HỒI 86
Minh đầu đến minh đầu đánh, ám đầu đến ám đầu đánh

     êm hôm đó, trước khi đi tới “rừng đen”, Tam Cô đại sư nói với mọi người:
- Mọi người cẩn thận, nơi này rất tối, lão nạp mở đường cho chư vị, nhưng vẫn xin lưu ý trước mặt.
Lương A Ngưu nghe vậy liền lầu bầu:
- Cái gì lưu ý trước mặt, chúng ta cả tám trăm dặm đều lo lắng đề phòng, một cái rừng đen có là gì.
Ôn Nhu cũng theo ánh trăng chỉ về phía xa, cười hỏi:
- Rừng đen, là một mảng rừng rậm lớn phía trước sườn núi kia sao? Có vẻ hơi dày đặc, thoạt nhìn cũng không có gì. Chúng ta núi đao biển lửa cũng đã xông qua, cũng không cảm thấy đao quá sắc, lửa quá nóng, cánh rừng đen này cũng không thể nhuộm người sáng láng thành bồ đề đen chứ.
Nói xong liền cười lên yêu kiều.
Tam Cô đại sư biết bọn họ cũng không thèm để ý, liền nói:
- Lão nạp vẫn khuyên chư vị cẩn thận là hơn.
Tuổi tác của y không lớn lắm, còn chưa biết là nam hay nữ, lại thường thích tự xưng là “lão nạp”. Mọi người đều rất không đồng ý cái danh hiệu này của y.
Vương Tiểu Thạch thấy thế liền cười nói:
- Tại khu vực này “rừng đen” cũng có chút tiếng tăm, ở trên giang hồ cũng có thành tựu.
Phương Hận Thiếu cũng nghe được một số tin đồn, vì vậy phối hợp với đề tài của Vương Tiểu Thạch, nói:
- Đúng, từng có không ít nhân vật nổi tiếng trong võ lâm ngã xuống ở đây.
Ôn Nhu vẫn không lưu tâm, chỉ ngạc nhiên hỏi:
- Rắn sâu chuột kiến, độc vật mãnh thú trong rừng này lợi hại như vậy sao?
Vương Tiểu Thạch nói:
- Nơi này địa hình kỳ quái, nơi ao đầm chướng khí rất nặng, không cẩn thận rất dễ sa chân, không thể không đề phòng. Hơn nữa trong rừng này mỗi cây mỗi lá, mỗi cọng cỏ, mỗi hòn đá đều có màu đen, bùn cũng màu đen, cây dày và đặc, rắc rối phức tạp, đường xá khó phân. Buổi tối vào rừng, lần mò trong đêm, có thể nói là đưa tay không thấy năm ngón, phải cẩn thận bị người khác thừa cơ hội.
Lương A Ngưu vẫn không để trong lòng:
- Hoàn cảnh hiểm ác, ai chưa từng qua? Một cánh rừng, bà nội nó nhiều nhất chỉ có thể biến ra một đám ma quỷ. Họ Lương ta còn muốn bắt quỷ đây.
Nói đến chuyện ma quỷ, Ôn Nhu lại có vẻ biến sắc.
Nàng không sợ trời, không sợ đất, nhưng sợ nhất là chuyện về ma quỷ và cái từ quỷ này.
Vì vậy nàng lại bắt đầu oán trách:
- Nếu nơi này có nguy hiểm, sao phải buổi tối mới vào rừng? Trời sáng ban ngày, không phải bình an hơn sao. Đây không phải là rãnh rỗi không chuyện gì, tự mình tìm khổ sao.
Vương Tiểu Thạch khéo léo nói:
- Cô có điều không biết. Nơi này nếu đi qua vào ban ngày, mặt trời vừa chiếu, khí trời chuyển nóng, chướng khí sẽ mạnh, độc khí mờ mịt. Có lẽ ngoại trừ ma núi, cương thi không hô hấp, không ai có thể qua được cánh rừng lớn như thế này. Cho nên không chờ đến ban đêm thì thật sự không qua nổi khu rừng này.
Vương Tiểu Thạch vừa nhắc tới ma núi, cương thi, Ôn Nhu vừa nhíu mày vừa nhăn mặt, giậm chân cắn môi nói:
- Bảo ngươi đừng nhắc tới cái đó… cái đó, ngươi còn nói!
