Dịch giả: Đài Lan
Tác giả: Clark Howard
24 chú chim hét

     urson đứng bất động ở đầu giường, nhìn thi hài lão Haffer.
Cuối cùng, cũng xong, hắn nghĩ. Sau ba mươi mốt năm, cũng kết thúc.
Ba mươi mốt năm, có thể lâu thế không? Nửa đời người, sống ở Haffer Hall. Nửa đời người làm mọi cho cái lão khó tính cục cằn kia. Rồi, lão ấy, ở cái tuổi tám mươi mốt đáng ghét, nhăn nheo, khô héo, đang ngủ giấc ngủ cuối cùng.
Curson chỉ cần quay nhẹ đầu để nhìn thấy hình hắn trong cái gương to treo trên bàn viết lão già. Hắn, James Curson, mới mười lăm tuổi khi xuống đây từ bắc Ái Nhĩ Lan để nhận việc tại nhà lão bạo chúa đáng ghét kia. Có thật là hắn từng là cậu bé Jamie Curson má hồng, mắt to lanh lợi không? Ngày nay, khi nhìn gương mặt mình, hắn không còn thấy đôi mắt to, không còn nhiệt huyết, không còn gì của tuổi thanh xuân; hắn chỉ thấy một cái mặt đỏ đỏ, bị mưa gió mài mòn, hai mí mắt xệ xuống, ánh mắt lờ đờ khúm núm.
Lăo già ơi, ông đã chẳng làm được gì nhiều cho tôi, hắn nghĩ khi quay trở lại nhìn giường người chết. Thật ra là chẳng làm được gì. Bây giờ tôi có bộ mặt khó coi y như ông, tính khí rầu rĩ và hay lải nhải y như ông. Tôi còn lâu mới trở thành con người mà ông ngoại tôi muốn khi hấp hối trên giường và gửi tôi đến với ông. Ông ngoại chỉ nhớ về ông như là đại tá Haffer tài giỏi, mà ông ngoại được hân hạnh phục dưới quyền trong cuộc chiến tranh ở châu Âu. Cũng may là ông ngoại không còn sống để nhìn thấy con người mà tôi đã trở thành. Hãy nhìn tôi đi: Đơn độc, không vợ con, không tiền bạc. Và bây giờ tôi cũng không biết phải đi đâu nữa.
Curson ứa nước mắt. Tại sao tôi ở lại đây? Tôi là người tự do mà, muốn đi đâu thì đi? Đúng, tôi là người tự do. Nhưng lúc đầu thì tôi không như thế. Lúc đầu, tôi chỉ là thằng Jamie, một thằng nhóc. Tôi lớn lên, nhưng đối với Haffer tôi vẫn là một thằng nhóc, vì tính độc đoán cứng rắn của lão. Nhà Haffer đã trở thành nhà tù của tôi: chủ nhà là người cai ngục của tôi.
Lau nước mắt, hắn bước trở ra cửa dẫn ra sân trong - cái cửa hắn mới bước vào. Hắn đang băng qua cái sân này để đi cho chim hét ăn, thì nghe tiếng lão già gọi hắn.
- Cur...! - Giọng lão khàn khàn hổn hển.
Cur... là cái tên độc nhất mà lão từng gọi hắn từ ngày hắn đến nhà Haffer khi còn là thằng bé Jamie.
- Thì ra mày là cháu ngoại của lão Vincent Moriarty hả? - Lúc đó chủ nhà đến gần hắn và nói (thời đó ông chủ năm chục tuổi và khỏe mạnh) - Trông mày cũng y như một thằng lính nhếch nhác! Mày tên là Curson hả? Được! Trông mày y hệt con chó lai: ta sẽ rút ngắn tên mày và gọi mày là Cur [1]. Thôi... Cur, phía sau nhà có mấy con ngựa. Bắt đầu, mày sẽ là người coi chuồng ngựa và mày sẽ ngủ với gia súc, đúng địa vị của mày. Cút ngay!
