hết sốt. Cô đã quen với các lần thăm khám của ông, mỗi tuần hai lần. Trong tất cả những người đụng chạm và ấn nắn cô, ông là người duy nhất cô cảm thấy chừng nào có tin cậy. Cô không cảm thấy ông nhìn cô bằng con mắt kỳ lạ. Ông đến phòng cô, chuyện đôi ba lúc và khám, kiểm tra tiến bộ của cô. Ông không hỏi cô về Niedermann và Zalachenko hay hỏi liệu cô có bị hâm hâm hay tại sao cảnh sát lại nhốt cô. Ông hình như chỉ quan tâm tới các cơ bắp của cô chúng làm việc thế nào, vết thương ở não lành lại ra sao và nói chung cô cảm thấy thế nào.
Ngoài ra, ông đã, ở nghĩa đen, vọc tay vào não cô. Ai đã sờ lần loanh quanh vào trong não của bạn rồi thì bạn cần phải đối xử kính trọng người đó chứ. Cô ngạc nhiên thấy mình thích các lần thăm khám của bác sĩ mặc dù ông ấn ấn nắn nắn và mải chú ý quá đến biểu đồ thể trạng của cô.
- Nếu tôi khám thì cô có sao không?
Ông khám như thường lệ, xem con ngươi cô, nghe cô thở, bắt mạch, đo huyết áp và kiểm tra xem cô nuốt thế nào.
- Tôi sao chứ?
- Cô đang trên đường hồi phục. Nhưng cô phải tập tành hăng hơn. Và cô đang tự ý bóc vẩy vết thương ở trên đầu. Cô phải thôi ngay. - ông ngừng lại. - Tôi có thể hỏi một câu hơi riêng tư được không?
Cô nhìn ông. Ông chờ tới khi cô gật.
- Cái con rồng xăm kia... làm thế nào mà có được thế?
- Trước kia ông chưa thấy bao giờ ư?
Thình lình ông mỉm cười.
- Thật tình tôi đã liếc vào đó nhưng là khi cô không có áo quần mà tôi thì còn đang mải cầm máu và lấy viên đạn ra cho cô.
- Tại sao ông hỏi?
- Tò mò, không gì khác.
Salander nghĩ một lát. Rồi cô nhìn ông.
- Tôi xăm nó vì những lý do không thể nói ra được.
- Quên chuyện tôi hỏi đi nhé.
- Ông có muốn xem nó không?
Ông nom vẻ ngạc nhiên.
- Chắc chắn là có chứ. Tại sao không nhỉ?
Cô quay lưng lại, kéo chiếc áo dài của bệnh viện lên quá vai. Cô xoay ngồi cho ánh sáng ngoài cửa sổ chiếu vào đúng lưng cô. Ông nhìn con rồng của cô. Cái hình đẹp và xăm giỏi, một tác phẩm nghệ thuật.
Một lúc sau cô quay lại.
- Thỏa mãn chứ?
- Đẹp. Nhưng chắc là đau kinh khủng đấy.
- Vâng, - Cô nói. - Đau.

*

Jonasson có phần bối rối rời buồng Salander. Ông hài lòng vì cô tiến bộ trong việc phục hồi chức năng cơ thể. Nhưng ông không thể hiểu nổi cô gái kỳ dị này. Ông không cần có bằng thạc sĩ tâm lý học để biết rằng cô gái này rất không ổn về mặt cảm tính. Giọng cô nói với ông là lễ độ, nhưng mang đầy ngờ vực. Ông cũng hiểu rằng cô lễ độ với tất cả nhân viên bệnh viện nhưng khi cảnh sát tới gặp thì cô lại không nói một lời. Cô giam mình vào trong cái vỏ ốc của cô, giữ khoảng cách với những người xung quanh.
Cảnh sát đã khóa cửa buồng cô ở bệnh viện, một công tố viên thì có ý khép cô vào tội mưu sát và gây thương tích nặng trên cơ thể. Ông ngạc nhiên sao một cô gái bé nhỏ, gầy guộc lại có sức mạnh vật chất để làm nổi cái loại tội ác tàn bạo này, đặc biệt sự bạo hành ấy lại chĩa thẳng vào những người đàn ông trưởng thành hẳn hoi.
Ông đã hỏi về con rồng xăm, hy vọng tìm ra một chủ đề riêng tư mà ông có thể bàn với cô. Ông không đặc biệt quan tâm tại sao cô lại trang điểm cho mình theo cách đó, nhưng ông cho rằng đo cô đã chọn cách xăm đáng ngạc nhiên đó, thì chắc là nó phải có một ý nghĩa nào đó với cô. Ông nghĩ đơn giản rằng đó là một cách mở đầu một cuộc chuyện trò.
Các lần ông đến thăm cô là nằm ngoài kế hoạch của ông, vì việc này đã được trao cho bác sĩ Endrin. Nhưng bác sĩ Jonasson là người đứng đầu đơn vị chấn thương và ông tự hào về công việc ông đã hoàn thành cái đêm người ta đem Salander đến bộ phận Sơ Cứu & Cấp cứu ấy. Ông đã có quyết định đúng cũng như chọn cách lấy viên đạn ra. Như hiện nay ông có thể thấy, Salander không có những biến chứng ở dạng lú lẫn trí nhớ, chức năng cơ thể giảm sút hay các khuyết tật khác do vết thương. Nếu tiếp tục lành lặn theo đà này, cô sẽ rời bệnh viện với một vết sẹo ở sọ nhưng không trông thấy có tổn thất nào khác. Những vết sẹo trong tâm hồn cô lại là chuyện khác.
Trở về văn phòng mình, ông thấy một người mặc một bộ sẫm màu đứng tựa tường ở ngoài cửa. Ông ta có mái tóc dày và bộ râu tỉa tót công phu.
- Bác sĩ Jonasson phải không?
- Vâng?
- Tôi là Peter Teleborian. Tôi là bác sĩ trưởng ở bệnh viện tâm thần Thánh Stefan.
- Vâng, tôi nhận ra ông.
- Tốt. Tôi muốn nói chuyện riêng với ông nếu ông có thì giờ.
Jonasson mở khóa cửa đưa ông khách vào.
- Tôi giúp ông thế nào được đây?
- Chuyện liên quan đến một trong các bệnh nhân của ông, Lisbeth Salander. Tôi cần tham cô ấy.
- Ông phải xin phép công tố viên. Cô ấy đang bị bắt giữ nên cấm khách thăm viếng. Rồi ai xin thăm hỏi cũng phải báo trước cho luật sư của Salander.
- Vâng, vâng tôi biết. Tôi nghĩ chúng ta có thể cần bỏ qua tất cả các chuyện quan liêu giấy tờ ở trong vụ này. Tôi là bác sĩ cho nên đứng trên cơ sở y tế ông có thể cho tôi cơ hội thăm khám cô ấy.
- Vâng, chắc là có thể làm như thế được nhưng tôi không biết mục đích của ông.
- Trong nhiều năm tôi là bác sĩ tâm thần của Lisbeth Salander, khi cô ấy được pháp luật đưa vào Thánh Stefan. Tôi theo dõi cô ấy cho tới khi cô ấy sang tuổi mười tám thì tòa án quận cho cô ấy trở về với xã hội, dù vẫn phải chịu chế độ giám hộ. Có lẽ tôi cần nói rằng tôi phản đối việc này. Từ ngày đó cô ấy được phép trôi nổi vô mục đích và hậu quả thì đấy, hôm nay mọi người đều đã thấy.
