Cuộc du ngoạn kì thú dưới lòng Cố cung
CHƯƠNG 11
Thiên Cung Cách sát trận

     ới loại bảo bối đất bay cát chuyển này, ngoài đặc tính di chuyển tự do như trong trạng thái vô trọng lượng ra, chúng còn có tính hàn, nên từ khi xuất hiện chúng đã nhanh chóng hạ nhiệt cho căn hầm đang hừng hực như lò than, khiến chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Nhưng từ khi hắc ưng thoát ra và bay thẳng lên không trung, thì lớp đất cát đã cũng lập tức rút xuống lòng đất qua đường khe giữa những phiến đã lát sàn; không khí mát lạnh cũng theo đó mà mất dần đi, khiến nhiệt độ trong căn hầm lại từ từ tăng lên như cũ. Chúng tôi chỉ mới đi được một đoạn mà toàn thân đã ướt đẫm mồ hôi.
Nhiệt độ căn hầm mỗi lúc một thêm ngột ngạt đến tức thở. Chốc chốc tôi lại lôi chai nước khoáng trong balô ra uống ừng ực, rồi vẩy vài giọt nước lên mặt, lên tay cho đỡ nóng, nhưng chỉ trong nháy mắt, lớp nước đó lại bốc hơi khiến cơ thể nóng rát và khó chịu đến cực độ. Chị Giai Tuệ đi phía sau liên tục nhắc nhở tôi nên tiết kiệm nước vì chỗ nước còn lại cũng không nhiều.
Nghe chị Giai Tuệ nói vậy, Lão Ngũ đang đi phía trước bỗng nhiên dừng lại, quay sang hỏi chúng tôi:
- Hai nhóc, có đứa nào nhớ chúng ta đã xuống đây bao lâu rồi không?
Tôi và Lão Ngũ là những người sống dựa vào đôi tay nên chúng tôi ghét nhất là phải đeo những thứ gây ảnh hưởng tới các thao tác khi mở khóa trên tay, cho nên từ trước đến nay đồng hồ, nhẫn, vòng tay hay những thứ đại loại như thế đều không bao giờ xuất hiện trên tay chúng tôi.
Tôi nhẩm tính một lúc rồi nói:
- Chắc mới chỉ khoảng hai ngày thôi.
Chị Giai Tuệ ghé sát mắt nhìn chiếc đồng hồ trên cổ tay, ước đoán:
- Chúng ta tới điện Sùng Chính lúc mười một giờ trưa ngày mười sáu, sau đó mở chiếc khóa Song Long cũng không mất nhiều thời gian lắm, còn lúc này là một giờ chiều ngày mười tám, như vậy là chúng ta đã xuống đây được hai ngày rồi.
Lão Ngũ thốt lên một tiếng đầy cảm khái rồi lầm bầm tự nói một mình:
- Mới hai ngày thôi à, vậy mà tưởng chừng như đã hai năm trôi qua. – Rồi lão hỏi chị Giai Tuệ xem lượng lương thực và nước uống còn lại bao nhiêu.
Chị Giai Tuệ đặt balô xuống kiểm tra lại chỗ lương thực dự trữ. Nước khoáng còn mười chai, lương khô mười bốn gói, nếu theo lượng sử dụng như hiện nay hay tiết kiệm hết mức thì cũng chỉ có thể duy trì trong khoảng từ ba đến năm ngày là cùng.
Lão Ngũ gật đầu, thở dài:
- Đến lúc đấy mà vẫn chưa thoát ra được, thì chỉ còn cách tự mút chân, uống nước đái của mình thôi. Mẹ kiếp, đói thì còn nhịn được chứ khát thì làm sao mà chịu được chứ, cổ họng ta khô rát như lửa đốt đây này.
Chị Giai Tuệ tủm tỉm cười, đang định mở lời trấn an lão thì hai tay chị chợt sờ lên trán rồi ngẩng đầu lên, vừa quan sát vừa thắc mắc:
- Sao ở đây lại dột nhỉ?
Tôi cũng giật mình kêu một tiếng, đang định hỏi lại xem là chuyện gì thì chợt thấy phía trên đầu tự dưng mát rượi, giống như đang có hạt mưa rơi xuống vậy. Rồi sau đó hai hạt, ba hạt… liên tiếp rơi xuống. Trong căn hầm nóng nực như vậy tại sao bỗng nhiên lại có mưa? Tôi khum tay trước trần, nheo mắt ngó lên khoảng không đen kịt trên đỉnh đầu.
Vẫn là không gian im lìm không giới hạn mà chiếc gương Dạ Minh của Lão Ngũ chỉ có thể chiếu sáng một khoảng chừng ba mươi đến năm mươi mét. Thế nhưng từ phía cao tít tưởng chừng như vô hạn đó lại đổ xuống vô số những hại nước nhỏ, qua tia sáng xanh của chiếc gương, chúng lấp lánh như những viên pha lê đắt tiền khiến tôi cảm thấy hết sức ngỡ ngàng, thì ra trời đang mưa thật.
Cho dù không nhìn rõ những hạt nước từ đâu rơi xuống, nhưng trước mắt tôi giờ là những hạt mưa rơi xuống mỗi lúc một nhanh và dày hạt hơn, tạo nên vô số đường thẳng kéo dài từ trên xuống, lóng lánh trong suốt như những sợi thủy tinh, nối liền khoảng không vô định phía trên với mặt sàn ở dưới.
Cả ba chúng tôi đều hết sức kinh ngạc ngắm nhìn không gian bao la của căn hầm ken dày bằng những sợi thủy tinh vô cùng đặc biệt. Ánh sáng phản chiếu sợi nước không ngừng xoay chuyển và biến hóa, liên tục tỏa ra những tia sáng đủ sắc màu khiến người ra cảm giác lóa mắt. Nhìn theo những sợi nước chạm xuống sàn, tôi ngỡ ngàng phát hiện ra chúng đều tuân thủ theo một quy luật: Khi rơi xuống sàn chúng sẽ rơi đúng vào bốn góc của phiến đá lát tạo thành một hình chữ nhật vuông vức. Mỗi người chúng tôi đều đứng trong một phiến đá, xung quanh là vô số những sợi nước trượt từ trên xuống mà không hề có một tiếng động nào, cảnh tượng đó tạo cho tôi một cảm giác vô cùng lạ lẫm.
- Đ. mẹ, là dầu mỏ! – Lão Ngũ hét lớn.
Nghe thấy vậy, tôi mới giật mình tỉnh cơn mơ màng, cả căn hầm không biết từ lúc nào đã sực mùi hăng hắc, hình như đúng là mùi dầu mỏ thật. Tôi vội vàng lấy ngón tay quệt lên thứ dung dịch nhơn nhớt, mát lạnh đang dính đầy trên tóc xem thử, quả nhiên đó không phải là nước mà là dầu. Thảo nào rơi từ trên cao xuống mà vẫn dính vào nhau thành sợi, không hề bị đứt đoạn. Nghĩ tới đó, tôi vội nhấc chân lên vì sợ giẫm phải chúng.
Lần này thì đến lượt chị Giai Tuệ lên tiếng:
- Nhìn xuống dưới chân xem, chỗ dầu mỏ chảy đi hết rồi.
Mặc dù dầu vẫn liên tục rơi từ trên xuống, nhưng lại không đọng lại thành vũng mà chúng men theo những khe hở rất nhỏ giữa hai phiến đá, chảy vào lòng đất.
Lão Ngũ cũng trố mắt nhìn một lúc, rồi lại chửi thề:
- Thảo nào trong này nóng thế, thì ra là mỏ dầu. Ta cứ tưởng là nước, đang hí hửng được tắm một trận. Mẹ kiếp, giờ mà có mồi lửa thì cả ba chúng ta thành gà quay hết! – Nói rồi lão ngồi sụp xuống, nheo mắt nhìn đường khe giữa hai phiến đá. – Hay đấy, xem ra cuối cùng đã tìm ra cỗ máy điều khiển rồi. Nhưng sao không cứ thế mà thiêu cháy chúng ta đi, mà lại còn phải chảy xuống dưới đó làm gì. Mẹ cái bọn hoang phí, mấy thằng đầu trọc tết tóc này toàn là bọn ăn no rửng mỡ, chẳng biết làm gì toàn bày ra trò để tiêu khiển.
Nghe bảo có thể sẽ bị thiêu sống, tôi sợ hãi nghĩ thầm con hắc ưng bị xổng chắc đã khởi động cỗ máy dưới lòng đất; thế nhưng trong lòng vẫn còn chút hồ nghi, tôi vội hỏi chị Giai Tuệ:
- Chị Giai Tuệ, em thấy trên tivi dầu mỏ có màu đen, vậy tại sao ở đây nó lại trong suốt giống như nước thế?
Chị Giai Tuệ cũng ngồi xuống nhìn ngó xung quanh, hơi nhíu mày suy nghĩ rồi chậm rãi giải thích cho tôi:
- Dầu mỏ khi đạt tới độ tinh khiết cao sẽ chuyển sang trong suốt, điều này chứng tỏ dầu mỏ ở đây không hề có tạp chất. Với chất lượng như thế này, có thể trực tiếp đóng thùng sử dụng đấy.
Dường như chị Giai Tuệ cũng đang băn khoăn điều gì đó trong lòng, chị ngần ngừ một lúc rồi hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, lão nghĩ chúng ta đang ở độ sâu bao nhiêu ạ?