Như thế là mọi chuyện đã bắt đầu từ ngày hôm đó “Cur”. Và không bao giờ khác đi. Cả khi sắp chết, khi lão già ngạt thở vì máu quá đặc chảy từ mạch máu vỡ trong ngực, vẫn là “Cur”. Hắn buồn bã lắc đầu suy nghĩ. Trong những giây phút cuối đời lão, khi nhìn thấy hắn băng qua sân, khi hắn là người sống cuối cùng mà lão sẽ gặp, ít nhất lần này lão có thể gọi hắn là Jamie, hay James, hay thậm chí Curson. Một cái tên khác ngoài Cur.
Ba mươi mốt năm: một con chó lai, hắn cay đắng nghĩ khi đứng trước cửa nhìn mặt trời mọc long lanh trên bãi cỏ phủ sương ở hướng đông. Những khoảng thoáng chạy dốc xuống khu rừng xung quanh nhà; Curson nhớ ra rằng lũ chim hét đang chờ bữa ăn sáng. Ý nghĩ này khiến hắn đỡ tủi hơn một tí. Về chuyện này, ít nhất hắn đã qua mặt được ông chủ. Từ mấy năm nay, Curson lấy trong nhà lúa mì, lúa mạch đen để cho chim hét ăn. Hiện hắn có ba nắm để trong túi giấy. Hắn gọi việc trích lấy này là “hình phạt” đối với lão già độc tài giết chim chỉ để vui chơi.
Curson thở dài quay lại giường lần nữa để nhìn lần cuối cùng Sir Malcom Haffer quá cố. Thì ra, cũng thích. Bí danh “Cur” sẽ không bao giờ được nói ra nữa, bởi vì trong nhà không ai dám gọi hắn như thế. Các gia nhân khác đều sợ hắn: mà họ cũng không phải tiếp xúc với hắn. Tất cả đều làm việc ở khu nhà phụ, trong khi hắn phụ trách nhà chính, và họ ít khi có dịp vào nhà ông chủ, nếu không phải để chôm vặt một cái gì đó dưới bếp. Nên hắn ít có dịp tiếp xúc với các gia nhân khác. Có một số làm việc ở đó mười năm nay rồi, vậy mà hắn cũng không biết tên. À, mà giờ hắn nghĩ đến, hắn không có một người bạn nào cả, ở đây hay chỗ khác. Ít nhất là không có bạn thuộc giống người. Hắn chỉ có bạn là hai chục chú chim hét.
Đó cũng là lỗi tại ông, đồ lão già quỷ! Hắn lại nghĩ khi nhìn xác lão già. Cơn giận lạnh lùng đột nhiên chiếm lấy hắn và hắn như sắp tát và gương mặt bất động kia. Nhưng mắt lão Haffer vẫn còn mở và đang nhìn hắn: khi đụng phải ánh nhìn đó, bàn tay hắn dừng ở nửa chừng. Hắn vẫn còn thấy một tia uy quyền từng quản lý hắn bấy lâu nay. Nỗi sợ không cho hắn tát xác chết này, nhưng nó bắt đầu cho phép Curson nhăn mặt căm thù và nguyền rủa.
Đúng lúc sắp ra, hắn nhìn thấy chiếc nhẫn. Một chiếc nhẫn vàng, một chiếc nhẫn mặt đá khắc huy hiệu trung đoàn cũ của Haffer. Ở giữa, hình cầu tượng trưng cho Đế quốc Anh, nơi mặt trời không bao giờ lặn được biểu thị bằng một viên hồng ngọc to màu đỏ máu.