- Thật thế ư?
- Vẫn cảm thấy phải chịu trách nhiệm lớn với cô ấy, tôi muốn nắm lấy cơ hội này để kiểm tra xem trong hơn mười năm qua đã xảy ra bao nhiêu sa sút ở cô ấy.
- Sa sút?
- Là so với lúc cô ấy còn là một thiếu nữ mười mấy tuổi được chữa chạy đúng cách thức. Tôi nghĩ ở đây giữa cánh bác sĩ với nhau chúng ta có thể đi đến một thông cảm.
- Vậy trong lúc tôi vừa mới nghe xong, có lẽ... ông có thể giúp tôi ở cái vấn đề mà tôi hoàn toàn không hiểu, tức là giữa cánh bác sĩ với nhau, nghĩa là như vậy. Khi cô ấy được đưa vào bệnh viện Sahlgrenska, tôi khám sức khỏe toàn diện cho cô ấy. Một bạn đồng sự lại đã nhắn xin một biên bản pháp y cho người bệnh. Biên bản này do bác sĩ Jesper H. Loderman ký tên.
- Ðúng. Khi bác sĩ Loderman đang làm việc đó thì tôi là trợ lý của ông ấy.
- Tôi hiểu. Nhưng tôi nhận thấy biên bản này mơ hồ đến cùng cực.
- Thật thế ư?
- Nó không có hội chẩn. Nó có vẻ giống như một bản nghiên cứu học thuật về một bệnh nhân cứ khăng khăng không chịu nói.
Teleborian cười to.
- Vâng, làm việc với cô này thì chắc chắn là không dễ rồi. Như trong biên bản đã nói đấy, cô ấy một mực từ chối chuyện trò với bác sĩ Loderman. Kết quả là ông ấy buộc phải diễn đạt khá là không chính xác. Điều này về phần ông ấy là hoàn toàn đúng thôi.
- Thế nhưng lại khuyến cáo đưa cô ấy vào bệnh viện?
- Cái đó là căn cứ vào tiền sử của cô ấy. Bệnh học của cô ấy đã được sưu tập qua nhiều năm và chúng tôi có kinh nghiệm với nó.
- Đó chính là điều tôi không hiểu. Khi Salander ấy nhập viện, chúng tôi đã nhắn xin bệnh viện Thánh Stefan một bản sao hồ sơ của cô ấy. Nhưng chúng tôi vẫn không nhận được.
- Tôi xin lỗi về chuyện ấy, nhưng nó đã được phân loại là Tối Mật theo lệnh của tòa án quận.
- Và nếu các biên bản về cô ấy mà chúng tôi không thể vào nổi thì bảo chúng tôi chữa chạy đúng đắn cho cô ấy như thế nào được đây? Trách nhiệm y tế đối với các quyền lợi của cô ấy bây giờ là thuộc về chúng tôi, không về ai khác cả.
- Tôi chăm sóc cho cô ấy từ năm cô ấy mười hai tuổi và tôi nghĩ ở Thụy Ðiển không có bác sĩ nào khác hiểu biết điều kiện bệnh tật của cô ấy như tôi.
- Mà cái đó là...
- Salander bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Tâm thần học, như ông biết, không phải là một khoa học chính xác. Tôi do dự tự bắt mình phải khuôn vào làm cho được một hội chẩn chính xác nhưng cô ấy có những ảo giác mang các đặc điểm tâm thần phân lập hoang tưởng rõ rệt. Trạng thái lâm sàng của cô gồm có các thời kỳ trầm uất điên loạn và cô ấy thiếu sự đồng cảm.
Jonasson nhìn đăm đăm bác sĩ Teleborian trong mười giây rồi nói:
- Tôi sẽ không tranh luận về hội chẩn với ông, thưa bác sĩ Teleborian, nhưng đã từng có lúc nào ông tính đến chuyện làm một hội chẩn đơn giản hơn và có ý nghĩa chưa?
- Như?
- Như hội chứng Asperger. Dĩ nhiên tôi không có làm công việc đánh giá tâm thần cho cô ấy nhưng nếu tôi phải đánh bạo tự đưa ra một ức đoán thì tôi sẽ nghĩ đến một dạng tự kỷ nào đó. Như thế giải thích được hiện tượng cô ấy không có khả năng quan hệ với các quy ước xã hội.
- Tôi xin lỗi nhưng các bệnh nhân Asperger nói chung là không có thiêu sống bố mẹ. Tin tôi đi, tôi chưa bao giờ gặp được định nghĩa nào rõ ràng về một bệnh nhân tâm thần với chứng thù ghét xã hội như ở cô gái này.
- Tôi coi cô ta là thu mình lại chứ không phải là một bệnh nhân hoang tưởng thù ghét xã hội.
- Cô ta cực kỳ cuốn hút, - Teleborian nói. - cô ấy hành động theo cách cô ấy nghĩ rằng ông chờ đợi cô ấy sẽ hành động theo cái cách ấy.
Jonasson cau mày. Teleborian đang mâu thuẫn lại với những điều ông nói về Salander. Nếu như có một điều nào khiến cho Jonasson cảm thấy yên dạ về cô gái thì đó là cô ấy chắc chắn không hề muốn cuốn hút. Trái lại, cô ấy là người bướng bỉnh giữ khoảng cách với những người xung quanh và không để lộ ra một xúc động nào hết. Ông đã thử cho bức tranh mà Teleborian đang vẽ đây hòa hợp với hình ảnh của riêng ông về Salander.
- Ông mới chỉ thấy cô ấy trong một thời gian ngắn, lúc cô ấy bị buộc phải thụ động vì đang bị thương. Tôi đã chứng kiến những cơn hung hăng nổ ra thình lình và lòng thù ghét vô lý của cô ấy. Tôi đã bỏ ra nhiều năm cố giúp Lisbeth Salander. Đó là vì sao mà tôi lại ở đây. Tôi đề nghị bệnh viện Sahlgrenska hợp tác với Thánh Stefan.
- Ông nói đến hợp tác nào vậy chứ?
- Ông chịu trách nhiệm về điều kiện y tế cho cô ấy và tôi tin chắc rằng cô ấy đã nhận được sự chăm sóc tốt đẹp nhất. Nhưng tôi hết sức lo lắng cho tình trạng tâm thần của cô ấy, và tôi muốn mình được cho dung nhận ngay từ đầu. Tôi sẵn sàng cung cấp mọi sự giúp đỡ trong phạm vi khả năng của tôi.
- Tôi hiểu.
- Vậy tôi cần thăm cô ấy để đánh giá sớm từ đầu bệnh tình cô ấy.
- Chỗ này không may tôi lại không giúp được ông.
- Xin lỗi ông sao ạ?
- Tôi đã nói, cô ấy đang bị bắt giữ. Nếu ông muốn mở ra bất cứ điều trị tâm thần nào cho cô ấy, thì ông sẽ phải nộp đơn lên công tố viên Jervas ở Goteborg đây. Bà công tố viên là người ra quyết định về các việc này. Và phải làm, tôi nhắc lại, với sự hợp tác của luật sư của cô ấy, Annika Giannini. Còn nếu là chuyện biên bản tâm thần pháp y thì lúc ấy Tòa án quận sẽ cấp giấy bảo lãnh cho ông.