Lão Ngũ vuốt chỏm râu lẩm nhẩm suy tính, nói:
- Sau khi mở được chiếc chìa khóa Song Long, nó đưa chúng ta xuống đáy mất nửa ngày trời, rồi lại lúc lên lúc xuống, mất không biết bao nhiêu công sức, nhưng ta đoán cũng phải sâu hơn một nghìn mét.
Chị Giai Tuệ khẽ lắc đầu, chậm rãi nói:
- Không đúng, ít nhất cũng phải hai nghìn mét rồi.
Tôi giật mình thốt lên:
- Trời! Chúng ta đang ở sâu thế sao?
Lão Ngũ vội lên tiếng phản đối con số dự đoán của chị Giai Tuệ:
- Vô lý, sao có thể sâu được thế, vẫn chưa chạm tới mạch nước ngầm kia mà, vả lại ở đây vẫn còn khá dễ thở.
Chị Giai Tuệ gật đầu tán thành nhưng vẫn kiên quyết bảo vệ lập trường của mình:
- Không thể sai được, tám mươi phần trăm lượng dầu mỏ phân bổ ở trong lòng đất tại hai tầng địa chấn có độ sâu là hai nghìn mét và khoảng ba nghìn mét đến năm nghìn mét; đặc biệt, với loại dầu mỏ có độ tinh khiết cao như thế này thì ít nhất phải trong khoảng hơn hai nghìn mét. Từ chi tiết này, cháu ước tình chỗ chúng ta đang đừng ít nhất cũng phải ở độ sâu hai nghìn mét. Thế nhưng khi nhìn lên phía trên thì hầu như không thể đoán được độ cao của khoảng không này là bao nhiêu. Vừa xong khi con hắc ưng bay lên cháu cũng đã để ý dõi theo, âm thanh nó phát ra vọng lại từ một khoảng cách rất xa, ít nhất cũng phải vài trăm mét, thậm chí cả nghìn mét. Vậy thì chỗ chúng ta đang đứng lúc này, nếu nói là sâu không đến hai nghìn mét thì không đúng lắm.
Lão Ngũ đưa tay vỗ vỗ lên mặt sàn đá dưới chân, lưỡng lự nói:
- Hay đấy, hay đấy! Mẹ kiếp, trong suốt dọc đường đi chúng ta không gặp bất cứ một dấu hiệu của mạch nước ngầm nào, chẳng lẽ trong quá trình xây dựng, bọn đầu trọc tết tóc đó đã áp dụng quy trình xử lý mạch nước ngầm trong lòng đất, đẩy chúng chảy tới nơi khác, rồi đào những địa đạo lớn thông với nhau trong lòng đất để không khí được lưu thông. Nếu thật sự tạo được một địa cung như vậy, thì cái bọn cẩu Thanh này cũng đáng để ta nể phục đấy chứ.
Hai người bọn họ cứ mải mê tranh luận, phân tích, khiến tôi nghe càng thêm mơ hồ. Bên dưới địa cung này càng đi càng thấy nhiều điều thần kỳ, tôi chỉ biết ngồi nghe, nhìn lên nhìn xuống, rồi ước lượng, phán đoán trong đầu. Bỗng nhiên, tôi phát hiện ra những sợi dầu lóng lánh đang dần dần phình to…
Cứ nghĩ do mắt mình bị hoa nên tôi ra sức dụi, những giọt mồ hôi ướt đầm trên cánh tay khiến mắt tôi cay xè. Nhưng càng nhìn tôi càng dám khẳng định rằng mình đã không nhìn sai, những sợi dầu đó đúng là đang to dần lên cứ như bên trong nó là những mũi tên dài và nhỏ xuyên thẳng trong lõi với tốc độ rất nhanh. Tôi vội vàng gọi Lão Ngũ và chị Giai Tuệ nhanh tới xem.
Cả ba chúng tôi cùng lao tới sợi dầu gần nhất, tập trung quan sát, bên trong lõi của sợi dầu là một thanh kim loại sáng, màu vàng chanh, thẳng tắp, chỉ nhỏ bằng ngón tay út; phần đầu còn chia thành bốn lưỡi móc lao xuống góc phiến đá, phát ra tiếng cạch cạch.
Tôi nhìn sang xung quanh, đều là như vậy, không thể đếm hết có bao nhiêu thanh kim loại như thế đâm vuông góc xuống sàn đá, lớp dầu mỏ cũng không ngừng men theo đó tuôn xuống, khiến những thanh kim loại sáng loáng như gương. Tôi đứng ở giữa chẳng khác gì bị nhốt trong một chiếc lồng sắt vuông vức.
Chưa hết ngạc nhiên thì bỗng từ phía dưới vọng lên một âm thanh rất lớn, giống như tiếng bánh răng kim loại đang chuyển động khớp lại với nhau, những phiến đá dưới chân rung lên bần bật rồi lắc mạnh sang hai phía, khiến tôi suýt ngã nhào.
Tôi nắm chặt lấy cánh tay Lão Ngũ, vội hỏi lão chuyện gì đang diễn ra, có phải lũ hắc ưng chuẩn bị xông tới không? Sắc mặt Lão Ngũ bỗng sầm xuống, mắt nhìn chằm chằm xuống nền nhà, giọng lão rít qua kẽ răng:
- Bà nó chứ, nhìn kìa!
Những phiến đá lát dưới chân chúng tôi rung lên dữ dội, từng phiến từng phiến bắt đầu tách rời nhau ra, đồng thời những thanh kim loại đâm thẳng xuống dưới khe đá khoảng vài centimet cũng dừng lại, rồi ngay lập tức có tiếng lạo xạo của kim loại cọ sát vào nhau, tựa như những chiếc móc trên đầu thanh kim loại đang móc vật gì đó dưới phiến đá.
Nhìn cảnh tượng này, tôi đoán cỗ máy đã bắt đầu khởi động, chúng hoạt động theo một quy trình đồng nhất từ đầu đến cuối như cỗ máy liên hoàn mà Lão Ngũ đã từng nói đến. Vậy đây nhất định chính là động Hắc Ưng. Tôi cảm thấy sợ hãi vô cùng, liền nhảy sang phiến đá Lão Ngũ đang đứng, kéo theo cả chị Giai Tuệ, ba người chúng tôi đứng cạnh nhau, tay nắm chặt tay.
Chúng tôi đứng sát lại với nhau. Bỗng nhiên không gian vụt sáng bừng lên. Đó không phải là ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh. Vừa nghĩ tới đó, bên tai tôi chợt vang lên từng hồi từng hồi tiếng động dội từ trên đầu xuống, âm thanh đó mỗi lúc một lớn hơn, ánh sáng trong căn hầm cũng sáng chói một cách khó hiểu. Tôi vội ngẩng đầu lên quan sát, cảnh tượng phía trên khiến tôi hết sức ngỡ ngàng.
Đầu trên cùng của thanh kim loại ánh lên những tia sáng màu xanh nước biển lấp lánh, chúng rọi thẳng xuống phía dưới và bắt đầu lan rộng. Mọi thứ đang tối đen như mực bỗng dội lên những tia sáng xanh biếc khiến không gian căn hầm bừng sáng với đủ màu sắc lung linh huyền ảo đến lạ thường. Cùng với những tia sáng xanh là những luồng khí lạnh đột ngột kéo đến làm nhiệt độ căn hầm hạ xuống nhanh chóng và khiến toàn thân tôi nổi da gà.
Lão Ngũ giậm chân thình thịch, hốt hoảng kêu to:
- Lửa, dầu mỏ gặp lửa rồi.
Câu nói của Lão Ngũ khiến tôi cảm thấy rất phân vân, rõ ràng nhiệt độ đã giảm thậm chí còn là hơi lạnh, vậy sao lại có lửa chứ, hay là lão đang đùa chúng tôi. Chưa kịp thắc mắc thì tia sáng xanh từ thanh kim loại đã lan đến gần chúng tôi. Đứng giữa bốn tia sáng xanh lè, khuôn mặt ai trông cũng khác lạ như nhìn qua một màn sương mỏng.
Tôi vội quay đầu nhìn lên, những thanh kim loại đang được bọc trong lớp ánh sáng xanh từ từ tỏa ra làn khí trắng mỏng, giống như hơi nước từ những tảng băng. Luồng khí đó mỗi lúc một dày đặc hơn khiến người ta có cảm giác đang lạc vào giữa những đám mây, tầm nhìn cũng vì thế bắt đầu mờ hẳn.
Càng nhìn càng cảm thấy lạ lùng, tôi chăm chú quan sát thanh kim loại, thì ra những tia sáng xanh kia chính là tia lửa nhỏ, giống như ngọn lửa màu xanh của bếp gas, chúng đang chạy dọc thanh kim loại.
Chị Giai Tuệ vẫn chưa tin đó là những ngọn lửa, liền nhổ một sợi tóc gí vào tia sáng xanh. Sợi tóc vừa chạm phải đã lập tức cháy rụi, không để lại chút dấu vết. Nếu chỉ là ngọn lửa màu xanh thông thường thì không có gì đáng nói, nhưng một ngọn lửa mà lại có thể tỏa ra luồng khí lạnh thì thực tình không thể hiểu nổi.
Tôi quay sang nhìn Lão Ngũ, nghĩ bụng: Ngay từ đầu lão đã biết đó là tia lửa, vậy chắc hẳn lão đã nhận ra cơ chế hoạt động của cỗ máy này rồi.