Vương Tiểu Thạch cười bồi nói:
- Tam Khô đại sư muốn vào rừng buổi tối, cũng là do bất đắc dĩ, muốn tốt cho mọi người, mọi người vẫn nên cẩn thận một chút thì hơn. Ta thấy mấy ngày qua y lúc đi lúc dừng, lúc chậm lúc nhanh, có lúc ngày đêm đi gấp, có lúc ngày nghỉ đêm đi, chính là muốn chọn thời cơ tốt nhất vượt qua mấy cửa khẩu quan trọng này.
Tam Khô nghe vậy liền nhìn Vương Tiểu Thạch một cái, trong mắt có lòng biết ơn vô hạn.
Y biết y không uổng công, bởi vì dù sao cũng có người hiểu rõ nỗi khổ tâm của y.
Vương Tiểu Thạch cũng sâu sắc nhìn Tam Khô một cái, trong mắt cũng có ý cảm tạ không nói hết.
Hắn hiểu rõ tất cả mọi thứ đối phương làm cho bọn họ, thậm chí biết không thể dùng lời cảm ơn để biểu đạt.
Hai người khẽ gật đầu, giống như vái chào.
Ôn Nhu lại nhìn không vừa mắt.
Nàng hậm hực nói:
- Quỷ thì quỷ, âm thì âm, cái gì rừng đen hay không rừng đen, Ôn Nhu ta tay chân cứng tay cứng xông qua cửa ải của nó, không cần liếc ngang liếc dọc.
Tam Khô vội nói:
- Trên đường chúng ta dừng dừng đi đi, quả thật là phải chọn đúng thời cơ, đi qua bốn cửa ải lớn phía trước. “Rừng đen” chính là cửa thứ nhất. Ta chọn tối nay có ánh trăng chiếu sáng, thừa dịp này vượt qua, có thể đề phòng trong tối có biến. Đáng tiếc trời có gió mây bất trắc, tối nay gió lớn, mây dày nổi lên, chỉ sợ mây trôi che trăng, đây là chuyện không ai có thể dự đoán được. Lúc có ánh trăng dễ đi một chút, lúc không có ánh trăng chỉ có xông xáo. Tốt nhất mọi người nên nối đuôi nhau mà đi, đầu đuôi phối hợp, để Đường cự hiệp đi chính giữa.
Mọi người thấy y nói rất nghiêm túc, cũng không dám xem thường.
Bọn họ do Tam Khô đại sư mở đường, Vương Tiểu Thạch đoạn hậu, Đường Thất Muội và Lương A Ngưu một trước một sau kèm Đường Bảo Ngưu ở giữa.
Đường Bảo Ngưu cũng lặng lẽ đi ở chính giữa đoàn người này.
Nếu đổi lại là ngày thường, hắn nhất định sẽ cho rằng để hắn đi ở giữa là được người khác bảo vệ, là sỉ nhục lớn lao, là khinh thường năng lực của hắn, hắn tuyệt đối sẽ không chấp nhận.
Hắn hiện nay lại không kêu một tiếng, không nói lời nào, chỉ đi theo mọi người.
Hắn là nhẫn nhục chịu đựng?
Hay là không tranh khí thế?
Hay là căn bản không có cảm giác, đã mất đi cảm giác?
Một đại hán dũng mãnh như thiên thần, hiện nay lại thường lặng lẽ rơi lệ, tâm thần chán nản, rốt cuộc là mất đi đấu chí, hay là không còn tình cảm?
Trăng chiếu xuống đầu.
Rừng đen dưới ánh trăng đặc biệt sáng.
Nhưng nếu một người trong lòng uất ức, âm u, trăng có sáng, trời có sáng, cũng chiếu không vào đầm sâu không đáy trong lòng hắn.
Không phải sao?
- Không phải sao?
Ôn Nhu phát hiện, trong rừng mặc dù từng cọng cây ngọn cỏ đều có màu đen, nhưng bởi vì luôn có ánh trăng từ giữa lá giữa cây chiếu vào, đi lại trong lòng cũng bình yên hơn nhiều, liền nói:
- Nơi này cũng chẳng có gì mà.
Phương Hận Thiếu cố ý hỏi nàng:
- Không có cái gì?