- Thì chính là tôi lại muốn tránh các thứ thủ tục quan liêu giấy tờ này.
- Tôi hiểu, nhưng tôi chịu trách nhiệm về cô ấy, nếu sắp tới đây cô ấy bị đưa ra tòa thì chúng tôi cần có tài liệu về mọi biện pháp mà chúng tôi đã dùng đến. Cho nên tôi buộc phải tuân theo các thủ tục quan liêu.
- Ðược. Vậy tôi cũng có thể báo ông rằng tôi đã nhận được một ủy quyền chính thức của công tố viên Ekstrom ở Stockholm để làm một báo cáo pháp y về tâm thần cô ấy. Tòa xét xử vụ này sẽ cần liên quan đến báo cáo đó.
- Vậy thì ông có thể xin được giấy phép chính thức vào thăm cô ấy qua các kênh thích hợp chứ đừng lờ đi các quy tắc điều hành.
- Nhưng trong khi chúng ta mải chạy tới chạy lui với tệ quan liêu thì có cơ bệnh tâm thần của cô cứ tiếp tục sa sút. Tôi chỉ là bận tâm đến hạnh phúc của cô ấy thôi.
- Tôi cũng vậy, - Jonasson nói. - Còn giữa chúng ta với nhau, tôi có thể nói là tôi không thấy dấu hiệu gì về bệnh tâm thần hết. Cô ấy đã bị đối xử tồi tệ và luôn chịu nhiều sức ép. Nhưng tôi không thấy bất kỳ bằng chứng nào về bệnh tâm thần phân lập hay hoang tưởng tâm thần ở cô ấy cả.

*

Nhận ra là mãi vẫn không thuyết phục nổi được Jonasson thay đổi ý kiến, Teleborian đứng phắt dậy bỏ đi.
Jonasson ngồi một lúc, nhìn chiếc ghế Teleborian vừa ngồi. Các bác sĩ khác thường không hay tiếp xúc ông để khuyên bảo hay góp ý về điều trị. Nhưng chuyện này thường chỉ xảy ra với các bệnh nhân mà bác sĩ riêng đang trông coi việc điều trị cho bệnh nhân. Trước đây ông chưa thấy một bác sĩ tâm thần nào hạ cánh xuống như một quả khí cầu rồi ít nhiều cứ yêu cầu cho vào gặp bệnh nhân, lờ hết mọi thủ tục, hơn nữa một bệnh nhân mà rõ ràng nhiều năm rồi ông ta không hề điều trị. Một lát sau, Jonasson liếc đồng hồ thấy đã gần 7 giờ. Ông nhấc điện thoại gọi Martina Karlgren, một bác sĩ tâm lý ở Sahlgrenska, người đã được bố trí để có thể sẵn sàng xử lý các bệnh nhân bị thương.
- Chào. Tôi cho là tan tầm bà về rồi. Tôi có quấy quả bà không?
- Không hề gì. Tôi ở nhà đang làm mấy thứ vớ vẩn.
- Tôi tò mò về một điều này. Bà đã nói chuyện với bệnh nhân nổi tiếng của chúng ta, Lisbeth Salander. Bà có thể nói cảm tưởng của bà về cô gái ấy không?
- À, tôi thăm khám cho cô ấy ba lần, được cho nói chuyện với cô ấy. Lần nào cô ấy cũng kiên quyết từ chối nhưng lịch sự.
- Cảm tưởng của bà về cô ấy thế nào?
- Ông định nói gì?
- Martina, tôi biết bà không phải là nhà tâm thần học nhưng bà thông minh, nhạy cảm. Bà thấy cảm tưởng chung của bà về bản chất, về trạng thái tinh thần của cô ấy là gì?
Suy nghĩ một lúc, Karlgren nói:
- Tôi không dám trả lời chắc chắn câu hỏi này như thế nào. Tôi gặp cô ấy hai lần ngay sau khi cô ấy nhập viện nhưng cô ấy đang trong tình trạng đau đớn như thế cho nên tôi chưa thực sự tiếp xúc với cô ấy được. Rồi một tuần trước tôi gặp cô ấy theo yêu cầu của Helena Endrin.
- Tại sao Endrin lại bảo bà thăm khám cho cô ấy?
- Salander bắt đầu khôi phục sức khỏe. Cô ấy cứ nằm ngửa nhìn trần suốt. Bác sĩ Endrin muốn tôi ngó xem cô ấy.
- Thế xảy ra chuyện gì?
- Tôi tự giới thiệu. Chúng tôi nói chuyện chừng hai ba phút. Tôi hỏi cô ấy cảm thấy trong người ra sao, liệu có cần ai để chuyện trò không. Cô ấy nói không cần. Tôi hỏi liệu tôi có thể giúp gì cho cô ấy không. Cô ấy nhờ tôi mang lậu vào cho một bao thuốc lá.
- Cô ấy cáu giận hay thù nghịch?
- Không, tôi không nói thế. Cô ấy bình tĩnh nhưng giữ khoảng cách. Tôi cho cái chuyện nhờ mang thuốc lá là đùa chứ không phải là nhu cầu thực sự. Tôi hỏi có muốn đọc cái gì không, liệu tôi có thể mang cho sách báo gì đó không. Lúc đầu cô ấy bảo không nhưng sau thì hỏi tôi có báo khoa học bàn về di truyền học và nghiên cứu về não không.
- Bàn về gì?
- Di truy- Hans Faste đã trở về làm việc, hắn sẽ giúp việc Ekstrom.
- Không hay rồi. Faste hết sức không hợp với việc điều tra bất cứ chuyện gì liên quan đến Salander.
- Tôi biết thế. Nhưng cái lý của Ekstrom lại vững. Faste đã nghỉ ốm ừ... hừm... khi hắn đột quỵ hồi tháng Tư, và chuyện này sẽ là vụ hoàn chỉnh, đơn giản để cho hắn tập trung vào.
Im lặng.
- Tóm lại là chiều hôm nay chúng ta sẽ phải đưa hết cho Ekstrom tư liệu của chúng ta về Salander.
- Còn về Gunnar Bjorck và Sapo trong báo cáo năm 1991...?
- Thì cũng sẽ do Faste và Ekstrom nắm.
- Tôi không thích kiểu này, - Modig nói.
- Tôi cũng thế. Nhưng Ekstrom là sếp và ông ta được cánh quan liêu ở tận trên cao ủng hộ. Tóm lại, việc chúng ta vẫn cứ là tìm tên giết người. Curt, tình hình sao rồi nào?
Andersson lắc đầu.
- Niedermann như đã biến mất vào lòng đất. Tôi phải thừa nhận rằng ngần ấy năm trong lực lượng cảnh sát, tôi chưa thấy chuyện nào như thế này bao giờ. Chúng ta chả có tí manh mối nào, cũng chả có người mách tin nào biết hắn hoặc biết có khả năng hắn đang ở đâu.
- Nghe ám muội đấy, - Modig nói. - Nhưng hắn đang bị truy lùng vì giết một cảnh sát ở Gosseberga, vì hành hung một sĩ quan cảnh sát khác, vì có âm mưu giết Salander, và vì bắt cóc có tình tiết nghiêm trọng và tấn công nữ y tá nha khoa Anita Kaspersson, cũng như về hai vụ giết Svensson và Johansson. Trường hợp nào cũng có bằng chứng pháp y rõ ràng.