Lão Ngũ mắt không rời khỏi thanh kim loại, tay vân vê mấy sợi râu dưới cằm rồi nói với chúng tôi:
- Nếu như ta đoán không sai, thì những thanh kim loại này chính là Thệ Diệm Kim, tên một loại vàng chỉ có thể tìm thấy tại dãy núi Âm Sơn thuộc vùng Tân Cương. Nghe nói, số lượng của loại khoáng vật này rất ít lại nằm ở độ sâu vài trăm mét dưới lòng đất; để luyện được nó người ta phải sử dụng rất nhiều phương pháp phức tạp, nên loại vàng này cảng trở nên hiếm hoi hơn. Nó có một đặc tính cực kì lạ lùng là mỗi khi gặp lửa, dù nhiệt độ của lửa có cao đến đâu chăng nữa thì bản thân nó vẫn luôn tỏa ra luồng khí lạnh.
Nghe thấy vậy, chị Giai Tuệ đưa mắt nhìn ra tứ phía, nghi hoặc nói:
- Lão Ngũ, nếu đúng như lão nói, những thanh kim loại này chính là Thệ Diệm Kim thì vua Nỗ Nhĩ Cáp Xích kiếm đâu ra những thứ kì quái này chứ. Hơn nữa, thời bấy giờ kỹ thuật luyện kim đâu đã phát triển, liệu họ có tự chế tạo ra không, đây quả đúng là một điều bí ẩn.
Lão Ngũ gật đầu tán thành ý kiến của chị, lão nói mọi thứ ở dưới này đều rất kì quái, bởi bọn cẩu Thanh làm cái gì cũng muốn thật hoành tráng. Lão còn cho rằng dưới Cố Cung ở Bắc Kinh nhất định còn cất giấu nhiều bảo vật quý hiếm hớn thế này nhiều, nếu có cơ hội phải đến đó một chuyến để mở mang đầu óc mới được. Chị Giai Tuệ vội lắc đầu phản đối:
- Cố Cung ở Bắc Kinh chắc chắn không được như thế này đâu, bởi vì nơi nhà Thanh phát tích chính là vùng Đông Bắc này, đây mới chính là cội nguồn…
Chưa để chị nói hết câu, tôi đã vội ngắt lời, hỏi Lão Ngũ cỗ máy này ở đây thực ra có dụng ý gì, tại sao cố tình đặt những thanh vàng tỏa ra khí lạnh như thế, phải chăng chúng cũng giống những cột trụ ở giữa Hắc Xà, dùng những luồng khí lạnh để làm đông cứng chúng tôi?
Lão Ngũ lắc đầu, nói:
- Ta nghĩ không phải. Tuy nhiệt độ có hạ xuống nhưng căn hầm này vẫn còn hơi nóng. Khi hai luồng khí đối nghịch gặp nhau, chúng ta cũng đâu có thấy khó chịu lắm.
Lão quay sang nhìn ra bốn phía rồi nói thêm là chính lão cũng chưa hiểu vai trò của cỗ máy này như thế nào, đến nước này chỉ còn cách đến đâu hay đến đó, trước mắt cứ lần theo khoảng giữa những thanh kim loại mà đi về phía trước thôi.
Nghe Lão Ngũ nói vậy, vốn đang sẵn sốt ruột nên tôi lập tức đưa chân định bước qua khoảng giữa của hai thanh kim loại để tiếp tục tiến lên phía trước. Không ngờ, vừa đặt một chân xuống mặt sàn thì bỗng nhiên những tia lửa từ thanh kim loại lập tức phụt mạnh, đúng lúc tôi đang ở tư thế chân trong chân ngoài giữa hai phiến đá, chưa biết phải tránh sang phía nào tôi đành cứ đứng trơ trơ chấp nhận chờ chết. Tôi căng thẳng tới mức buột mồm văng ra một câu chửi thề.
Bỗng có một lực kéo mạnh tôi về phía sau đúng lúc hai ngọn lửa mang theo luồng khí lạnh buốt phụt tới xém qua chóp mũi tôi rồi chập vào nhau, phát ra tiếng kêu giòn giã. Do lực va khá lớn nên hai thanh kim loại cũng bị rung mạnh, rồi theo đà chúng tiếp tục rung nhẹ khiến những ngọn lửa xanh đua nhau phụt ra những tia lửa nhỏ li ti làm tóc mái của tôi cũng bị cháy sém một góc.
Tôi cuống cuồng đưa tay lên phủi phủi tóc mái để dập lửa, quay ra sau thì thấy Lão Ngũ vừa túm chặt tay lấy lưng áo tôi vừa hằm hằm nhìn tôi đầy trách móc.
Chị Giai Tuệ vừa giúp tôi dập lửa vừa lo lắng nói:
- Nguy hiểm quá, may mà Lão Ngũ ra tay kịp thời.
Tôi vỗ vỗ tay lên ngực để trấn an tinh thần rồi hổn hển cảm ơn Lão Ngũ đã cứu mạng và hỏi lại đây là cỗ máy gì. Lão Ngũ bực bội trả lời:
- Nhóc con, chỉ được cái lanh chanh. Chưa đợi nói hết câu đã lao lên trước, giờ đứng yên đấy để ta xem xét kĩ lưỡng rồi sẽ nói cho mi biết.
Lão Ngũ nói xong thì thả tôi ra, rồi ngồi xuống nghiêng đầu sang trái, ngoẹo đầu bên phải quan sát thật kỹ hai tia lửa đang chạm vào nhau, sau đó khẽ gật đầu:
- Hay đấy, hay đấy. Hóa ra đây chính là Thiên Cung Cách sát trận.
Nghe thấy cái tên này, tôi lập tức nghĩ tới một bộ phim nước ngoài đã từng xem, nội dung kể về những cỗ máy được thiết lập theo mô hình trận địa. Hồi đó, ông nội bắt tôi phải xem bộ phim này để quan sát và rèn luyện.
Lão Ngũ nói với chúng tôi, Thiên Cung Cách sát trận có nguồn gốc từ một kiểu thế trận biến hình thời cổ đại, chủ yếu dùng để bày binh bố trận hoặc bảo vệ lăng mộ của vua chúa, thế nên nó mới được gọi là Thiên Cung. Đem đặt ở đây thì cũng hơi không cần thiết.
Trong mắt của những người Trung Quốc cổ đại, các hình khối đối xứng tự thân có tính thẩm mĩ cao, đặc biệt là hình tròn, tiếp đó là hình vòng cung, rồi mới đến những hình có góc cạnh như hình vuông, hình chữ nhật. Nhưng theo ghi chép về các cỗ máy bí mật thời cổ xưa, thì loại thế trận hình vòng cung dễ ứng dụng vào thực tiễn hơn loại thế trận hình tròn, vì tính năng kết hợp thuận tiện, dễ dàng. Đặc biệt bên trong nó vẫn có thể bố trí thêm một trận địa khác để tăng khả năng liên kết và chống đỡ.
Lấy căn hầm trước mặt làm ví dụ. Mỗi phiến đá lát được coi là “nhất cung”, vậy bốn phiến đá sẽ tạo thành “tứ cung”, chín phiến đã sẽ là “cửu cung”[1]. Cứ theo quy luật như vậy, có bao nhiêu phiến đá sẽ tạo nên trận địa có bấy nhiêu cung.
[1] Cửu cung ở đây có hình dạng khá giống Cửu cung Hà đồ, nhưng tính chất không hoàn toàn giống nhau.
Tiếp đó, hai cung tạo thành một cách, cứ theo đó mà tính thì cho dù dưới này có bao nhiêu phiến đá lát chăng nữa cũng chỉ cần sắp xếp chúng theo đúng trình tự dọc ngang, hoặc theo hình bình hành thì đều tạo thành Thiên Cung Cách sát trận.
Giảng giải đến đây, Lão Ngũ giậm mạnh chân xuống sàn:
- Nơi chúng ta đang đứng là một cung, lấy đây là điểm trung tâm rồi hướng ra bốn phía xung quanh, cứ hai phiến đá là một cách. Những cung, cách này từ trên xuống dưới, từ trái qua phải đều ăn khớp với nhau, thật không biết trận địa ở căn hầm này được ghép bởi bao nhiêu cung, cách đây.
Lão Ngũ còn say sưa nói đông nói tây một hồi lâu, nhưng tôi không tài nào hiểu được. Vốn là một đứa trẻ lười học, nên với những lời giải thích kiểu lôgic toàn học thế này, tôi thực sự không thể tiêu hóa nổi. Những phiến đá trước mặt đang không ngừng nhảy múa trước mắt khiến đầu óc tôi quay cuồng, mụ mị. Dù sao thì những lời của Lão Ngũ cũng khẳng định một điều: Thiên Cung Cách sát trận là một trận địa vô cùng phức tạp và khó lường.
Chị Giai Tuệ chăm chú nghe Lão Ngũ giảng giải nên hiển nhiên là đã hiểu ra vấn đề, chị giải thích thêm cho tôi:
- Đây là tổ hợp những ô vuông được bố trí và sắp xếp có chủ ý, bản chất của nó là áp dụng những công thức toán học lũy thừa và nghịch đảo. Hiện giờ ta không rõ số phiến đá trên mặt sàn là bao nhiêu, như thế đồng nghĩa với việc trình tự sắp xếp của các cung, cách cũng là vô số.