Ôn Nhu liền dứt khoát nói ra hết:
- Không hề đáng sợ chút nào, ta còn tưởng là địa phủ minh cung gì chứ, hóa ra chỉ là một cánh rừng hơi tối một chút.
Nàng nói đến đây, chợt nghe cú đêm hay là thứ gì kêu lên mấy tiếng, còn có thứ gì dùng sức vỗ cánh hay ngực, hơn nữa còn lướt qua giữa mấy gốc cây phía sau nàng, phát ra một tiếng “vèo”. Trong một lùm cỏ dày trước người không xa còn vang lên mấy tiếng rên rỉ giống như người sắp chết kêu gào.
Ôn Nhu nghe được mặt mày thất sắc, cũng không nói chuyện nữa. Chỉ nghe Tam Khô đại sư ở phía trước vẫn đang nói:
- Lưu ý dưới chân, chú ý trước mặt.
Ôn Nhu bị dọa đến trong lòng rộn ràng như nai đạp, chỉ mong sao không để ý đến thứ gì thì tốt hơn. Lúc đầu nàng cảm thấy mình càng đi càng nhanh, nhưng đến chỗ cánh rừng hơi có khoảng trống, vừa nhìn mới biết, hóa ra không phải mình đi nhanh, mà là trăng đi nhanh; lại đi thêm một đoạn, lúc này lại giác ngộ cũng không phải trăng đi nhanh, mà là đám mây theo gió lang thang cuồn cuộn bay nhanh.
Lần này mới hiểu rõ dụng ý của Tam Khô đại sư khi chọn buổi tối có có ánh trăng chiếu khắp để đi qua khi rừng rậm này, nếu là mùng một đến mùng năm, hoàn cảnh hiểm ác, muốn vượt qua cánh rừng này e rằng không phải là chuyện dễ dàng.
Có điều hiện giờ đã đi hơn một nửa cánh rừng, trông thấy không hung không hiểm, nhưng cái đám bằng hữu ham ăn biếng làm đáng ghét nhất thế gian bên cạnh mình, ngày thường luôn nói mình nhát gan, lần này phải uy phong một chút cho bọn hắn xem thử, mới coi như không uổng cái danh hiệu “Ôn nữ hiệp” này.
Làm sao để uy phong?
Phải tìm một người dọa cho hắn hết hồn mới được!
Ôn Nhu nghĩ tới đây, người đầu tiên nghĩ đến dĩ nhiên không ai khác ngoài La Bạch Ái.
Hà hà hà hà hà, La Bặc Cao, xem bản cô nương lần này không dọa chết ngươi cũng phải dọa cho ngươi đái ra quần mới được!
Do đó nàng khẽ nhón chân, lặng lẽ rời đội đi về phía trước, nhẹ nhàng bước đến phía sau La Bạch Ái, dùng sức vỗ vào cánh tay hắn, hét cuộc cũng không đắc thủ, chúng ta cần gì phải giết người?
Lương A Ngưu vẫn không cam lòng:
- Chẳng lẽ phải chờ đến khi bọn chúng đắc thủ giết người của chúng ta rồi mới đánh trả? Ông là người xuất gia, kiêng sát sinh, còn họ Lương ta từ trước đến nay một ngày giết bảy người tám người không nháy mắt, giết bảy mươi tám mươi người không đỏ mắt, giết bảy tám trăm người cũng không nương tay.
Tam Khô chỉ khuyên nhủ:
- Nếu như bọn họ không sợ, không thay đổi, không biết hối cải, sớm muộn gì cũng sẽ trở lại tập kích, khi đó lại giết cũng không muộn, không cần vội vã nhất thời. Cứu người cần nhanh, không nhanh thì không cứu được người; giết người cần chậm, chậm có thể tha thêm một mạng.
Lương A Ngưu khí như chưa tiêu, lửa còn đang cháy:
- Tha cho loại tạp chủng rác rưởi này? Lại để bọn chúng đi hại người sao!
Tam Khô không nhịn được nhíu mày một cái, chỉ nói:
- A Di Đà Phật, chúng ta cũng không thể vì vậy mà danh chính ngôn thuận hại mạng người trước.
Đôi sừng trâu trên tay Lương A Ngưu ma sát một cái, lại phát ra tia lửa. Hóa ta hắn lại khảm lưỡi dao vào bên cạnh sừng trâu, có lẽ là ngại sừng trâu không đủ sắc đủ bén, chỉ sợ đâm xuống người không chết được?