- Ít ra cũng có giúp được chút nào. Vụ viên thủ quỹ của Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo sao nhỉ?
- Viktor Goransson, tên anh ta là thế, và cô bạn gái Lina Nygren. Dấu vân tay và ADN ở xác Goransson. Niedermann đánh hai người này, chắc các khớp ngón tay hắn phải tóe máu ra ghê gớm lắm.
- Có gì mới ở Câu lạc bộ ấy không?
- Lundin bị tạm giam chờ tòa xử về tội bắt cóc Miriam Wu, do đó Nieminen quản vai Chủ tịch Câu lạc bộ. Xì xào rằng Nieminen sẽ tặng một giải thưởng lớn cho ai cung cấp được thông tin về manh mối của Niedermann.
- Nếu tất cả thế giới ngầm đều đang tìm hắn thì điều đó lại làm cho cái việc chưa tìm thấy hắn càng lạ lùng hơn. Xe của Goransson thì thế nào?
- Vì tìm thấy xe của Kaspersson ở nhà Goransson nên chúng ta chắc là Niedermann đã đổi xe. Nhưng chúng ta không có tung tích gì về chiếc xe mà hắn lấy đi.
- Vậy thì chúng ta phải tự hỏi, một, Niederman vẫn còn ẩn náu tại một nơi nào đó ở Thụy Điển chăng?; hai, nếu là thế, thì ở với ai?; ba, hay là hắn đã ra nước ngoài? Chúng ta nghĩ thế nào?
- Chả có dấu hiệu gì để cho chúng ta nói hắn đã ra nước ngoài, nhưng có vẻ chính việc bỏ ra nước ngoài mới là đường đi logic nhất của hắn.
- Nếu đã đi, thì hắn vùi cái xe ở đâu?
Modig và Andersson lắc đầu. Cứ mười lần thì chín lần khi đến cái đoạn tìm kiếm một cá thể đặc biệt thì công việc của cảnh sát lại bớt phức tạp đi. Ðây là việc cần đặt ra một chuỗi các câu hỏi logic. Những cô bạn gái của hắn là ai? Những ai đã ở tù với hắn? Các bạn gái của hắn sống ở đâu? Hắn uống rượu với những ai? Lần cuối cùng hắn dùng di động ở chỗ nào? Xe hắn ở đâu? Nói chung giải đáp hết chuỗi câu hỏi thì tìm ra kẻ chạy trốn.
Vấn đề với Niedermann là hắn không có cả bạn trai lẫn bạn gái, không có di động đăng ký và chưa từng bị tù bao giờ.
Các câu hỏi tập trung vào việc tìm chiếc xe của Goransson mà họ cho là Niedermann đã lấy dùng. Họ đã chờ chiếc xe quay lại sau vài ngày, chắc là ở một bãi đỗ xe nào đó ở Stockholm. Nhưng vẫn chưa có dấu hiệu nào về nó hết.
- Nếu đã ra nước ngoài thì hắn có thể ở đâu đây?
- Là công dân Đức thì rõ ràng việc đầu tiên của hắn là đến Ðức.
- Hắn hình như không tiếp xúc gì cả với các bạn cũ ở Hamburg.
Andersson vẫy vẫy tay.
- Nếu kế hoạch của hắn là đi Ðức... thì sao hắn lại đi Stockholm? Phải chăng hắn đi đằng Malmo và qua cầu tới Copenhagen, hay bằng một chuyến phà?
- Tôi biết. Thanh tra Erlander ở Goteborg đã tập trung tìm kiếm theo cái hướng ấy từ ngày đầu tiên. Cảnh sát Ðan Mạch đã được thông báo về chiếc xe của Goransson và chúng ta biết chắc chắn rằng hắn không đi phà.
- Nhưng hắn có thể lái tới Stockholm rồi tới Svavelsjo, rồi hắn giết viên thủ quỹ của Câu lạc bộ và - chúng ta có thể giả dụ - phới đi với một khoản tiền chưa biết rõ. Bước sắp tới của hắn sẽ là gì?
- Hắn phải ra khỏi Thụy Ðiển, Bublanski nói. - Việc rõ nhất là đáp một chuyến phà qua biển Baltic. Nhưng Goransson và cô bạn gái đã bị giết khuya hôm 9 thảng Tư. Có thể Niedermann đáp chuyến phà sáng hôm sau. Sau khi hai người này chết chừng mười sáu tiếng, chúng ta đã báo động và phát đi một lệnh tìm chiếc xe từ đấy.
- Nếu hắn đi phà thì xe của Goransson phải đỗ ở một trong các bến phà, - Modig nói.
- Có thể chúng ta không tìm ra được chiếc xe vì Niedermann đi qua Haparanda ở phía Bắc để ra khỏi nước? Một đường vòng rộng ôm quanh vịnh Bothnia nhưng trong mười sáu tiếng hắn đã có thể ở Phần Lan rồi.
- Chắc rồi, nhưng ngay sau đó thì hắn đã phải bỏ chiếc xe ở lại Phần Lan rồi chứ, và như thế thì bây giờ đã tìm được thấy nó.
Họ ngồi im lặng. Cuối cùng Bublanski đứng lên đi đến bên cửa sổ.
- Hắn có thể đã tìm được một chỗ ẩn náu, hắn đang nằm im ở đấy, một nhà nghỉ mùa hè hay...
- Tôi nghĩ không phải là nhà nghỉ mùa hè. Vào hồi này trong năm chủ các căn nhà đều đến kiểm tra nhà cửa của họ.
- Và hắn sẽ không dại đến bất cứ chỗ nào có liên quan đến Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo đâu. Hắn kỵ nhất là gặp những người này.
- Cũng phải trừ đi cả cái thế giới ngầm nữa... Có cô bạn gái nào mà chúng ta không biết không?
Họ có thể suy luận nhưng họ không có sự kiện.

*

Khi Andersson đi rồi, Modig trở lại văn phòng Bublanski, gõ cửa. Ông vẫy vào.
- Ông có cho tôi được một hai phút không? - Chị hỏi.
- Chuyện gì thế?
- Salander. Tôi không thích Faste và Ekstrom dây vào vụ này và phiên tòa. Ông đã đọc báo cáo của Bjorck. Năm 1991, Salander bị xúc phạm theo một cách đi ngược lại pháp luật và Ekstrom biết điều đó. Cái trò quỷ gì đang diễn ra đây?
Bublanski bỏ kính lão ra đút vào túi ngực.
- Tôi không biết.
- Ông không biết gì hết cả ư?
- Ekstrom nói báo cáo của Bjorck và thư từ với Teleborian là giả.
- Ba láp. Nếu giả thì khi chúng ta điệu hắn đến, hắn đã nói rồi chứ.
- Ekstrom nói Bjorck không nói ra vì đó là tài liệu Tối Mật. Tôi bị chính vì ra tay sớm và gọi hắn đến.
- Tôi bắt đầu thấy cần phải hết sức đề phòng Ekstrom rồi đấy.
- Ông ta bị tứ phía ép.
- Không phải là cớ để bào chữa.