Lão Ngũ gật đầu tán thành:
- Mấy cái trình tự dọc ngang gì đó thì ta không hiểu lắm, nhưng dù sao trận địa này cũng vô cùng nguy hiểm.
Tôi sốt ruột tới mức không thể không lên tiếng hỏi lại:
- Nhìn mấy thứ này cháu cứ thấy u u mê mê kiểu gì ấy, thế nhưng chắc chắn chúng phải mang một ẩn ý gì đó, đúng không ạ? Chẳng lẽ chúng lại điều khiển các thanh kim loại này kẹp chết chúng ta?
Lão Ngũ mỉm cười không trả lời mà chỉ thò tay vào ngực áo lấy ra viên Phi Hoàng thạch, khiến chúng tôi chăm chú dõi mắt nhìn theo.
Lão lia viên Phi Hoàng thạch sang phiến đá bên phải rồi để nó rơi tự do xuống nền. Thanh kim loại kẹp giữa hai phiến đá lập tức chuyển động. Thế nhưng một điều rất lạ là hai tia lửa không xuất hiện như trước, mà một thanh kim loại bỗng dưng lắc mạnh rồi va vào thanh còn lại, sau đó chúng quay trở lại vị trí ban đầu. Sự việc xảy ra nhanh đến mức tia lửa trên thanh kim loại tạo thành một vệt xanh lè bay vụt qua.
Nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, tôi và chị Giai Tuệ đều hết sức ngỡ ngàng, đặc biệt là tôi – người khá rành về nguyên lí chế tạo khóa và những thiết bị tương tự. Hành động của Lão Ngũ khiến tôi nhận ra kết cấu của cỗ máy phía dưới mặt sàn đá kia rất đỗi phức tạp, nó là sự kết hợp của rất nhiều cơ chế hoạt động khác nhau nên hình thức tấn công phòng thủ mới biến hóa như vậy.
Lão Ngũ còn nói với chúng tôi, Thiên Cung Cách sát trận thường đặt trong lăng mộ thế nên thông thường cấu tạo của nó là những bức tường đá và sàn kim loại. Bốn mặt cung đều là lối ra, nhưng bắt buộc phải tìm cho đúng; sang tới cung tiếp theo, lại phải chọn lối khác. Trong đó, tường đá và mặt sàn kim loại chính là điểm mấu chốt của cả cỗ máy và chúng liên quan mật thiết với nhau. Chỉ cần chọn sai một bước, thì không những không thoát ra được mà thậm chí còn bị cỗ máy tấn công, tới lúc đó tính mạng sẽ vô cùng mong manh.
Trận địa Thiên Cung Cách sát trận trước mắt chúng tôi lại thuộc hàng vi diệu nhất, cả bốn phía đều không có tường chắn mà chỉ có những thanh Thệ Diệm Kim phủ lửa xanh. Mặc dù nó trong suốt, nhưng như thế càng khó để thoát ra do ngọn lửa phản chiếu làm suy giảm khả năng quan sát, thậm chí còn rất dễ bị chệch hướng. Chỉ cần chọn sai thì cỗ máy sẽ điều khiển những thanh kim loại di chuyển loạn xạ tạo nên một trận địa rối ren. Đến lúc đó, thật không thể tưởng tượng được chuyện gì sẽ xảy ra.
Nói đến đây, những nếp nhăn trên khuôn mặt Lão Ngũ xô đẩy vào nhau khiến gương mặt lão trở nên nhăn nhúm, khó coi. Lão hằn học nói:
- Có nghe câu thành ngữ Cách sát bất luận (giết không cần luận tội) bao giờ chưa?Cách sát… ha ha… chính là từ trận địa này mà ra đấy. Xem ra ba cái mạng còm của chúng ta đã đến lúc bị cách sát rồi.
Nghe thấy vậy, đầu óc tôi trở nên trống rỗng, chẳng lẽ chúng tôi lại cam tâm chết ở đây thật sao. Đây cũng là lần đầu tiên Lão Ngũ gặp phải tình huống này nên giờ lão cũng chẳng khác gì hai chị em tôi, đến đâu hay đến đó. Chúng tôi quan sát xung quanh một hồi lâu rồi quyết định tiếp tục dấn thân, không thể để mọi việc chấm dứt như thế này được.
Do đã thám thính trước nên Lão Ngũ cho rằng bước sang phía tay trái sẽ an toàn hơn. Lão dùng viên Phi Hoàng thạch thử lại một lượt nữa, quả nhiên hai thanh kim loại không va vào nhau, đến lúc đó chúng tôi mới cẩn trọng bước qua.
- Phiến thứ ba nhất định phải tiến vào từ phía sau, phiến thứ tư thì tiếp tục bước thẳng tới…
Qua sự chỉ dẫn của Lão Ngũ, chúng tôi cẩn thận bám sát theo sau, lúc bước thẳng lúc lùi ra sau, lúc thì sang trái lúc thì sang phải, cứ như vậy cuối cùng chúng tôi cũng đã tới được phiến đá thứ hai mươi mốt mà không gặp trở ngại gì. Tuy nhiên do lúc tiến lúc lùi nên tính về khoảng cách thực thì chúng tôi mới chỉ tới được phiến đá thứ tám. Mỗi phiến đá có chiều dài một mét, vậy nghĩa là chùng tôi mới đi được có tám mét. Thế nhưng để đi được tám mét ngắn ngủi này, chúng tôi đã phải mất gần hai mươi phút đồng hồ. Lão Ngũ đăm chiêu vuốt râu và nói:
- Không được, không được rồi, cứ như thế này mãi thì cũng không được, có đến tận đầu kia thì cũng không thể tìm được lối ra.
Chị Giai Tuệ lo lắng hỏi Lão Ngũ xem có cách nào khác không. Lão chớp chớp đôi mắt mờ đục, suy nghĩ một lúc lâu rồi khẽ lắc đầu và nói:
- Mẹ kiếp, hướng nào cũng là cửa tử, thà chết nhanh chóng còn hơn là như thế này, chúng ta quay vòng thôi. Ta vừa nảy ra một ý, hai đứa thử tham mưu xem sao.
Cơn tò mò trỗi dậy, tôi lập tức hỏi lại:
- Lão Ngũ, quay vòng gì?
Lão Ngũ liếc xéo tôi đầy khinh thường rồi khịt mũi nói:
- Mi còn nhỏ lại ít kinh nghiệm, nên không hiểu được chuyện này đâu. Chim phượng hoàng sau khi bị thiêu vẫn có thể tái sinh trở lại, đó chính là quay vòng.
Tôi gật gù tỏ vẻ đã hiểu, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy rất kỳ lạ, điều đó thì có liên quan gì đến quay vòng chứ?
Chị Giai Tuệ bỗng nhiên đưa tay lên bịt miệng, ho sặc sụa, vẻ mặt dở khóc dở cười trước lời giải thích của Lão Ngũ, nhưng rồi vẫn hỏi lão rốt cuộc đã có chủ ý gì.
Lão Ngũ mím môi trả lời đầy quyết tâm:
- Thành công hay không thì ta chưa biết được, hay là cứ đánh động tất cả cung,cách trước đã, rồi từ từ theo đó tìm đường thoát thân.
Lão bàn với chúng tôi về cách thoát thân. Thì ra chủ ý của Lão Ngũ là dùng Phi Hoàng thạch lia ra tứ phía để kích cho các thanh kim loại kia cùng chuyển động va vào nhau, rồi dựa vào đó để nắm bắt quy luật, tìm ra hướng đi.
Đó là cách vô cùng mạo hiểm, là ranh giới cuối cùng giữa sự sống và cái chết với nếu cả cỗ máy cùng hoạt động một lúc thì chúng tôi sẽ không còn cơ hội sống cho mình. Thế nhưng, nếu không làm như vậy thì trận đồ bát quái này cũng sẽ giam chân chúng tôi cho đến chết.
Sau khi đã bàn bạc ổn thỏa, Lão Ngũ lôi ra hai nắm đá, mỗi tay mười viên. Lão thận trọng chỉnh lại góc độ cũng như vị trí kẹp giữa hai ngón tay. Hơi cúi người xuống, lão lấy một hơi dài rồi nín thở, đột ngột thẳng người ném hai mươi viên Phi Hoàng thạch ra ba hướng khác nhau.
Không biết lão làm thế nào mà những viên Phi Hoàng thạch bay ra nhanh chậm, cao thấp, xa gần cũng khác nhau. Chỉ trong nháy mắt, hai mươi viên Phi Hoàng thạch đã rơi xuống hai mươi phiến đá xung quanh chúng tôi, rồi gần như cùng một lúc, phát ra tiếng lạch cạch. Những thanh kim loại cũng lập tức chuyển động.
Trong nháy mắt, từ bốn góc của phiến đá, những thanh kim loại bắt đầu rung bần bật với những tiếng rít rùng rợn. Chúng chuyển động mỗi lúc một nhanh hơn, kéo theo một dây chuyền cùng đồng loạt hoạt động rồi nhanh chóng tỏa ra bốn phương tám hướng, như những con sóng dồn dập xô nhau.
Do thanh kim loại khá mảnh và quay tít nên nhìn như chúng chỉ khẽ đưa qua đưa lại, ngọn lửa xanh lè lúc nãy giờ cũng đã giảm dần và chúng tôi không còn cảm nhận rõ sức nóng của nó nữa.
Cả căn hầm bỗng dội lên một tiếng vang rất lớn, giống như sóng thần đang cuồn cuộn dâng lên. Hai tai ù đặc và trong lòng bất an, tôi vội vàng bịt chặt hai tai nhưng không thể nào ngăn được tiếng sóng đang gào thét.