- Đẹp há, thằng nhóc? - Có hôm Haffer hỏi hắn, cách đây hai chục năm - Một viên ba chục cara tuyệt đẹp. Không một vết. Nó trị giá hai lần trọng lượng nó bằng kim cương. Tao lấy viên đá này trên mũ quấn của một tên vua Maharadja sau khi đâm kiếm vào cổ họng hắn. Đó là hồi thời cái lũ sùng bái voi gây rắc rối với Nữ Hoàng, bên Ân Độ ấy. Ôi! Một chiến dịch lừng lẫy! Nhưng mày đâu biết gì về thời đó, thằng nhóc ơi! Chỉ có người Anh mới biết thế nào là vinh quang, còn mày là dân Ái Nhĩ Lan mà, đúng không nhóc? Đúng, mày là một tên Ái Nhĩ Lan! Thôi, mày trở về chuồng ngựa đi Cur!
Curson nhìn chiếc nhẫn. Mắt hắn gần lại. Ba chục cara. Hoàn hảo. Không một vết. Một ngàn bảng mỗi cara. Ba chục ngàn bảng!
Ít lâu sau khi Haffer kể cho hắn nghe về nguồn gốc viên đá, Curson đã theo ông chủ đi Luân Đôn mua sắm. Hắn ngồi chờ trong phòng khách của một tiệm kim hoàn lớn, trong khi Haffer nói chuyện trong phòng riêng của chủ tiệm. Cửa vẫn để hé mở và Curson đã nghe được cuộc hội thoại.
- Tôi muốn làm một bản sao chiếc nhẫn này với viên đá giả - Haffer yêu cầu - Tôi muốn đeo nhẫn khi cưỡi ngựa hay đi săn. Tôi sợ làm trầy đá khi chơi những trò mạnh bạo này.
- Được thôi, thưa ông - Chủ tiệm kim hoàn trả lời - Tôi có thể làm nhẫn mạ vàng, còn viên đá bằng corindon tổng hợp với giá khoảng một trăm bảng.
- Đồng ý. - Haffer đã kết luận.
Nhiều lần, trong suốt những năm tiếp theo đó, Curson đã thấy hai chiếc nhẫn đặt bên nhau trong cái hộp ở ngăn kéo đầu tiên của bàn viết ông chủ. Một hôm, khi hắn mang đôi ủng Haffer về sau khi đánh xi xong, hắn thấy ông chủ chuẩn bị đi chơi ngựa và tháo nhẫn đang đeo đặt vào ngăn bên phải trong hộp, rồi lấy nhẫn thứ nhì trong ngăn trái xỏ vào ngón tay. Curson nhớ lại cuộc hội thoại mà hắn nghe được về chuyện rủi Roth làm trầy viên đá khi chơi những trò mạnh bạo, và đã rút ra kết luận rằng nhẫn giả cất trong ngăn trái, còn nhẫn thật bên phải. Tại sao hắn vẫn còn ghi nhớ điểm này trong ký ức?
Bởi vì, theo hắn biết, thì không ai khác ngoài hắn biết về chiếc nhẫn thứ hai, tất nhiên là ngoại trừ ông chủ tiệm kim hoàn, nhưng bây giờ ông ấy đã chết từ lâu rồi. Chắc chắn các gia nhân khác không biết: họ làm gì dám bước vào phòng làm việc của Sir Malcom. Hay một người bạn nào đó của lão? Rất ít khả năng. Lão già quỷ quyệt kia không bao giờ đi kể rằng lão đeo đồ giả, kể cả vì lý do an toàn.
Thế là Curson quyết định rằng có lẽ không ai biết về chiếc nhẫn thứ nhì. Và chưa ai hay biết về cái chết của ông chủ, không ai ngờ rằng hiện, hắn, Curson, đang ở trong phòng của Haffer. Còn sớm quá; đám gia nhân đang loay hoay làm việc ở nhà sau. Không ai thấy hắn lấy hạt cho chim hét ăn, rồi đi dọc theo bãi cỏ hướng đông để vào rừng.
“Đúng - Hắn nghĩ bụng nhanh và càng hăng máu - Đúng. Bồi thường cho ba mươi mốt năm làm việc trung thành như một con chó lai: Cur! Mà lương cũng không tồi lắm: gần một cara hồng ngọc không vết cho mỗi năm khổ cực thối tha!”