- Không phải một mình chúng ta có chân lý, Sonja. Ekstrom nói ông ấy nhận được bằng chứng nói rằng đó là của giả mạo - rằng không có bản báo cáo thật với con số thủ tục kia. Ông ấy cũng nói bản báo cáo giả là bản làm giỏi, nội dung của nó là một thứ pha trộn thông minh giữa sự thật và bịa đặt.
- Chỗ nào thật, chỗ nào bịa, tôi cần biết như thế, - Modig nói.
- Nhìn chung thì câu chuyện khá là chính xác. Zalachenko là bố Salander, hắn là một tên khốn nạn đã đánh mẹ cô ta. Vấn đề này thì quen thuộc thôi - bà mẹ không muốn kêu ca kiện cáo cho nên chuyện ấy cứ diễn ra trong nhiều năm. Bjorck được phân công tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra khi Salander toan giết lão bố. Hắn thư cho Teleborian - nhưng bức thư mà chúng ta đã thấy thì lại là giả mạo. Teleborian làm một xét nghiệm tâm lý thông thường cho Salander và kết luận cô gái không ổn định tâm thần. Một công tố viên quyết định không đẩy vụ án đi xa nữa. Cô gái cần được trông nom chữa chạy và rồi được đưa vào bệnh viện Thánh Stefan.
- Nếu là giả mạo thì ai làm và vì sao lại làm?
Bublanski nhún vai.
- Như tôi biết, Ekstrom sắp đòi phải đánh giá Salander lại một lần nữa thật cẩn thận.
- Tôi không chấp nhận được chuyện này.
- Cũng chả phải việc của chúng ta nữa rồi.
- Và Faste đã thay thế chúng ta. Jan, tôi sẽ tìm giới báo chí nếu bọn khốn này hành hạ Salander một lần nữa.
- Không, Sonja. Cô không nên thế. Thứ nhất, chúng ta không còn mó được vào bản báo cáo nữa, cho nên cô không có cách nào mà yểm hộ cho các tuyên bố của mình đâu. Cô sẽ bị coi là mắc bệnh tâm thần phân lập và sự nghiệp của cô đi đứt.
- Tôi vẫn còn bản báo cáo, - Modig hạ giọng nói. - Tôi đã sao cho Curt một bản, nhưng trước khi Tổng công tố viên thu về các bản khác, tôi vẫn chưa đưa cho Curt được vì không có dịp.
- Cô mà xì bản ấy ra thì không những bị sa thải mà còn bị kết tội là đã có việc làm sai trái nghiêm trọng.
Modig ngồi im một lúc nhìn cấp trên.
- Sonja, đừng làm thế. Hứa với tôi đi.
- Không, Jan. Tôi không thể hứa điều đó. Có một cái gì đó rất chướng trong toàn bộ câu chuyện.
- Cô nói đúng. Có chướng thật. Nhưng vì chúng ta không biết kẻ thù là ai cho nên cô chớ mà làm gì trong lúc này.
Modig nghiêng đầu về một bên.
- Ông sẽ làm một cái gì chứ?
- Tôi sẽ không nói chuyện đó với cô. Hãy tin tôi. Tối thứ Sáu rồi. Nghỉ đi, về nhà. Và... không hề có câu chuyện trao đổi này bao giờ nhé.

*

Niklas Adamsson, người bảo vệ của Securitas đang nghiên cứu tài liệu vì ba tuần nữa anh sẽ phải đi thi. 1h 30 chiều thứ Bảy, anh nghe thấy tiếng bàn chải đang quay tròn của cỗ máy đánh bóng sàn ì ì chạy, rồi anh trông thấy một người nhập cư nước da thẫm màu chân đi cà nhắc. Ông này luôn gật đầu chào lễ độ nhưng không bao giờ cười dù anh có nói một cái gì đó hài hước. Adamsson nhìn ông ta lấy một chai nước ra xịt lên mặt quầy tiếp tân hai lần rồi lau bằng giẻ. Rồi ông cầm cây lau nhà lùa vào các góc của khu vực tiếp tân, nơi bàn chải của máy đánh bóng sàn không với tới được. Anh bảo vệ lại chúi mũi vào đọc tiếp quyển sách về kinh tế quốc gia.
Người lau chùi sàn phải mất mười phút để đi qua chỗ Adamsson đến hết hành lang. Hai người gật đầu với nhau. Adamsson đứng lên cho người này lau sạch quanh chỗ ghế anh ngồi ở bên ngoài gian buồng Salander. Gác ở ngoài gian buồng, anh gần như ngày ngày nhìn thấy nhưng không thể nhớ tên ông ta - một cái tên nước ngoài - nhưng Adamsson thấy không cần xem giấy tờ của ông. Vì một lẽ, gã đen này không được phép lau dọn trong buồng Salander - sáng sáng đã có hai phụ nữ lau dọn rồi - ngoài ra, anh không cảm thấy cái người cà nhắc này là một thứ đe dọa gì cả.
Khi đã lau dọn hành lang xong, ông ta mở cửa buồng ở bên cạnh buồng Salander. Adamsson liếc theo ông ta nhưng không thấy có gì khác với thông lệ thường ngày. Các dụng cụ lau dọn cất trong đó. Trong vòng năm phút tiếp theo, ông ta đổ xô, rửa sạch các bàn chải và chất lên chiếc xe con con các túi nhựa dùng để lót sọt rác. Cuối cùng ông ta đưa chiếc xe con vào trong cái góc nhỏ kín đáo.

*

Ghidi biết người canh gác ở hành lang. Ðó là một thanh niên tóc vàng thường hai, ba ngày một tuần đến đây làm việc, đọc sách. Người gác là sinh viên làm thêm việc ngoài giờ. Anh ta biết vùng xung quanh đây đại khái như thuộc lòng bàn tay mình.
Ghidi nghĩ không hiểu Adamsson sẽ làm gì nếu như có ai thực sự đi vào buồng của cô gái Salander.
Ông cũng nghĩ Blomkvist thật ra là định làm gì đây. Ông đã đọc trên báo về tay nhà báo kỳ cục này và ông đã liên hệ tới người phụ nữ ở hành lang C11, ông tưởng sẽ được nhờ đem trộm một thứ gì đó vào cho cô gái. Nhưng ông không được vào buồng cô ta, thậm chí chưa cả nom thấy người. Ông đã dự đoán mọi thứ nhưng không phải là thứ này.
Ông không thấy nhiệm vụ của ông có gì là phi pháp. Qua khe nứt ở cửa ra vào, ông nhìn Adamsson đang tiếp tục đọc sách. Ông kiểm tra không thấy có ai khác ở hành lang. Ông thò tay vào túi áo khoác lấy ra chiếc di động Sony Ericsson Z600. Ghidi đã xem trong quảng cáo, nó đáng giá khoảng 3.500 krona và có đủ các tính năng mới nhất.
Ông lấy ở trong túi ra một chiếc tua vít, kiễng chân vặn tháo ba chiếc ốc vít ở cái nắp tròn tròn màu trắng của lỗ thông gió trên tường gian buồng Salander. Ông đẩy chiếc di động vào trong lỗ thông gió cho đến khi hết chỗ đẩy nữa, đúng như Blomkvist đã dặn. Rồi ông vặn lại ốc vít vào cái nắp.