Cùng lúc đó, tất cả các thanh kim loại gần như dừng lại trong thoáng chốc rồi tiếp tục chuyển động tạo ra những đường lửa xanh lập lòe, khiến cả căn hầm sáng lên trong một thứ ánh sáng ma quái.
Cả ba chúng tôi đều cố kìm nén ngạc nhiên, nắm chặt tay nhau, đứng im đưa mắt nhìn ra bốn phía thăm dò, cố gắng tìm quy luật hoạt động của những thanh kim loại kia; thế nhưng, càng dõi chúng tôi càng thất vọng hơn vì không thể tìm ra quy luật hoạt động của chúng; những thanh kim loại tuy chuyển động theo đường biên, nhưng tuyệt nhiên không theo quỹ đạo nào. Có những thanh thì chuyển động theo một hướng cố định, nhưng lại có những thanh liên tục va vào nhau, thậm chí có cả những thanh chỉ men theo đường biên trượt ra xa; dường như tất cả chúng đều có một đường di chuyển riêng. Thực tình chúng tôi không thể tưởng tượng nổi cỗ máy tinh tế này được thiết kế như thế nào và bộ phận điều khiển mấu chốt của nó phức tạp tới đâu.
Chuyển động của những thanh kim loại mỗi lúc một nhanh hơn, chúng vùn vụt lao nhanh, đem theo những ngọn lửa xanh rồi giao tại các điểm khác nhau, tạo nên một bức tường lửa với những đường kẻ sọc màu xanh. Thật lạ, những bức màn lửa xanh mỏng manh tuy vẫn đang hừng hực tỏa nhiệt nhưng lại trong suốt đến bất thường, chẳng khác gì một mặt gương đang phản chiếu lại hình ảnh của ba chúng tôi một cách rõ nét. Từ trước đến sau, từ trái qua phải đâu đâu cũng là hình ảnh của chúng tôi. Ba chúng tôi như bị vây hãm bởi một rừng tường lửa mà chỉ cần nhìn thôi cũng đã đủ làm cho đầu óc quay cuồng.
Lão Ngũ bỗng dưng kêu lên ầm ĩ:
- Chết rồi, chết rồi, vậy là phí phạm bao nhiêu viên Phi Hoàng thạch của ta rồi.
Đang định mở lời thì bỗng nhiên chị Giai Tuệ quay lại cười với tôi với vẻ mặt khác thường, khiến tôi có chút khó hiểu và thoáng thấy lo sợ. Ngỡ ngàng trong phút chốc, Lão Ngũ liền rút từ trong áo ra một thanh gươm mỏng sáng loáng, múa vài đường trong không trung, giọng sang sảng:
- Mẹ kiếp, chém chết chúng mày đi.
Lão Ngũ giống như một kẻ điên, miệng hét ầm ĩ, tay không ngừng vung mạnh lưỡi gươm tạo nên những đường lóe sáng trên không trung, rồi chém mạnh lên bức tường lửa in hình mình phía bên trái với vẻ tức tối.
Hai thanh kim loại bên phía tay trái vẫn liên tiếp va vào nhau, lưỡi gươm chạm phải đinh tai như đạn pháo oanh tạc. Đúng lúc đó ngọn lửa xanh bỗng bùng lên như một dòng nước chảy dọc theo lưỡi gươm.
Đôi mắt Lão Ngũ đỏ ngầu cùng ánh lửa, lão ngửa cổ cười khanh khách, nhưng bàn tay vẫn không rời thanh gươm, tiếp tục quay người chém sang bức tường lửa khác.
Tôi thấy sợ hãi vô cùng, lẽ nào Lão Ngũ bị điên rồi sao? Nhìn thấy ngọn lửa đang cháy lan đến tay lão, tôi vội vàng lao tới, giằng lưỡi gươm trong tay lão ra.
Lão Ngũ hình như không cảm thấy đau, luôn miệng phát ra những tràng cười quái dị, rồi quay đầu nhìn chị Giai Tuệ:
- Vẫn còn mi… hơ hơ…
Đôi mắt lão đỏ rực lên, nhào người đuổi theo chị Giai Tuệ. Lúc này vẻ mặt Giai Tuệ cũng vô cùng dữ tợn, chị rút khẩu súng, lên đạn và chĩa thẳng về phía Lão Ngũ.
Trời ơi! Hai người họ đang làm gì thế này, phải chăng là họ đang muốn chém giết lẫn nhau? Tim đập thình thịch, tôi vội vàng lao tới giật khẩu súng trong tay chị Giai Tuệ, hét lớn:
- Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người làm sao thế?
Thế nhưng mặc cho tôi gào thét, họ vẫn như không nghe không thấy gì, hai bên cùng lao tới siết cổ đối phương. Hai cặp mắt hằn tia máu, khuôn mặt tím tái, miệng không ngừng phát ra những tràng cười điên dại.
Qua những hành động kì quặc trên, tôi đoán họ đã trúng phải một loại độc tố nào đó. Không còn thời gian để sợ hãi, tôi cuống cuồng rút từ trong balô ra hai chiếc kim móc, cầm thật chắc tay rồi lần lượt đâm vào huyệt tỳ du phía sau lưng của từng người. Đầu mũi kim cắm thẳng vào xương sống chúng một centimet khiến hai người họ lập tức đừng yên như pho tượng.
Vị trí của huyệt tỳ du nằm ở phía sau lưng, dưới sống lưng thứ mười một, rộng chừng hai đầu ngón tay. Ngày trước, ông nội đã từng giảng giải về vị trí các huyệt đạo và kiến thức liên quan, thế nên tôi biết rất rõ huyệt tỳ du là trọng điểm khiến toàn thân mềm nhũn ngay tức khắc.
Thấy có tác dụng, tôi tiếp tục vê chiếc kim cắm sâu thêm một chút nữa. Cả hai người từ từ thả lỏng tay chân, toàn thân lắc lư như say rượu, liêu xiên ngã phịch sang một bên. Mỗi phiến đá dưới chân chúng tôi đều chỉ rộng một mét vuông, ba chúng tôi đứng chung trên một phiến đá đá thấy rất chật chội, giờ nếu hai người này ngã xuống thì liệu có bị những thanh kim loại kia kẹp chết không?
Tôi lập tức thả tay ra khỏi chiếc kim, ôm chặt lấy hai người, cố gắng giữa họ không vượt qua ranh giới tử thần kia. Lúc đó, tôi mới cảm nhận được cơ thể của hai người họ đang nóng hừng hực như bị sốt, đôi mắt đỏ quạch dần dần trở lại màu sắc bình thường.
Tôi mừng rơn, áp má lên mặt hai người, khẽ nói:
- Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người đã đỡ chưa?
Thực ra, lúc đó tôi thực sự rất sợ, nhỡ đâu hai người họ lại cùng lúc điên loạn thì một mình tôi biết làm sao đây?
Một lúc sau, Lão Ngũ bỗng nhiên nấc lên một tiếng rồi phều phào ni:
- Nhóc con, mi ôm ta làm gì thế?
Lão Ngũ chớp chớp đôi mắt híp như sợi chỉ của mình, nhìn tôi vẻ khó hiểu, hoàn toàn không còn thấy vẻ điên dại lúc trước nữa. Chị Giai Tuệ cũng ho khan vài tiếng, rồi quay sang nhìn tôi đầy thắc mắc.
Thấy hai người đã trở lại trạng thái bình thường, tôi mới thở phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn giữ chặt lấy vạt áo của hai người không dám thả tay ra, tỉ mỉ kể lại sự việc vừa rồi.
Nghe tôi kể xong, hai người tỏ vẻ hoài nghi, họ dường như đã quên hết mọi việc mới chỉ diễn ra vài phút trước. Thế nhưng nhìn thấy thanh gươm và khẩu súng bị tôi đá sang một bên, hai người không thể không tin những lời tôi nói là sự thật. Lão Ngũ lắc đầu, miệng lẩm bẩm:
- Hay đấy, lẽ nào chúng đã sử dụng một dạng khóa treo, khiến chúng ta lạc vào mê trận này?
Chị Giai Tuệ vội lên tiếng:
- Cũng không đúng, thế tại sao Lan Lan lại không bị? Lão Ngũ, lẽ nào chúng ta đã bị trúng khí độc?
Lão Ngũ gật gật đầu tỏ vẻ đồng ý, nói:
- Có lý! Trên thanh kim loại kia không thể có độc, nhưng lớp dầu đang lan tới thì chắc chắn có, chúng ta do không biết điều này nên đã vô tình khởi động các bộ phận của cỗ máy, và bị trúng loại độc dược gây ảo giác chết người.
Nghe lời Lão Ngũ phân tích, tôi sực nhớ ra cảm giác lâng lâng ban nãy của mình, chắc chắn tôi cũng đã bị trúng độc, nhưng do trên người đang đeo cặp tỳ hưu ngọc nên mới giữ được tỉnh táo. Nghĩ vậy, tôi bỗng cảm thấy rùng mình, may mà bảo bối này luôn bên người, nếu không cả ba chúng tôi đã cùng bị trúng độc, đến lúc đó không chết vì tự chém giết lẫn nhau thì cũng bị những thanh kim loại đang bốc cháy hừng hực kia kẹp chết, không khéo biến thành than cũng nên.