Vương Tiểu Thạch cố ý chuyển đề tài của hắn:
- Binh khí này của ngươi thật đặc biệt, trên giang hồ trừ ngươi ra không ai có thể dùng xứng tay, chẳng những là kỳ môn binh khí, còn là vũ khí ít được chú ý.
Lương A Ngưu nhìn sừng trâu trên tay mình một chút, miệng rộng khép mở mấy cái, nhất thời lại nói không nên lời.
Hà Tiểu Hà hừ một tiếng nói:
- Đó là bảo bối của hắn. Nhà hắn có một con trâu, nuôi mấy chục năm, có cảm tình sâu đậm. Lúc nó chết đi, hắn còn thương tâm hơn so với lão bà chết, từ đó cũng không ăn thịt trâu nữa, còn cắt sừng trâu xuống làm binh khí để dùng, dùng nó giết người, lỡ may không đánh lại, vì tình cảm cũng sẽ dùng nó để tự sát.
Lương A Ngưu có phần cảm kích nhìn Hà Tiểu Hà, nói:
- Nó là con trâu già nhà ta nuôi, ta gọi nó là “A Trung”. Lương gia ta ba đời đều nhìn nó lớn lên, già nua, cuối cùng chết đi. Nó cúc cung tận tụy, đã thông tính người. Nó còn trung hơn cả nô bộc trung thành. Nó chết rồi, ta giữ lại một đôi sừng trâu của nó, đời này đều theo ta sống chết. Có cảm tình mấy chục năm, đó là cắt không đứt, bỏ không được. Con người liệu có mấy lần mấy chục năm? Ngoài ra còn có một chiếc sừng khác, đó là kỷ niệm lần gặp phải một con tê ngưu (tê giác) bệnh chết. Không tới giây phút sống chết, ta sẽ không dùng đến nó. Kỳ quái, ta gọi là A Ngưu, ta thuộc trâu, làm bạn với ta là con trâu, lúc nhỏ cũng ở cũng ở tại Ngưu Giác Đầu, gặp phải một con tê giác có linh tính, binh khí là sừng trâu, tính khí cũng rất trâu.
Hắn lại nói sang chuyện khác, trở về chủ đề căm phẫn bất bình:
- Sừng trâu của ta đã rút ra nơi tay, không dính máu thì không trở về. Nó đã rất lâu không uống máu của kẻ địch rồi.
- Vậy thì dễ.
Tam Khô nhân lúc có ánh trăng dẫn đường cho mọi người, vừa đi vừa trò chuyện đã ung dung ra khỏi khu rừng rậm, cũng không gặp ám toán phục kích nữa:
- Để ta cho nó uống chút máu đi!
Nói xong lại vén cao tay áo trái của mình, ngón tay phải nhỏ vung lên, vạch ra một đường tơ máu. Tam Khô dùng ngón tay ấn vào vết thương, khiến cho máu bắn vào trên sừng trâu nhọn. Chợt nghe một tiếng “xèo”, còn bốc lên một làn khói xanh biếc, sừng trâu kia thật sự giống như hút máu. Tam Khô ôn hòa nói:
- Như vậy, nó đã uống máu, ngươi cũng sẽ không canh cánh trong lòng nữa chứ?
Lương A Ngưu không ngờ Tam Khô đại sư lại dùng máu của mình để cho binh khí uống máu, nhất thời ngẩn ra, chỉ nói:
- Chuyện này… nó có khát cũng không uống máu của người mình. Đại sư sao lại khổ như thế chứ!
Tam Khô ngước mắt lên, hòa nhã hỏi ngược lại:
- Máu của người mình và máu của kẻ địch, không phải đều là người, đều là máu sao?
Lương A Ngưu chỉ nói:
- Ta chỉ là trong lòng bốc lửa, muốn giết người để trút giận.
Tam Khô ngưng mắt ôn hòa nói:
- Vậy bây giờ lửa trong lòng ngươi đã dập tắt hay chưa?
Hà Tiểu Hà lại miệt thị:
- Chỉ là trong lòng tức giận, lại thổi cái gì da trâu (nói mạnh miệng, nói khoác), nói cái gì sừng trâu vừa rút ra, không dính máu thì không trở về. Ngày đó bên ao sen của chùa Lục Long, không phải ngươi cũng rút sừng trâu ra, còn chưa dính giọt máu nào đã thu về sao.