Hắn đột nhiên nổi cơn bạo dạn: hắn chụp lấy bàn tay phải người chết, chụp lấy chiếc nhẫn trên ngón tay đã cứng. Hắn nhìn chiếc nhẫn dưới mọi góc độ, ngạc nhiên vì sắc đẹp vẫn mới mẻ của nhẫn. Viên đá đỏ như máu, với những đường kim quyện vào nhau tạo thành hình ngôi sao trên đỉnh. Một kỳ quan, Curson nghĩ...
Nhưng rồi bị dằn vặt hoài nghi: lỡ không phải là viên đá thật? Đồ ngu, hắn tự chửi, có thể mày đang há hốc ngắm một mảnh ve chai!
Hắn lao đến bàn viết của Haffer, lấy hộp da, mở nắp ra. Hắn mỉm cười khi thấy chiếc nhẫn kia nằm ở ngăn trái, chỗ của nhẫn giả... Tất nhiên, tất nhiên, hắn tự mắng, đây chỉ là bằng chứng rằng suy luận đầu tiên của hắn đúng. Không có lý do gì lão già không chịu đeo viên hồng ngọc thật để đi ngủ: không sợ bị trầy khi ngủ.
Curson mỉm cười hơi gượng khi nhìn chiếc nhẫn trong tay, rồi cẩn thận cho trở vào túi. Hắn lấy chiếc nhẫn thứ nhì trong hộp, cất hộp trở vào ngăn kéo. Hắn trở ra giường, kiềm nỗi sợ đang chạy dọc theo xương sống khi nghĩ đến động tác mà hắn sắp làm. Hắn xỏ thật nhanh chiếc nhẫn giả vào ngón tay người chết.
“Xong! Hắn vừa nghĩ vừa chà tay vào áo vét như để khử cảm giác chạm với cái bàn tay lạnh ngắt. Xong, ta đã giải quyết xong nợ nần với nhau, Sir Malcom Haffer à. Sau bấy nhiêu năm mắc dịch, cuối cùng ta đã giải quyết xong với nhau!”
Hắn nhét tay vào túi, hắn sờ kho báu của hắn, rồi vội vàng trở ra sân.
Hắn cố bước đi thật lâu dọc theo mặt trước nhà và cố thật sát tường, rồi rẽ vào một con đường mòn đi xéo qua bãi cỏ về hướng rừng. Hắn chỉ thật sự cảm thấy thoải mái sau khi vượt qua đám bụi mọc ở rìa rừng bao qua bãi cỏ của đất nhà. Khi đó hắn bắt đầu thở và các ngón tay đang run rẩy chuyển sang vuốt ve nhẹ nhàng cái gia tài mà hắn đang nắm chặt. Mình sẽ trở về Bắc Ái Nhĩ Lan, hắn vui vẻ nghĩ - dĩ nhiên là sau khi đã đến một chủ tiệm nữ trang kín đáo nào đó ở Luân Đôn. Rồi trở về quê, và cho đến hết đời ta, ta sẽ được biết dưới tên Squire Curson...
Hắn cười lớn tiếng, và âm thanh giọng hắn tạo phong cách kịch nghệ cho khu rừng cô độc già cỗi đầy rêu, mà qua từng năm một cuối cùng hắn đã biết rõ từng ngõ ngách. Chính rừng là nơi hắn vào để trốn tránh quy tác sống khắt khe ở nhà Haffer, là nơi hắn tìm những khoảnh khắc nghỉ ngơi cần thiết để lấy lại sức, để chịu sự hèn nhát ngày càng nặng nề của chính mình, chịu việc hắn không thể làm gì khác ngoài phục vụ lão Haffer đáng ghét. Và chính là nơi hắn đã làm quen với lũ chim hét.