Tôi lập tức nhìn ra bốn phía xung quanh, những thanh kim loại lúc nãy còn va đập dữ dội vậy mà giờ cũng đã bắt đầu va chậm lại rồi từ từ trở về vị trí ban đầu; những tia lửa xanh yếu dần đi, chỉ còn lại một lớp mỏng bao quanh thanh kim loại. Thế nhưng đó chỉ là quanh khu vực chỗ chúng tôi đứng, còn phía đằng xa, những thanh kim loại vẫn không ngừng va đập vào nhau, tiếng lanh canh vọng tới theo một nhịp điệu nhất định.
Lão Ngũ quan sát một hồi lâu rồi bỗng vỗ mạnh lên đùi, nói:
- Mẹ kiếp, đây chính là Trung cung, vị trí then chốt nguy hiểm nhất của loạt Cung Cách sát trận, và cũng là nơi khí độc lan tỏa. Xem ra chúng ta đã thực sự tiến vào bên trong cỗ máy, giờ chỉ còn cách phá được chúng thì mới có thể thoát khỏi đây.
Nói đến đây, lão lại tiếp tục kể cho chúng tôi nghe cái cách mà người xưa đã đặt tên cho loại Cung Cách sát trận này, họ đặt tên cho nơi ở của hoàng hậu là Trung cung, còn nơi trọng yếu nhất trong triều đình lại là Nội các. Hai nơi này đều có quyền lực tối cao nhưng cũng nguy hiểm nhất. Xem ra, đàn bà và chính trị đều nham hiểm như nhau.
Tôi nghe mà chẳng hiểu mô tê gì cả, không biết lão cố tình trêu tôi hay là đang nói sự thật.
Lão Ngũ vỗ mạnh lên vai tôi, đưa ra lời đề nghị:
- Nhóc con, những lúc hiểm nguy như thế này không nên ích kỉ, hãy tách đôi cặp tỳ hưu ngọc ra đi.
Tôi lập tức làm theo lời lão, tháo cặp tỳ hưu ngọc đang đeo trên cổ ra, tách đôi chúng rồi đưa cho lão một mảnh để phòng độc.
Lão Ngũ nắm chặt mảnh ngọc trong tay, bước nhanh tới gần thanh kim loại trước mặt, rồi từ từ ngồi xuống, nghiêng đầu quan sát thật tỉ mỉ. Tôi và chị Giai Tuệ đứng phía sau, khoác chặt tay nhau và cùng lo lắng nhìn về phía Lão Ngũ.
Lão Ngũ ngồi phịch xuống sàn, nhìn lên ngó xuống rất lâu rồi lại nhìn sang ba thanh kim loại còn lại, sau đó lão quay đầu lại nói với chúng tôi:
- Phần mũi thanh kim loại đúng là có vấn đề. Lan Lan, mi lại đây xem này!
Nói rồi, lão quay trở lại đứng thay vào vị trí của tôi, nắm lấy tay chị Giai Tuệ. Còn tôi thì giữ chặt mảnh ngọc trong tay, rồi ngồi xổm xuống trước một thanh kim loại, quan sát kĩ lưỡng nơi Lão Ngũ đã chỉ.
Tôi dần dần phát hiện ra, phần mũi mỗi thanh kim loại đều có một mắt khóa vô cùng nhỏ, cách mặt đất đúng chừng ba centimet. Quan sát kĩ hơn thì thấy từ mắt khóa phun ra một làn khí mỏng, lực vừa đủ khiến cho tia lửa xanh đang phủ quanh thân thanh kim loại tào thành một vòng xoáy nhỏ.
Bỗng tôi nghe giọng Lão Ngũ vang lên từ phía sau:
- Đã nhìn thấy chưa, ta đoán khí độc được phun ra từ đó, mi nói xem liệu đó có phải là lỗ khóa không?
Tôi gật đầu vì cho rằng điều Lão Ngũ nói hoàn toàn có cơ sở. Khi thanh kim loại lao từ trên xuống, sẽ lần lượt cắm vào bốn góc của phiến đá, khi chúng gắn kết hoàn chỉnh với nhau, cỗ máy sẽ bắt đầu khởi động. Nếu nói đây là một loại khóa, thì có vẻ như nó mang kết cấu của khóa khảm nhưng với quy mô lớn hơn rất nhiều.
Khóa khảm là một loại khóa mà tất cả các bộ phận đều hiển lộ ra ngoài, thông thường chúng được thiết kế trong những cỗ máy lớn. Những thanh kim loại này được coi là lõi khóa, còn những phiến đá thì chính là những bánh răng cưa; khi những thanh kim loại cắm thẳng xuống nền đá thì coi như trục khóa đã ăn khớp vào các bánh răng cưa. Các phiến đá lát dưới căn hầm này nhiều vô kể, mỗi khi thanh kim loại cắm xuống ăn khớp với bốn phiến đá xung quanh nó tạo nên một thế trận liên kết chặt chẽ với nhau, thì đây chính là loại khóa khảm điển hình. Người thiết kế ra nó đã cố tình tăng diện tích lên bội phần; hơn nữa lại đặt trong căn hầm bất tận này, e là muốn mở được nó sẽ phải mất rất nhiều thời gian và sức lực.
Nghe thấy lời giải thích của tôi, Lão Ngũ tỏ vẻ chán nản, lão nói:
- Vậy thì phải nghĩ cách khác thôi, chứ nếu để giải quyết từng thanh kim loại một thì chắc ba chúng ta phải ăn Tết ở dưới này mất.
Chị Giai Tuệ đang im lặng bỗng dưng lên tiếng:
- Lan Lan, chị nghĩ tốt nhất là em vẫn cứ nên thử. Hắc ưng chắc chắn sẽ tấn công từ phía trên xuống, mà căn hầm này lại rộng bao la, bốn phía xung quanh không có đường biên, chi bằng chúng ta nghiên cứu kỹ phía dưới này, nhỡ đâu lại phát hiện thêm điều gì.
Lão Ngũ lập tức đồng tình, hết lời khen ngợi chị Giai Tuệ suy nghĩ sáng suốt. Bản thân tôi cũng cảm thấy còn chút tia hi vọng, từ trước đến nay tôi luôn cho rằng mọi hướng đi đều ở phía trước mặt, chứ không hề nghĩ nó lại có thể nằm ngay dưới chân, nếu như lần này may mắn, biết đâu chúng tôi sẽ thoát được khỏi căn hầm này.
Nghĩ vậy, tôi lôi bọc kim móc từ trong balô ra rồi chọn lấy một sợi dây da lừa màu đen dài chừng sáu centimet. Loại dây da lừa này là một loại bảo bối truyền đời của Kiện môn vì có lực nén cực lớn. Tôi đã từng nghe ông nội giảng giải về cách chế tạo vô cùng phức tạp của nó, đầu tiên phải luộc đi luộc lại rất nhiều lần cho đến khi nó co lại ở mức tối đa và chuyển sang màu xám đậm, tiếp sau đó là tôi luyện nhiều lần trong nước đá và lưu huỳnh cho tới khi nó đạt tới khả năng chống lửa chống nước. Hơn nữa, tính năng của loại dây này rất đặc biệt, nó vừa có tính mềm dẻo lại vừa chắc khỏe, rất thích hợp để mở mọi loại khóa trong thiên hạ.
Tôi giữ chặt hai đầu dây, kéo nó dài hơn ra một chút rồi từ từ chọc vào lỗ khóa ở mũi thanh kim loại.
Sợi dây da lừa vừa chạm vào tia lửa xanh thì ngay lập tức đã phát ra tiếng lép bép, rồi từ từ chuyển sang màu trắng và vô số những tia nhỏ li ti bắn ra giống như tia lửa hàn. Xem ra ngọn lửa xanh này cũng khá lợi hại, nhưng dù lợi hại như vậy sợ dây da lừa cũng không hề hấn gì.
Thấy sợi dây da lừa không bắt lửa, tôi yên tâm phần nào, từ từ chọc mũi kim vào lỗ khóa thăm dò. Tôi phát hiện thấy phía trong lỗ khóa là một khoảng rỗng nằm dọc theo thanh kim loại. Lúc tôi đổi tay, lực tác động lên sợi dây cũng thay đổi khiến nó hơi cong lên nhưng vẫn từ từ đi thẳng vào trong.
Sau khi nhét toàn bộ sợi dây vào lõi thanh kim loại, ngón tay tôi cũng gần chạm phải ngọn lửa xanh. Tôi tự nhủ phải giữ nguyên vị trí, nhưng cảm giác vừa rát vừa buốt kia khiến tôi suýt chút nữa rút tay ra; bỗng đầu kia của sợi dây da lừa dừng lại, hình như nó đã chạm tới đầu bên kia.
Tôi như mở cờ trong bụng, quên cả sự rát buốt trên các ngón tay, tiếp tục đẩy sợi dây da lừa vào sâu thăm dò. Do tập trung cao độ nên tôi cảm nhận được ngay lập tức kết cấu phức tạp bên trong lõi thanh kim loại qua lực tác động dù là nhỏ nhất lên sợi dây, truyền đến đầu ngón tay.