Bởi vì Tam Khô nhỏ máu, Lương A Ngưu vốn đã hết giận bảy tám phần, nghe Hà Tiểu Hà trách móc như vậy, trên mặt lại lúc xanh lúc trắng, tức giận nói không nên lời.
Lúc này Phương Hận Thiếu lại đính chính:
- Cô đây là không nghiên cứu sâu rồi. Tục ngữ có nói “văn nhân nói đại thoại, vũ phu thổi đại khí”, có lúc vì tự lên tinh thần, tự trọng bản thân, nói ra mấy câu hào sảng phóng khoáng, chẳng hạn như “ta đây không giết hạng người vô danh”, “đao vừa ra tay, bách phát bách trúng”, “lão phu tung hoành giang hồ bốn mươi năm, chưa gặp được địch thủ”, “ta sẽ khiến cho ngươi hối hận vì sao mẹ ngươi lại sinh ngươi ra”, khó tránh khỏi xuất khẩu thành chương, nói cũng bất giác khoa trương, không nói thì thật sự giống như thiếu đi thứ gì đó.
Hà Tiểu Hà hung dữ nhìn chằm chằm vào Phương Hận Thiếu:
- Ta không nói ngươi, ngươi lại tới xen vào!
Phương Hận Thiếu le lưỡi một cái, đột nhiên mở quạt xếp che mặt, nói:
- Đúng đúng đúng, ta nhiều lời rồi, nói nhiều rồi, nhiều chuyện rồi, ngày mai lúc cắt tóc cắt luôn cả lưỡi. Đại sư, ông còn đang chảy máu, sao không dùng thuốc kim sang cầm máu.
Hà Tiểu Hà vẫn nhìn chằm chằm vào Phương Hận Thiếu:
- Ngươi thì tốt đến đâu? Văn nhân luôn thích ngâm thơ đối đáp, xuyên tạc chơi chữ, có tác dụng quái gì? Vì giết địch, viết mấy chữ là có thể khiến ngựa của người Hồ không qua được núi Âm (1) sao? Vì dân trừ hại, cầm một cây bút là có thể giáo huấn cường đạo ngang ngược sao? Doanh lợi còn có thể nâng cao dân sinh, lao động cũng có thể xúc tiến lợi nhuận, loại văn nhân như ngươi ngoại trừ xổ nho, cười lạnh, kế này mưu nọ, lại không dám đao sáng, thương sáng, quang minh chính đại đi tranh danh đoạt lợi, xem là nhân vật gì? Lại tới phê bình ta, đạp gót chân của ta à!
Lần này Phương Hận Thiếu đã đụng phải miệng núi lửa, chỉ le lưỡi nói:
- Không dám, không dám.
Hắn lại kêu ầm ĩ:
- Đại sư, đại sư, mau băng bó vết thương đi! Ba trăm bữa cơm mới tích trữ được bốn giọt máu, nhất định đừng để hao tổn, chảy uổng phí!
Hà Tiểu Hà vẫn thở hổn hển nói:
- Đồ nhát gan! Thư sinh chết tiệt! Đã tìm tới Lão Thiên Gia ta, lại không dám nói tiếp, coi là thứ gì!
Phương Hận Thiếu đột nhiên lộn một cái, lại nhịn xuống, chỉ lầu bầu nói với Ban Sư:
- Chỉ có tiểu nhân và nữ nhân là khó nuôi! Chỉ có tiểu nhân và nữ nhân là khó nuôi!
Ban Sư thấy trường diện này nói năng bốp chát, nào dám lên tiếng, còn lui lại gần nửa bước.
Nhưng lời nói của Phương Hận Thiếu vẫn bị Hà Tiểu Hà nghe được, lại quay sang hắn trách mắng:
- Cái gì tiểu nhân và nữ nhân khó nuôi, nuôi cái đầu ngươi! Nam nhân các ngươi thì dễ nuôi rồi, lo ăn, còn phải lo uống, ăn uống no say lại muốn nằm. Nam nhân các ngươi và trâu chó có gì khác nhau, chẳng lẽ dễ nuôi? Cho cỏ không ăn, buổi tối còn không biết sủa!