Ông làm mất bốn mươi lăm giây. Mai sẽ nhanh hơn. Ông được dặn hôm sau thì lấy chiếc di động xuống, thay pin rồi đặt nó trở lại vào trong lỗ thông hơi. Pin cũ ông mang về nhà, nạp điện cho nó suốt đêm.
Ghidi phải làm tất cả chỉ có thế.
Nhưng chuyện này sẽ không giúp được gì cho Salander. Ông nghĩ rằng tường ở bên phía cô cũng có một nắp vặn ốc vít tương tự. Cô sẽ không thể mó được đến chiếc di động, trừ phi có một chiếc tua vít và một cái thang.
- Tôi biết thế, - Blomkvist nói. - Nhưng cô ấy không cần với tới chiếc di động.
Ghidi cứ làm việc này hàng ngày cho đến khi Blomkvist bảo ông không cần nữa.
Vì việc này, Ghidi đã được trả công mỗi tuần một nghìn krona. Và khi xong việc ông lại có thể giữ lấy chiếc di động.
Dĩ nhiên ông biết Blomkvist đang có một công việc gì hay lắm nhưng ông không thể tìm ra đó là chuyện gì. Ðặt vào lỗ thông gió trong gian buồng cất đồ dùng lau chùi vệ sinh một chiếc điện thoại di động mở máy nhưng không kết nối, việc này điên rồ hết mức. Ghidi không tưởng tượng ra ="truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvntnqn0n3n31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu=">Cô gái chọc tổ ong bầu
!!!15706_12.htm!!!nổi là nó để dùng làm cái gì. Nếu muốn có cách liên lạc với người bệnh, thì Blomkvist tốt nhất là chỉ cần hối lộ các cô y tá và nhờ tuồn lậu chiếc di động vào cho Salander mà thôi.
Phần ông, ông không phản đối làm giúp Blomkvist ơn huệ này - một ơn huệ đáng giá 1.000 krona một tuần. Tốt nhất là ông không hỏi han gì hết.

*

Jonasson chậm chân lại khi thấy một người cầm cặp đứng tựa vào cổng sắt khu tập thể nhà ông trên đường Hagagatan. Nom ông ta có phần quen quen.
- Bác sĩ Jonasson? - Ông ta nói.
- Vâng?
- Rất xin lỗi đã làm phiền ông trên đường trước khi ông vào nhà thế này. Chỉ là vì tôi cần nói chuyện với ông nhưng lại không muốn theo ông ngay từ chỗ ông làm việc.
- Về chuyện gì và ông là ai?
- Tôi là Blomkvist, Mikael Blomkvist. Tôi là nhà báo, làm việc ở Millennium. Chuyện thì là về Salander.
- Ô, bây giờ thì tôi nhận ra ông. Ông là người đã gọi các nhân viên y tế phụ giúp. Có phải ông đã cuốn băng dính vải lên các vết thương của cô ấy không?
- Vâng.
- Một việc làm thông minh. Nhưng tôi không bàn chuyện bệnh nhân của tôi với nhà báo. Ông sẽ phải nói với bộ phận tiếp tân ở bệnh viện Sahlgrenska như mọi người.
- Ông hiểu lầm tôi. Tôi không xin thông tin và tôi ở đây hoàn toàn với tư cách cá nhân. Ông không phải nói một lời nào hay cho tôi một thông tin nào. Ngược lại hoàn toàn: tôi muốn cho ông một vài thông tin.
Jonasson cau mày.
- Xin hãy nghe rõ giúp tôi, - Blomkvist nói. - Tôi không có đi loăng quăng ở giữa đường giữa phố để gặp các bác sĩ phẫu thuật nhưng tôi muốn nói với ông một chuyện rất quan trọng. Tôi có thể mời ông cà phê được không?
- Hãy cho tôi biết là về chuyện gì.
- Chuyện này là về tương lai và hạnh phúc của Salander. Tôi là một người bạn.
Jonasson nghĩ nếu không phải Blomkvist mà là một ai khác thì ông đã từ chối. Nhưng Blomkvist là một người tồn tại trong con mắt công chúng và Jonasson không thể hình dung đây lại là một kiểu hành động vớ vẩn của anh được.
- Tôi không có tư cách gì để được phỏng vấn và tôi cũng không nói đến bệnh nhân của tôi.
- Tôi hoàn toàn hiểu được như thế, - Blomkvist nói.
Jonasson đi cùng Blomkvist đến một quán cà phê gần đấy.
- Vậy tất cả chuyện này là về cái gì đây? - Ông nói khi họ đã có cà phê.
- Trước hết, tôi sẽ không dẫn lời ông hay nhắc đến tên ông trong bất cứ những gì tôi viết. Và chừng nào tôi còn liên quan thì cuộc chuyện trò này là coi như không hề có. Chuyện đã nói ra như thế rồi thì tôi đến gặp ông ở đây là để xin ông một đặc ân. Nhưng tôi cần nói rõ lý do để cho ông có thể quyết định là ông bằng lòng hay không.
- Nghe kiểu này là tôi không thích rồi đây.
- Mọi sự tôi xin ông nghe kỹ tôi nói đã. Việc của ông là trông nom đến sức khỏe thể chất và tinh thần của Lisbeth. Là một người bạn thì việc của tôi cũng là làm như vậy. Tôi không mầy mò gắp viên đạn từ trong đầu cô ấy ra được, nhưng tôi có khả năng khác cũng rất quan trọng cho sự yên vui của cô ấy.
- Là như thế nào?
- Là một nhà báo điều tra, tôi đã tìm ra sự thật về những chuyện xảy ra với cô ấy.
- OK.
- Tôi có thể nói với ông những nét lớn về các chuyện đó rồi ông tự rút ra kết luận.
- Được.
- Tôi cũng nên nói rằng Annika Giannini, luật sư của Lisbeth - tôi nghĩ chắc ông đã có gặp - là em gái tôi và tôi là người trả tiền thuê cô ấy bảo vệ Lisbeth.
- Tôi hiểu.
- Rõ ràng tôi không thể hỏi xin Annika ơn huệ này. Cô ấy không bàn với tôi về Lisbeth. Cô ấy phải giữ bí mật các cuộc chuyện trò giữa Lisbeth và cô ấy. Tôi nghĩ ông đã đọc báo nói về Lisbeth.
Jonasson gật đầu.
- Cô ấy bị mô tả là mắc bệnh tâm thần, giết người hàng loạt và bị đồng tính ái nữ. Tất cả đều là vớ vẩn. Lisbeth Salander không bị tâm thần. Cô ấy cũng lành mạnh như ông và như tôi đây. Còn tính dục của cô ấy thì không phải là chuyện của ai hết.
- Nếu tôi hiểu đúng câu chuyện thì người ta đang định xem xét lại vụ này. Bây giờ đang lùng tìm một người Ðức có dính líu đến các vụ giết người.
- Như tôi biết thì Niedermann là một tên giết người không có một chút ý thức lương tri. Nhưng Lisbeth có nhiều kẻ thù. Những kẻ thù lớn và xấu xa. Một số ở trong Cảnh sát An ninh.
Jonasson ngạc nhiên nhìn Blomkvist.