Dần dà tôi cũng đã nhận ra đâu là mắt xích quan trọng. Thì ra, bốn lưỡi móc được nối thẳng vào phía trong cùng của thanh kim loại, rồi lần lượt móc xuống bốn góc phiến đá, trên rãnh trượt đó lại là vô vàn những đầu móc khác rất nhỏ. Như vậy thanh kim loại mới có thể bám theo đường khe để chuyển động qua lại cho dù đường khe giữa những phiến đá rất nhỏ; ngoài ra thanh kim loại còn có tác dụng là đầu mối quan trọng để điều khiển phiến đá. Thế nhưng chiều dài của sợi dây da lừa có hạn, nên mới chỉ chạm tới phần ngoài cùng của hệ thống, vì thế chưa thể chắc chắn rằng phần kết cầu nằm sâu bên trong đó liệu có phức tạp hơn thế hay không?
Khi đã hiểu được cơ chế hoạt động của cỗ máy, tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều, tinh thần cũng lạc quan hơn. Tới giờ tôi mới chợt nhận ra bàn tay mình đang đau rát, phồng rộp lên do bỏng, thêm vào đó là cảm giác lạnh buốt khó có thể chịu nổi.
Tôi lập tức rút sợi dây da lừa ra đặt xuống mặt sàn, sợi dây từ từ co lại. Tôi vừa xoa tay cho ấm vừa kể lại những phát hiện mới cho Lão Ngũ và chị Giai Tuệ nghe.
Nghe tôi kể xong, Lão Ngũ lập tức vỗ đùi đánh đét rồi thốt lên một tiếng gọn lỏn “Tuyệt!”, lão nhấc bổng chị Giai Tuệ xoay vòng vòng trong lòng phiến đá chỉ rộng một mét vuông, sau khi nhìn ngang ngó dọc một hồi, lão hí hửng nói:
- Một thanh kim loại mà lại có chức năng điều khiển bốn phiến đá xung quanh à? Vậy có nghĩa mở được một thanh thì coi như đã phá được trận địa trong bốn phiến đá sao? Lan Lan, xử lí mấy cái thanh đó có dễ không?
Tôi vốn có cùng ý nghĩ với Lão Ngũ, nên lập tức gật đầu, giọng chắc nịch:
- Có vẻ cũng không khó lắm. Chỉ có điều sợi dây da lừa vừa lúc nãy hơi ngắn, để cháu đổi sang sợi dây dài hơn xem. Nếu được thì mình mở thanh đó trước.
Quyết định xong, tôi mới lấy ra một sợi dây da lừa màu đen giống với sợi dây cũ nhưng dài hơn, rồi ngắm thật chuẩn, từ từ đút sợi dây vào sâu bên trong lỗ khóa, chuẩn bị mở thanh kim loại đầu tiên.
Phần mũi thanh kim loại có bốn lưỡi móc, vì sợi dây da lừa khá dài nên tôi có thể dễ dàng cảm nhận rõ kết cấu nằm sâu bên trong. Dưới tác động lực của ngón tay giữa, tôi nhẹ nhàng gẩy hết những lưỡi móc trên đường rãnh trượt, rồi rung nhẹ để chúng trượt ra ngoài.
Bỗng tôi nghe thấy một âm thanh giòn giã vọng tới từ giữa phiến đá, thanh kim loại kia rung nhẹ, rồi lập tức dừng lại. Vậy là tôi đã thành công.
Thắng lợi ngay từ ban dầu khiến tôi thấy hào hứng hẳn lên, tiếp tục áp dụng phương thức đó mở nốt ba thanh còn lại. Chỉ đến khi những thanh kim loại kia bị tách rời, lơ lửng trượt giữa hai phiến đá, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm.
Lão Ngũ đứng ngay phía sau tôi quan sát, tỏ vẻ rất hài lòng, rồi giục tôi nhanh chóng mở nốt những thanh kim loại còn lại. Chị Giai Tuệ cũng rất hào hứng vì sắp được thoát khỏi cảnh tù túng trong phiến đá chật chội này.
Tôi gật đầu tán thành, nhưng khi vừa nhổm người đứng dậy thì đột nhiên có một âm thanh rất lớn dội từ phía trên đầu xuống, giống như tiếng sấm đánh bên tai.
Tôi chưa kịp định thần lại, thì những thanh kim loại vừa bị tôi vô hiệu hóa bỗng dưng xoay chuyển mỗi lúc một nhanh hơn, tia lửa xanh bỗng bùng lên dữ dội, bắn ra vô số những tàn lửa giống như những vì sao nhỏ bay tứ phía, một vài tàn lửa trong số đó lao thẳng về phía mặt tôi.
Tôi hốt hoảng buột miệng chửi thề rồi nhanh chóng né người ra sau, nên tàn lửa chỉ kịp sượt nhẹ qua má. Tôi đưa tay xoa mặt rồi thở phào nhẹ nhõm: May quá, không việc gì.
Trong lúc tôi đang mải xoa bên má bị lửa sượt qua, thì lại nghe thấy có tiếng lách cách vang tới. Cảm giác bất an dội vào lòng, tôi vội nhìn lại thật kĩ bốn thanh kim loại vừa mở, chúng đã ngừng xoay tròn, giờ chỉ còn hơi rung nhẹ. Nhưng tôi nhận thấy rõ ràng bốn lưỡi móc kia lại móc xuống bốn góc phiến đá.
Tôi thở dài chán nản, vậy là bao công sức đã đổ xuống sông xuống biển.
Thấy vẻ mặt tôi u ám khác thường, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ có lẽ cũng đoán ra việc phá cỗ máy kia đã thất bại, nên hỏi tôi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.
Tôi lắc đầu cười gượng:
- Cháu cũng không rõ lắm, lúc mở thì vẫn bình thường, nhưng chẳng hiểu sao rốt cuộc vẫn không được.
Tôi ngồi sụp xuống, nhìn chằm chằm vào thanh kim loại và cố hồi tưởng lại cảm giác trên các đầu ngón tay lúc đẩy sợi dây da lừa tới đầu bên kia của lõi khóa. Rõ ràng không có gì sai sót, tại sao chúng lại quay lại vị trí ban đầu?
Chợt có tiếng Lão Ngũ vọng lại từ sau lưng tôi:
- Lan Lan, mi không nghĩ rằng đây chính là một hệ đối số sao?
Lời gợi ý thật đúng lúc. Tôi bỗng nhớ lại có lần ông nội đã nói với tôi, các loại khóa cổ quái ngày xưa rất hay áp dụng phương pháp sắp xếp theo hệ đối số, và theo quy luật đó thì mắt xích quan trọng thường nằm ở vị trí trung tâm, còn các vị trí trên dưới trái phải sẽ tạo thành một hệ đối số. Liệu Thiên Cung Cách sát trận có phải được bố trí như vậy không? Nghĩ vậy tôi lập tức nhờ Lão Ngũ quan sát thật kỹ Trung cung gồm bao nhiêu phiến đá.
Sau một hồi tập trung đong đếm cẩn thận, Lão Ngũ khẳng định Trung cung là một hình lập phương, với tổng số các thanh kim loại theo chiều dọc và chiều ngang là vừa đúng một trăm linh chín phiến đá.
Nghe thấy vậy tôi lập tức hiểu ra vấn đề, với tổng cộng một trăm linh chín phiến đá tạo thành các ô vuông giao nhau như trên bàn cờ thì ô thứ năm mươi lăm chính là trung điểm của Trung cung, và chắc chắn một điều rằng bốn góc của phiến đá thứ năm mươi lăm đó cũng nối liền với bốn thanh kim loại, tôi nhất định phải mạo hiểm tới đó để mở bốn thanh này. Thế nhưng hiện giờ chúng tôi mới chỉ đứng ở phiến đá thứ bảy theo chiều dọc và thứ chín theo chiều ngang, vẫn còn cách phiến đá thứ năm mươi lăm một khoảng rất xa, để đi được tới đó quả là một vấn đề không hề đơn giản.
Tôi cắn chặt răng, quyết tâm ra tay xử lí những thanh kim loại phía trước, mở đường tiến tới vị trí trung tâm trên phiến đá thứ năm mươi lăm. Phải mất rất nhiều thời gian và công sức, cuối cùng tôi mới tới được vị trí đó. Bình tĩnh quan sát thêm một lần nữa trước khi ra tay, tôi phát hiện ra cỗ máy này được thiết kế theo một kết cấu rất chặt chẽs: Bốn đường biên của phiến đá đều vuông góc với nhau ứng với bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây. Bốn thanh kim loại lại cắm vuông góc tại bốn góc của phiến đá, ứng với tám hướng Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc. Để phá được thế trận trên bắt buộc phải cùng một lúc dùng tới bốn sợi dây da lừa, thế nhưng tôi lại chỉ có hai tay, biết mở thế nào đây?
Suy đi tính lại, cũng chỉ còn cách tiếp tục dùng đến lỗ sẹo trên khớp xương nối trong lòng bàn tay tôi, rồi chọc bốn sợi dây da lừa vào đó, lợi dụng lực của cả khớp xương để cùng lúc mở bốn thanh kim loại. Nhưng kế hoạch đó lại khiến tôi do dự, vì thực chất tôi đâu có khả năng đấy; hơn nữa, một lỗ khoan nhỏ như vậy làm sao có thể nhét được bốn sợi dây da lừa chứ, chẳng nhẽ lại phải khoan thêm ba lỗ nữa vào lòng bàn tay nữa sao?