Lương A Ngưu chợt quát lên:
- Đừng mắng trâu! Cô mắng cái khác ta không quan tâm, nhưng đừng mắng trâu!
Hà Tiểu Hà đáp lại một câu:
- Ta cũng biết trâu là cấm kị của ngươi, nhưng ta không kiêng kị cái này. Ngươi không cho nói, ta cứ nói, ngươi làm gì được ta thì làm, không làm gì được thì ta vẫn là Hà Tiểu Hà!
Nàng là một cô gái, liên tục đốt lửa hai nơi, nhưng vẫn thế gió không giảm, thấy trận mắng trận, khắp nơi thêm dầu.
Phương Hận Thiếu chỉ mong sao tìm được nguồn nước khác để dập tắt lửa, hắn quen xướng họa cùng Đường Bảo Ngưu, nhìn thấy liền nói:
- Chúng ta không quản A Ngưu, chỉ hỏi Bảo Ngưu ngươi một câu. Vừa rồi Ôn Nhu ở bên cạnh ngươi trúng bẫy, sao ngươi không ra tay cứu giúp. Ngươi khoanh tay không để ý tới, vậy không đáng làm hiệp sĩ, cũng không đáng làm người.
Thần sắc Đường Bảo Ngưu vẫn đờ đẫn, nhưng rất nhanh lại có phản ứng, trả lời:
- Ta cứu người? Ngay cả bản thân ta cũng không cứu được, chỉ sẽ hại người. Ta không muốn hại cả Ôn Nhu. Ta cứu người nào thì sẽ hại người đó.
Hắn dù đang trả lời, thần sắc vẫn thẫn thờ như trước. Nếu nói có biểu tình, cũng chỉ là trong thẫn thờ mang theo một chút chế nhạo, nhìn vào càng khiến người ta lạnh đi.
Phương Hận Thiếu chỉ là nhiều năm qua náo loạn với Đư người, sau người, trái người, phải người đều có mấy điểm đen bóng đen, giống như yêu mị trong đêm tối nhìn chằm chằm vào đại sư vung vẩy phương tiện sạn này. Ôn Nhu chỉ liếc mắt nhìn, liền phát hiện mấy cái bóng đen đáng sợ kia chính là “sự vật” vừa rồi dính lấy mình, mặc dù nàng còn không biết vừa rồi đã xảy ra chuyện gì, hiện giờ rốt cuộc là chuyện gì xảy ra?

Chú thích:

(1) Ý của câu này muốn nói, khi ý niệm của thanh minh xuất hiện, ta sẽ đoạt quán chiếu của thanh minh, không lưu vết tích. Nếu phát giác được vô niệm, ta cũng đoạt giác tri của vô niệm này. Liên giá là một công cụ dùng để tuốt lúa thời xưa, ý là hễ có phát hiện tác ý vết tích nhỏ bé của tâm niệm, đều khiến nó rơi ra, cho đến vô tướng.
Quán chiếu (Contemplation) không khác mấy đối với sự tập trung, mặc dù nó là sự tập trung, nhưng ở đây sự chú tâm của hành giả thật kiên cố và chặt chẽ. Do đó, quán chiếu là giai đoạn phát triển toàn diện của sự tập trung. Quán chiếu mở lối cho trí tuệ trực giác và nhiều năng lực siêu nhiên khác mà người ta thường gọi là những năng lực huyền bí, và chúng ta có thể đạt đến những năng lực này ngay cả trước khi đạt đến trạng thái Niết Bàn.
Giác tri là một loại thể nghiệm, hoàn toàn tập trung sự chú ý vào những kích thích bên trong và bên ngoài cá thể vào giây phút này.
Tác ý (manasikara) là chủ động ý chí khi tiếp chạm đối tượng. Ví dụ khi thấy sự ác, mình chủ động ý chí loại trừ nó ra khỏi tâm trí. Vì việc diệt niệm ác khởi lên trong tâm thuận theo giáo lý của Đức Phật, thuận theo sự tiến hóa tâm linh đưa đến giải thoát nên gọi là “như lý tác ý” hay “theo lý tác ý” cũng được. Ngược lại chấp nhận niệm ác để nó tồn tại và giúp nó phát triển thì gọi là “phi như lý tác ý”.