- Năm mười hai tuổi, Lisbeth bị đưa vào một bệnh viện tâm thần của trẻ con ở Uppsala. Vì sao? Vì cô ấy đã khuấy tung lên một bí mật mà Sapo phải cố đậy kín lại bằng mọi giá. Bố cô ấy, Alexander Zalachenko - còn gọi là Karl Axel Bodin, người bị giết trong bệnh viện - là một gián điệp Liên Xô chạy trốn, một di vật của chiến tranh lạnh. Hắn cũng đã đánh đập mẹ Lisbeth trong hàng năm trời. Mười hai tuổi, Lisbeth đã đánh lại, ném một quả bom xăng vào hắn ta lúc hắn đang ngồi trên xe. Vì thế mà cô ấy đã bị nhốt lại.
- Tôi không hiểu. Nếu cô ấy định giết bố thì chắc chắn là có lý do chính đáng để đưa cô ấy vào nơi điều trị tâm lý rồi chứ.
- Chuyện tôi nói - mà tôi sẽ cho đăng lên báo - là Sapo biết Zalachenko chuyên môn đánh vợ, biết điều đó đã khiến cho Lisbeth làm những việc điên rồ kia nhưng họ chọn lấy ngả bảo vệ Zalachenko vì hắn là một nguồn thông tin có giá trị. Cho nên họ đã làm ra một chẩn đoán giả để bảo đảm giam giữ được Lisbeth.
Jonasson nom ngờ vực đến nỗi Blomkvist bật cười.
- Tôi có thể cung cấp tài liệu minh chứng cho từng chi tiết. Tôi đang viết một bài đầy đủ hết để đăng cho kịp trùng với phiên tòa xử Lisbeth. Xin hãy tin tôi - nó sắp gây chấn động. Xin ông hãy nhớ ở trong đầu rằng Lisbeth tấn công bố là vì những trận đòn đã khiến mẹ cô ấy phải nằm hết quãng đời còn lại của bà trong bệnh viện.
- OK. Ông cứ nói đi.
- Tôi sẽ vạch trần hai bác sĩ tay sai của Sapo đã từng đem chôn vùi Lisbeth vào bệnh viện tâm thần. Tôi sẽ bêu họ lên trước công luận. Một trong số đó là một người có tên tuổi và được kính trọng. Nhưng như tôi đã nói, tôi có đầy đủ bằng chứng.
- Nếu bác sĩ mà lại dính vào một chuyện như thế thì đó là vết nhơ của toàn ngành y.
- Tôi không tin cả tập thể lại cũng phạm tội. Đây chỉ liên quan trực tiếp đến những người dính líu. Với Sapo cũng thế. Tôi tin là có những người giỏi làm việc cho Sapo. Ðây là chuyện một nhóm nhỏ những kẻ nuôi âm mưu. Năm Lisbeth mười tám tuổi, chúng lại toan bắt cô ấy vào bệnh viện lần nữa. Lần này chúng thất bại, thay vì bị nhốt ở bệnh viện, cô ấy chịu chế độ giám hộ. Bất cứ lúc nào, ra tòa chúng cũng đều cố hết sức ném những thứ dơ bẩn lên cô ấy. Tôi - đúng hơn, em gái tôi - sẽ chiến đấu để cô ấy được trắng án, để phải bãi bỏ bản tuyên bố hiện vẫn tồn tại về việc cô ấy bất lực, không thể tự quản trước pháp luật.
- Tôi hiểu.
- Nhưng cô ấy cần đạn dược. Cho nên đây là hậu thuẫn cho cái chiến thuật này. Tôi chắc cũng cần nói rằng trong tất cả chuyện này, trong lực lượng cảnh sát đã có một số cá nhân thực sự đứng về phía cô ấy. Nhưng ông công tố viên đưa ra những lời buộc tội cô ấy thì không. Tóm lại, Lisbeth cần được giúp đỡ trước khi mở phiên tòa.
- Nhưng tôi không phải là luật sư.
- Vâng. Nhưng ông là bác sĩ của Lisbeth và ông được gặp cô ấy.
Jonasson nheo mắt lại.
- Ðiều tôi đang muốn nhờ ông thì không được đạo đức và có thể còn không hợp pháp nữa.
- Thế ư?
- Nhưng về luân thường thì đây là việc đúng cần phải làm. Các quyền lợi của cô ấy chiếu theo Hiến pháp đã bị chính những người có nghĩa vụ bảo vệ cô ấy vi phạm. Tôi xin đưa ra thí dụ. Lisbeth không được phép tiếp khách, lại không được đọc báo hay giao tiếp với thế giới bên ngoài. Công tố viên còn triệt để đến mức cấm cả luật sư của cô ấy lộ ra điều gì. Annika đã tuân theo quy định. Nhưng chính bản thân công tố viên lại là nguồn đầu tiên để rò rỉ tin tức ra cho các phóng viên viết đủ các thứ cặn bã về Lisbeth.
- Thật như thế sao?
- Thí dụ chuyện này. - Blomkvist đưa ra một tờ báo chiều từ tuần trước. - Một nguồn tin trong điều tra nói rằng Lisbeth non Campos mentis, thiểu năng tâm thần, thế là báo chí ùa theo suy đoán về trạng thái tâm thần kinh của cô ấy.
- Tôi có đọc bài báo. Nói bậy nói bạ.
- Vậy ông không nghĩ là cô ấy điên.
- Tôi không bình luận chuyện ấy. Nhưng tôi biết không hề có chuyện đánh giá tâm lý của cô ấy. Theo đó thì bài báo là nói bậy.
- Tôi có thể đưa ông xem một chương và đoạn chứng tỏ người lộ ra tin này là một sĩ quan cảnh sát tên là Hans Faste. Hắn ta làm việc cho công tố viên Ekstrom.
- Ô.
- Ekstrom đang tìm cách cho tòa xử kín để bên ngoài không biết hoặc không thể đánh giá các bằng chứng chống lại Lisbeth. Nhưng điều tồi tệ hơn là... Vì bị công tố viên cách li, Lisbeth đã không thể làm công việc nghiên cứu tìm kiếm những điều cô ấy cần để chuẩn bị tự bào chữa.
- Nhưng việc này chẳng phải là luật sư của cô ấy phải làm hay sao?
- Như chắc ông đến nay cũng đã biết Lisbeth là một người khác thường. Cô ấy có những bí mật mà tình cờ tôi biết nhưng tôi không thể tiết lộ ra với em gái tôi. Nhưng Lisbeth thì nên được lựa chọn là dùng nó hay không dùng nó ở các phiên tòa.
- Tôi hiểu.
- Và để làm việc đó, cô ấy cần cái này.
Blomkvist để chiếc máy tính cầm tay Palm Tungsten T3 và bộ sạc điện của Salander lên bàn ở giữa hai người.
- Ðây là thứ quan trọng nhất trong kho vũ khí của Lisbeth - Cô ấy cần có nó.
Jonasson ngờ vực nhìn chiếc Palm.
- Sao không đưa cho bà luật sư?
- Vì chỉ có mình Lisbeth biết cách tìm ra bằng chứng.
Jonasson ngồi một lúc, vẫn chưa đụng đến chiếc máy tính.
- Ông cho tôi nói một hai điều về bác sĩ Peter Teleborian, - Blomkvist nói, lấy một tập hồ sơ ở trong cặp ra.

*

Armansky rời văn phòng đi bộ đến nhà thờ Do Thái của giáo đoàn Soder trên đường Thánh Paulsgatan đúng sau 8 giờ tối thứ Bảy. Ông gõ cửa, tự giới thiệu và được chính ông giáo sĩ mời vào.