Lúc đầu chỉ có một chú chim hét, một chú chim có bộ lông vũ bóng lưỡng, mỏ hồng, mắt tròn xoe sắc, màu lông đen thui như bầu trời vào một đêm không trăng không sao. Curson đã đâm vào rừng sâu, ngồi xuống khúc cây để ăn bánh quy và hộp thịt bò mà hắn trộm được ở nhà bếp. Chú chim đã đậu gần đó, đứng nhìn hắn ăn. Curson giả bộ như không thấy nó và tiếp tục ăn. Chú chim nhanh chóng nhảy tới. Khi đó Curson bẻ vụn bánh quy, ném về hướng chim hét. Nó bay đi mất lên cây cao trước khi bánh quy kịp chạm đất. Curson càu nhàu ăn tiếp.
Nhưng một hồi sau, hắn ngước mắt lên thấy chú chim hét đã quay lại và đang mổ bánh vụn. Khi nó ăn sạch rồi, Curson bẻ một mẩu bánh khác ném cho nó. Chim hét lại bay mất, hoảng sợ động tác đột ngột của người đàn ông: nhưng ít lâu sau nó trở lại và ăn tiếp. Lần này Curson thận trọng không làm động tác nào có thể làm chim lo sợ, mà bình tĩnh tiếp tục ăn.
Khi ăn xong, hắn đứng dậy. Chim bay đi. Curson bước đến chỗ nó đậu, bỏ những mảnh bánh vụn còn lại xuống đất. Khi đi trở ra bãi cỏ, hắn nhìn lại qua vai: đúng như hắn dự kiến, chim hét đã trở lại lần ba để ăn hết bữa tiệc.
Curson vào rừng ăn nhiều lần, và đều được chú chim hét đó đến thăm. Suốt một thời gian, chú chim liét cứ nhất định bay mất mỗi khi Curson đưa cánh tay lên để ném bánh vụn, nhưng về sau, khi Curson tập tránh các động tác đột ngột, nó chỉ bỏ ra xa - rồi cuối cùng không bỏ đi nữa: ân nhân của nó không còn làm nó sợ nữa.
Một hôm khi đứng dưới bếp, Curson nảy ra ý lấy hạt mang cho chim ăn. Hắn lấy một nắm lúa mạch, cho vào túi áo, rồi một hồi sau, khi đến rừng, hắn dọn sạch một khoảng đất, rải hạt lên chỗ đất đó. Trước khi hắn kịp đi hết nửa đường đến thân cây quen thuộc, chú chim đã có mặt ăn ngon lành. Và trước khi Curson kịp ăn hết bữa ăn của hắn, thì chú chim hét khác - cũng bộ lông đen tuyền và mỏ hồng - đã tham gia bữa tiệc.
Ngày hôm sau, những chú chim khác đến thêm, và về sau những chú khác nữa. Và bây giờ, trong chừng mực đếm được bất chấp chúng nhảy nhảy liên tục, Curson đếm được hai mươi bốn chú chim. Giữa lũ chim và người đàn ông không còn mối dè dặt nghi ngờ nào nữa: lũ chim hét hoang dã này bu quanh chân hắn y như bồ câu nhà. Curson cho chúng ăn mỗi ngày, luôn chú ý chỉ thực hiện những động tác chậm, nhẹ nhàng, không bao giờ đột ngột.
Bây giờ hắn đang đi vào rừng, đến chỗ khúc cây chặt quen thuộc: hắn ngưng cười, sợ lũ chim hét hoảng sợ khi nghe tiếng động bất thường này. Mà cũng chưa ai nghe hắn cười từ khi hắn đến nhà Haffer vào cái ngày xa xưa kia, hắn nghĩ bụng. Những chuyện này là quá khứ rồi, hắn vui sướng nghĩ bụng. Bây giờ ta là Squire Curson, và sẽ không còn ngày đen tối đối với ta nữa. Sẽ chỉ có whisky Ái Nhĩ Lan, đàn bà Ái Nhĩ Lan, những bài hát Ái Nhĩ Lan... cái vật nhỏ bé dễ thương này...