Đắn đo một hồi lâu, tôi mới hạ quyết tâm tiếp tục thực hiện kế hoạch trên. Cùng lắm là chết ở đây là cùng chứ gì. Nghĩ là làm, tôi lấy ra một cây kim móc định nhờ Lão Ngũ chọc thêm ba lỗ nữa vào xương bàn tay. Nhưng tôi chợt cảm thấy lỗ sẹo trên lòng bàn tay phải bỗng dưng đau ngứa kì lạ, cảm giác như bên trong đó có thứ gì đó đang chuyển động. Bỗng một ý nghĩ táo bạo lướt qua đầu tôi, vậy là tôi đã có cách phá hủy Thiên Cung Cách sát trận này mà không cần phải tạo gây thêm thương tích cho bản thân.
Cát bay, cảm giác vừa rồi chính là hạt cát bay đang chuyển động bên trong lỗ sẹo. Vì cất giữ nó ở đó suốt mấy tiếng đồng hồ, lại thêm việc phải vắt óc suy nghĩ cách thoát thân nên tôi gần như đã quên bẵng sự hiện diện của nó, không ngờ lúc khó khăn nó lại gợi cho tôi một ý rất hay. Trước mắt, tôi đã nắm được những kĩ năng mở khóa ở cấp Địa Kiện, chỉ có điều sức vẫn còn hơi yếu, nếu có thể lợi dụng được tính năng tự chuyển động đặc biệt của cát bay, thì sau khi cắm bốn sợi dây da lừa vào lỗ sẹo kia rồi lợi dụng lực co bóp của những thớ thịt quanh đó kết hợp với lực chỉ đạo từ khớp xương nối, không khéo tôi có thể mở được liền một lúc bốn thanh kim loại kia cũng nên.
Tôi nhanh chóng sắp xếp từng bước hành động và đoan chắc phương pháp này rất khả quan. Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng ở phía xa quan sát, tuy không hiểu rõ ý đồ của tôi, nhưng hai người họ cũng đoán ra tôi đã tìm được cách mở khóa, nên vẫy tay ra hiệu cho tôi nhanh chóng giải quyết, Lão Ngũ hét lớn:
- Lan Lan, nhanh chóng xử lí bốn thanh đó đi, cần gì thì bọn ta ở đây sẽ hỗ trợ.
Tôi cảm thấy vững tin hơn hẳn, nhẹ nhàng lấy trong bọc kim ra bốn sợi dây da lừa dài nhất, lần lượt luồn vào bốn lỗ khóa ở mũi bốn thanh kim loại, đầu còn lại thì kẹp chặt giữa các ngón tay. Tôi nhẹ nhàng bóc miếng urgo đang bịt miệng lỗ sẹo ra, rồi nhanh chóng nhét bốn đầu dây vào bên trong. Qua hệ thống dây thần kinh nhạy cảm, tôi lập tức cảm nhận rất rõ sự hoạt động mạnh mẽ của hạt cát bay tác động lên đầu bốn sợi dây da lừa khiến chúng cũng khẽ chuyển mình theo. Tôi mừng rỡ khôn xiết vì biết rằng cách này chắc chắn có hiệu quả, đúng là ông trời đã phù hộ, ba hạt cát bay vô tình lưu lại trên người chị Giai Tuệ giờ đây lại có thể cứu mạng ba người chúng tôi.
Tôi vội ngồi khoanh chân giữa phiến đá, rồi từ từ nâng bàn tay phải lên trước ngực, để bốn sợi dây da lừa chĩa về bốn hướng. Sau khi đã ổn định vị trí, tôi mới từ từ cụp năm ngón tay lại, cố tình ép chặt những thớ thịt trong lòng bàn tay với mục đích đẩy sợi dây chọc sâu vào tận đáy lỗ sẹo.
Bốn sợi dây da lừa giống như bốn con hắc xà nhỏ xíu, đang không ngừng uốn éo luồn sâu vào bên trong lỗ khóa. Đầu dây bên trong lỗ sẹo cũng không ngừng cọ xát lên thành lỗ, khiến khớp xương của tôi ngứa ngáy vô cùng, nhưng tôi vẫn phải nén chịu, cố gắng đưa bàn tay trái sang nắm chặt lấy cổ tay phải, hợp sức điều khiển các sợi dây tiến tới vị trí nơi các lưỡi móc nhỏ trên rãnh trượt trong thanh kim loại đang móc chặt vào phiến đá. Bỗng có tiếng “bục” khe khẽ vang lên, bốn sợi dây da lừa tự động duỗi ra thẳng tắp, tần số hoạt động trở nên đồng nhất, bắt đầu những bước mở khóa vô cùng phức tạp.
Hạt cát bay bên trong lỗ sẹo như cũng hiểu ý của tôi, nó chuyển động mỗi lúc một nhanh hơn, khiến những sợi dây da lừa cũng theo đó mà di chuyển mạnh hơn, cảm giác như muốn bật tung ra ngoài. Tôi lập tức dùng những đầu ngón tay ép chặt lên thớ thịt trong lòng bàn tay xung quanh miệng lỗ sẹo để không cho những sợi dây đó tuột ra. Những lưỡi móc dần dần cũng bị gỡ ra khỏi phiến đá, sợi dây mỗi lúc lại di chuyển sâu vào trong lõi thanh kim loại, khiến lực tác động càng mạnh hơn.
Lực căng ở hai đầu dây da lừa đang không ngừng tăng lên khiến cho sợi dây cứa mạnh vào các thớ thịt trong lòng bàn tay tôi, những giọt máu đỏ tươi cứ thế túa ra chảy thành dòng xuống mặt sàn đá. Cảm giác đau đớn do bị mất nhiều máu khiến tôi nhiều lần như muốn ngất đi, rất muốn buông tay ra; thế nhưng tôi không thể làm thế, để tìm ra ông nội, để có thể thoát ra khỏi đây, tôi bắt buộc phải chịu đựng. Tôi cắn chặt răng, cố nén nỗi đau đang hành hạ thể xác để tập trung toàn lực vào việc mở bằng được cỗ máy này.
Cuối cùng, bốn sợi dây da lừa xoắn chặt lại với nhau, lực xoắn mạnh đến nỗi khiến cả người tôi cũng muốn lăn theo. Để hãm lại, tôi liền nằm xuống sàn, hai chân bắt chéo trên không trung, hai đầu gối kẹp chặt lấy khuỷu tay phải, rồi vòng cánh tay trái ôm chặt lấy hai chân, cả người co tròn lại. Mặc dù đã dùng hết sức mình, nhưng lực kéo của những thanh kim loại kia vẫn quá lớn, chúng kéo tôi lăn tròn trên sàn đá chừng hơn chục vòng, sống lưng tôi bị đập mạnh xuống mặt sàn đau nhức vô cùng, cả người trầy trụa cũng không ít.
Lực xoay mỗi lúc một tăng nhanh hơn, cho tới khi tôi không đếm xuể mình đã bị quay như vậy bao nhiêu vòng. Tôi lập tức nhắm chặt mắt lại, đầu óc quay cuồng choáng váng, lục phủ ngũ tạn cũng bị đảo lộn, sống lưng từ đau nhức chuyển sang tê dại.
Đang lúc định thả tay bỏ cuộc thì tôi bỗng cảm thấy lực trong lòng bàn tay giảm dần. Bốn sợi dây da lừa cũng nhanh chóng co rút lại, rời khỏi thanh kim loại rồi trở lại trạng thái mềm dẻo ban đầu trước khi rơi xuống người tôi. Toàn thân tôi vẫn theo quán tính lăn thêm vài vòng nữa rồi mới dừng lại hẳn.
Tôi thở dốc, lẩy bẩy chống tay lên sàn gượng ngồi dậy, lắc nhẹ đầu để định thần lại, chân tay vẫn chưa hết tê mỏi thì bên tai lại nghe thấy một hồi âm thanh lớn từ dưới đất vang lên, phiến đá ngay dưới chân tôi rung bần bật. Tôi nhanh chóng ngẩng đầu lên quan sát bốn góc xung quanh thì thấy bốn thanh kim loại đang từ từ rời khỏi phiến đá, bốn lưỡi móc nhỏ xíu cũng đang dần co lại.
Thành công rồi, chắc chắn lần này tôi đã thành công rồi. Tôi vui sướng hét toáng lên, quên bẵng sự đau đớn đang giày vò thân thể yếu ớt, hai tay chống lên mặt sàn, quỳ gối cố nghểnh ra nhìn về phía đằng xa.
Đột nhiên, tôi thấy trước mắt tối sầm lại, thì ra tia lửa xanh trên bốn thanh kim loại kia đã tắt từ lâu. Ngay sau đó, bốn phía xung quanh cũng tối dần đi bởi các thanh kim loại còn lại cũng bị tắt ngóm theo trình tự từ chỗ tôi ngồi kéo dài ra phía đằng xa.
Sau đó, từng thanh kim loại được kéo lên trên, khiến cả không gian căn hầm đột nhiên vang những tiếng lạo xạo giống như tiếng cát rơi trên nền đá.
Tôi như mở cờ trong bụng, cuối cùng công sức của mình bỏ ra cũng được đền đáp, không những mở được Thiên Cung Cách sát trận mà còn khám phá ra đặc tính của những hạt cát bay.
Không gian bốn phía đen kịt, những tiếng lạo xạo vẫn không ngừng vang lên, xem ra những thanh kim loại vẫn đang được kéo lên tít trên kia.
Trong lúc lâng lâng vui sướng, tôi chợt rùng mình bất an, run rẩy nhìn về phía Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đang đứng lúc nãy nhưng vẫn chỉ là màn đêm tối đen như mực. Hai người đã mất tích từ bao giờ.