- Tôi được hẹn đến đây gặp một người tôi quen, - Armansky nói.
- Ngay tầng trên kia. Tôi chỉ lối cho ông.
Giáo sĩ cho ông một mũ ni kippa, Armansky ngập ngừng đội nó lên đầu. Ðược một gia đình Hồi giáo nuôi lớn, ông cảm thấy đội nó có hơi tí rồ rồ.
Bublanski cũng đã đội một chiếc.
- Chào, Dragan. Cảm ơn đã đến. Tôi đã mượn giáo sĩ một buồng để chúng ta có thể nói chuyện yên tĩnh.
Armansky ngồi xuống trước mặt Bublanski.
- Cần phải bí mật đến thế này, chắc là ông có lý do chính đáng đây.
- Tôi sẽ nói ngay điều này ra: tôi biết ông là bạn của Salander.
Armansky gật.
- Tôi cần được biết ông và Blomkvist đã bố trí những gì để giúp Salander.
- Tại sao chúng tôi lại bố trí một cái gì chứ nhỉ?
- Vì công tố viên Ekstrom từng có đến chục lần hỏi tôi là ông ở An ninh Milton đã thực sự biết đến đâu về cuộc điều tra Salander. Ðây không phải là một câu hỏi vô tư - ông ấy lo ngại rằng ông sẽ cho bung ra một cái gì đó có thể dẫn đến những xung động... ở trong giới báo chí.
- Tôi hiểu.
- Và nếu Ekstrom lo lắng, đó là vì ông ấy biết hay nghĩ rằng ông đang ủ một cái gì đó cho lên men. Hay ít nhất ông ấy cũng đã nói với một ai đó đang có những mối nghi ngờ.
- Một ai đó?
- Dragan, chúng ta miễn chơi ú tim đi. Ông biết hồi đầu những năm 90 Salander là nạn nhân của một vụ bất công và tôi sợ rằng phiên tòa này mở ra lại sẽ kê cho cô ấy cái đơn thuốc của ngày ấy mất.
- Ông là một sĩ quan cảnh sát ở một nước dân chủ. Nếu ông có thông tin có tầm tác động đến thế thì ông nên hành động đi chứ.
Bublanski gật đầu.
- Tôi đang nghĩ phải làm như thế. Vấn đề là làm như thế nào.
- Nói xem ông muốn biết những gì nào.
- Tôi muốn biết việc ông và Blomkvist đang làm. Tôi cho rằng hai ông không có ngồi mà vặn ngón tay chơi đâu.
- Chuyện này phức tạp. Sao tôi biết là tôi có thể tin ông?
- Có một bản báo cáo từ 1991 mà Blomkvist đã phát hiện ra...
- Tôi biết chuyện ấy.
- Tôi không còn được tiếp cận bản báo cáo ấy nữa.
- Tôi cũng vậy. Các bản sao mà Blomkvist và em gái - nay là luật sư của Salander - có thì đều biến mất cả hai.
- Biến mất?
- Bản của Blomkvist bị lấy trộm trong một lần nhà anh ấy bị đột nhập, còn bản của Giannini thì bị đánh cắp khi chị ấy bị bóp cổ từ sau lưng rồi bị đấm ngã xuống đất ở Goteborg. Tất cả xảy ra trong cùng cái hôm Zalachenko bị giết.
Bublanski không nói một lúc lâu.
- Sao chúng tôi không nghe thấy gì về chuyện ấy nhỉ?
- Blomkvist nói như thế này: chỉ có đúng một dịp thích hợp để đăng lên báo một chuyện, nhưng những dịp lầm lỡ thì là một con số vô tận.
- Nhưng hai ông... anh ấy sẽ đăng lên chứ?
Armansky gật đầu cụt lủn.
- Tấn công bỉ ổi ở Goteborg còn ở Stockholm thì lén lút vào nhà. Trong cùng một ngày, - Bublanski nói. - Như thế cho thấy kẻ thù của chúng ta tổ chức giỏi.
- Tôi cũng nên nhắc đến việc điện thoại của Giannini bị nghe trộm.
- Một loạt tội ác.
- Vấn đề là tội ác của ai?
- Tôi đang nghĩ đến điều này. Nhiều phần hơn cả là Sapo - hủy bỏ bản báo cáo của Bjorck thì họ có lợi. Nhưng Dragan... chúng ta đang nói đến Cảnh sát An ninh Thụy Ðiển, một cơ quan của Chính phủ. Tôi không tin rằng việc này lại được Sapo đồng ý. Thậm chí không tin là Sapo có đủ tay nghề để làm nổi chuyện như thế này.
- Tôi cũng khó tiêu hóa nổi điều đó. Chưa nói một ai đó nữa vào bệnh viện thổi tung mất đầu của Zalachenko đi. Và cùng lúc, Gunnar Bjorck, tác giả bản báo cáo, tự treo cổ chết.
- Vậy ông nghĩ là có một bàn tay đơn độc ở đằng sau tất cả chuyện này sao? Tôi biết thanh tra Erlander, ông ta đã điều tra ở Goteborg. Ông ấy nói không có gì cho thấy nguyên nhân cái chết lại không phải là hành vi xung động của một người ốm yếu. Và chúng tôi đã điều tra kỹ lưỡng nhà của Bjorck. Mọi sự đều chỉ ra rằng đây là tự sát.
- Gullberg, bảy mươi tám tuổi, bị ung thư, mới vừa điều trị bệnh trầm cảm. Chuyên gia mổ xẻ của chúng tôi, Johan Fraklund đang tìm hiểu lý lịch của ông ta.
- Và rồi sao?
- Ông ta thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Karlskrona hồi những năm 40, học luật, và cuối cùng làm cố vấn thuế khóa. Có một văn phòng ở Stockholm trong ba chục năm: mờ nhạt, khách tư nhân... Có thể là bất cứ ai. Về hưu năm 1991. Chuyển về thành phố quê hương Laholm năm 1994. Không có gì đáng nói, trừ...
- Trừ gì ạ?
- Trừ một hai chi tiết đáng ngạc nhiên, Fraklund không tìm được ở bất cứ đâu ra một quy chiếu nào liên quan tới Gullberg. Không có báo chí hay báo kinh doanh nào nhắc tới ông ta, và cũng không có tài liệu nào cho biết khách hàng của ông ta là ai. Tựa như ông ta không hề thực sự tồn tại trong thế giới muôn nghề này.
- Ông đang nói gì đây?
- Sapo rõ ràng là đầu mối liên kết. Zalachenko là một kẻ đào tẩu Liên Xô. Ngoài Sapo ra còn ai nữa gánh trách nhiệm với hắn? Tiếp theo là vấn đề chiến lược hợp tác để đem giam Salander vào một cơ sở. Bây giờ thì chúng ta có ăn trộm tại nhà, bóp cổ, và nghe trộm điện thoại. Cá nhân tôi không nghĩ Sapo đứng đằng sau vụ này. Blomkvist gọi họ là “Câu lạc bộ Zalachenko”, một nhóm nhỏ những kẻ gây chiến tạm ngủ yên đang ẩn náu trong một hành lang tăm tối nào đó ở Sapo.
- Vậy chúng ta nên làm gì? - Bublanski nói.