Hắn lấy nhẫn từ trong túi ra, chà viên đá lên áo cho bóng lên. Nó đẹp quá, sáng quá, hắn ngắm nhìn. Nó sáng chói như ba chục ngàn bảng. Nó sáng chói như một cái nhà ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Nó sáng chói như một vì sao cô độc được một thằng bé tên Jamie thường mơ đến. Nó sáng, sáng, sáng!
Curson đến khúc cây, ngồi xuống đó. Hắn đưa nhẫn ra ánh sáng, dưới nhiều góc độ, nghiên cứu ánh phản chiếu và long lanh thần kỳ trên các mặt đá. Ôi! cái vật không hơn đầu ngón cái hắn đúng là một kỳ quan. Vật đó có phép lạ thần kỳ biến Cur thành một vị hoàng đế!
Curson cảm giác có một sự di chuyển gần hắn: hắn nhìn một vòng. Dưới đất, cách hắn vài bước, có ba chú chim hét đang theo dõi hắn. Hắn mỉm cười, bỏ chiếc nhẫn xuống thân cây bên cạnh. Hắn lấy trong túi áo cái bao giấy chứa hạt lúa, lúa mạch đen. Hắn cho một ít vào lòng bàn tay, chìa tay ra: lũ chim đậu lên tay hắn rồi tiến hành mổ. Mỏ chúng chích chích nhẹ gây khó chịu lên tận cổ tay.
- À! Tụi bây đói quá há! - Curson khẽ nhận xét.
Nhiều chú chim khác đậu gần đó, rồi tiến lại gần hơn theo bước nhảy nhảy ngắn giật giật. Curson thọc tay kia vào bao giấy rải thêm hạt cho những chú chim mới đến. Những chú chim khác bay lượn đến và chẳng bao lâu dưới chân Curson có cả một đội quân chim hét nhảy vào nhau đến gần chỗ thức ăn. Curson rải thêm một nắm hạt nữa rồi theo thói quen chơi trò đếm chúng.
- Mười ba, mười bốn, mười lăm... Không, tao đã điểm mày rồi mà... Xem nào... Mười lăm, mười sáu... Thêm bốn thành hai chục... Hai mươi mốt... Hai chú nữa, thành hai mươi ba... Ờ ờ?
Có một lần hắn chắc chắn đã đếm được đủ hai chục. Dường như hôm nay thiếu một chú. Hắn nhìn khắp xung quanh để tìm chú chim bị thiếu, rồi liếc nhìn bên trái và bên phải thân cây. À! Tên vắng mặt kia rồi! Nó đang nhảy xa ra đầu thân cây. Đen thui, mỏ hồng và thái độ láo lếu. Và trong cái mỏ đó, có chiếc nhẫn hồng ngọc.
Mắt Curson mở to ra. Miệng hắn há ra. Trong chốc lát, đầu gối hắn run lên. Rồi do phản xạ bản năng, không hề có suy nghĩ, hắn có động tác nguy hại. Hắn nhào như một thằng khùng đến chú chim đang bỏ đi, vấp ngã. Tên trộm nhỏ đen và hai mươi ba bạn đồng hành bay đi trong tiếng vỗ cánh phập phập.
- Không! - Curson kêu khẽ.
Hắn ngồi dậy. Cẩn thận, hắn tự cảnh cáo. Bây giờ phải nhẹ nhàng. Chúng sẽ trở lại. Mình phải bước tới thật chậm. Trong bao giấy có ít hạt: mình có thể mồi chúng...
Curson đứng dậy thật nhẹ nhàng nhìn phía trên và xung quanh. Trên một cành cây to, cách đầu hắn khoảng sáu bảy mét, hắn nhìn thấy tất cả bọn chúng đậu thành một hàng một và đang quan sát hắn. Hắn mỉm cười với chúng, như thể chúng có thể nhạy cảm với nụ cười hắn, hắn lấy bao hạt ra. Hắn từ từ rải nhiều hạt xuống đất, mắt vẫn nhìn lũ chim, xem xét từng chú một, đếm, tìm...
Rồi hắn thấy chiếc nhẫn. Chú chim đậu cuối hàng đang giữ chiếc nhẫn. Vàng kim, sáng chói, óng ánh màu đỏ máu: tên vô lại đó đang kẹp chắc trong mỏ. Và hai chục chú chim tiếp tục nhìn hắn với thái độ bình tĩnh và hầu như đe dọa.
- Lại đây đi, mấy chú chim bé nhỏ của ta - Curson rên rỉ khẽ và cứ rải đại hạt lúa - Chim dễ thương... Xuống đây, chim bé bỏng ơi... Ồ! Hạt ngon quá.
Chú chim hét đầu tiên trong hàng bay đi. Chú chim thứ nhì cũng theo. Rồi chú thứ ba. Curson nhìn thấy chúng bay cao lên đỉnh cây, về hướng bầu trời...
- Đừng... Ôi! đừng... - Hắn van xin.
Chú chim thứ tư, thứ năm, thứ sáu bay đi mất.
- Đừng đi mà... Chim dễ thương ơi... Chim ơi, xuống đây...
Chú chim hét thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười... từng chú chim hét một theo một đội hình gần như đúng quy chế, chúng bay đi tìm bầu trời tự do. Từng chú một, cho đến khi chỉ còn vài chú ở lại.
- Đừng! - Curson tức giận hét lên - Đồ mất dạy! Đồ đểu!
Hắn cầm một khúc cây to, ném về hướng cành cây đúng lúc con áp cuối cất cánh. Khúc cây bay qua gần chú chim cuối cùng, chỉ hụt nó một mét. Chú chim không động đậy, không thụt lùi, không vỗ cánh: nó đứng trơ trơ tại chỗ. Tia hy vọng nảy ra trong lòng Curson.
- Đừng đừng... Xin lỗi nhé... Làm ơn xuống đây đi, chim ngoan ơi.
Chú chim hét cuối cùng lạnh lùng nhìn Curson một lúc. Rồi vẫn ngậm chặt nhẫn trong mỏ, nó yêu kiều bay đi theo mấy chú chim kia.
Cursort không nói được tiếng nào. Mặt hắn xám xịt như tro. Hắn vẫn nhìn lũ chim được gió mang đi, càng lúc càng không thấy nữa do khoảng xa và độ cao. Hắn vẫn nhìn bầu trời thật lâu sau khi lũ chim đã biến mất hẳn.

 

Vài ngày sau, tất cả gia nhân được tập hợp vào phòng làm việc lớn ở Haffer Hall để nghe bức di chúc của ông chủ già.
... Cho người gia nhân trung thành, người bảo vệ nhà tôi, James Curson, - Công chứng viên đọc tiếp - nhớ ơn tấm lòng trung thành bất di bất dịch của anh đối với tôi trong suốt nhiều năm, bất chấp tính khí ngày càng tệ đi và lời chửi mắng của tôi, tôi xin để lại vật sở hữu trần tục mà tôi quý nhất tức là chiếc nhẫn vàng khắc huy hiệu đội quân của tôi và cẩn hồng ngọc”.
Curson bước đến gần bàn, nơi công chứng viên và người thi hành bức di chúc đang ngồi, tiếp nhận bản trích lục chính thức của bức di chúc cũng như hộp da chứa chiếc nhẫn giả.
Khi kết thúc buổi lễ, hắn leo lên phòng xếp hành lý. Có chuyến xe Cantwell buổi sáng đi Luân Đôn: hắn không muốn lỡ chuyến này. Hy vọng duy nhất còn lại đối với hắn là chiếc nhẫn không trị giá thấp hơn một trăm bảng.
Chú thích:
[1] Cur: con chó lai.
HẾT

Xem Tiếp: ----