Dịch giả: Lê Thành
Chương 11

     ắm lấy sợi dây câu, tôi giật ba cái. Tiếng máy ca-nô ngưng lại và ngước mắt lên, tôi thấy cánh quạt của nó chậm dần trước khi dừng hẳn. Đà của ca-nô kéo tôi về phía bên trên boong tàu Dona Lucia. Tôi buông sợi cáp để lặn xuống sâu hơn.
Tựa một chiếc lá vàng, tôi nhẹ nhàng hạ xuống trên một lớp rong nhơn nhớt. Nhưng rồi, trong khi mò tìm một điểm tựa, hai bàn tay tôi đã bị cào xước bởi những cành san hô và vỏ ốc. Rút cây dao ra khỏi túi đeo, tôi hăm hở cạo một mảng nhỏ của boong tàu để có thể trông thấy một lớp ván.
Không quan tâm đến những đàn cá hoảng sợ đang toán loạn bơi ra xa, tôi bám theo mặt phẳng nghiêng nghiêng và thỉnh thoảng dừng lại để cạo mạnh tàu mục, bị phủ kín bởi rong biển sau hai thế kỷ. Ở lưng sườn dốc có một cái hố vuông bao quanh bởi lớp rong biển màu nâu đỏ. Tôi liếc mắt nhìn rồi vội vã lùi lại, bỗng dưng cảm thấy khiếp đảm trước cái họng đen ngòm đó. Vì không ngờ mình có thể nhanh chóng phát hiện con tàu nên tôi đã không mang theo cây đèn bấm. Nhưng tôi không cần phải vội vã vì chúng tôi có đủ thời gian để tìm kiếm những gì mà chiếc Dona Lucia đã mang theo trong lòng nó.
Ở phía trên sườn dốc là một mặt bằng và trên nó cũng là một mặt bằng nữa, nhưng nhỏ và hẹp hơn. Trên đỉnh cái vách núi bằng phẳng có một cấu trúc nhỏ, hẳn là một hình trang trí của khối nhô lên trên đáy biển này.
Như thế là tôi đã gặt hái thành công và tôi muốn chia sẻ nó với một người bạn. Tôi giật bốn cái vào sợi dây câu và chỉ năm phút sau, Johnny xuất hiện, lao trên tay.
Tôi huơ tay múa chân khi trông thấy Johnny và trước thái độ đó của tôi, anh chắp hai tay lên đầu, cười toét miệng. Rồi tiến đến bên tôi, anh xiết mạnh vai tôi. Tôi thấy mắt Johnny trợn tròn kinh ngạc. Cuối cùng, Johnny quẫy mạnh chân để trồi lên mặt nước sau khi ra hiệu cho tôi theo anh.
Pat và Johnny kéo tôi lên ca-nô. Một phút sau, chúng tôi gào thét, cười nó sung sướng và mừng rỡ vỗ mạnh vào vai nhau.
Rồi Johnny nhắc nhở:
- Chúng ta nên lấy điểm móc và đặt cọc tiêu để sau này khỏi mất công tìm kiếm.
- Đúng đấy, Johnny. Trước mắt, chúng ta có khá nhiều công việc để làm vì thế ta không nên phải mất thì giờ khi buộc phải lần theo mỏm đá ngầm để tìm kiếm con tàu.
Chúng tôi thực hiện phép đo tam giác bằng cách hướng khoang mũi về phía gốc đại thụ ở đảo và khoang sau về phía vùng đá lô nhô mà Pat gọi là Đầu-Dê. Chúng tôi kiểm tra các điểm móc bằng cách cho ca-nô làm một vòng cung rộng để sau đó trở lại điểm mốc mà tôi đã lặn. Cuối cùng, chúng tôi thả một phao tiêu bằng thủy tinh xuống trên vùng có con tàu Dona Lucia.
Tôi tỏ ý muốn lặn tiếp sau khi ăn trưa, nhưng Johnny phản đối.
Anh nói:
- Hôm nay như thế là đủ rồi, Renboss.
- Cậu đùa với tôi ư, Johnny? Chúng ta còn cả buổi chiều.
Bằng giọng điềm tĩnh, Pat Mitchell xen vào:
- Renn à, Johnny nói phải đấy. Chỉ nội sáng nay, anh đã phát hiện điều mà anh có thể phải mất rất nhiều tuần. Vả lại, chiều nay anh tính lặn xuống dưới để làm gì chứ?
- Tôi nôn nóng muốn nhìn xem những gì có trong khoang tàu.
Johnny nói, giọng bình thản:
- Chúng ta không mang theo đèn bấm. Hơn nữa, tôi có thể nói ngay cho ông về những gì ông có thể tìm thấy trong con tàu Dona Lucia.
- Những hòm chứa đầy tiền vàng chứ gì?
- Không Renboss, ông đã lầm to.
- Lầm ư? Vậy theo anh, tôi sẽ tìm thấy gì?
- Ông sẽ thấy nước. Nước, cá và cát... hàng tấn, hàng tấn cát.
Tôi im bặt, choáng váng khi nghe Johnny nói. Niềm vui chiến thắng của tôi tan như bọt nước.
Dịu dàng đặt tay lên đầu gối tôi, Pat nói:
- Đúng đó, Renn. Mọi xác tàu đắm đều như thế. Tất cả đều bị cát bao quanh và xâm nhập vào bên trong. Anh không tin ư?
Tôi buồn bã:
- Hẳn tôi phải biết điều đó chứ, nhưng tôi chẳng nghĩ đến. Tôi quá nôn nóng phát hiện con tàu đến nỗi chẳng nghĩ điều gì xảy ra sau đó. Vậy thì... chúng ta sẽ làm gì?
- Chúng ta sẽ ăn trưa. - Pat nhanh nhẩu đáp.
Nàng lấy từ cái thùng nhỏ ra những chiếc sandwiche kẹp thịt bò hộp, bánh bisquit, phô mát và sô-cô-la. Rồi nàng rót trà vào tách và chúng tôi vừa trò chuyện vừa ăn trưa.
Johnny nói:
- Renboss à, ngày hôm nay ông đã tìm thấy con tàu Dona Lucia, và đó là điểm quan trọng nhất. Theo như những gì mà chúng ta đã thấy thì mũi con tàu đã chìm trong cát và tệ hơn, hơn nữa con tàu đã bị cát vùi lấp. Vậy thì, tôi muốn hỏi ông một câu: các thùng chứa vàng được cất giấu nơi đâu trong con tàu?
- Theo tôi nghĩ thì nó ở phía sau, dưới khoang thượng đuôi tàu, trong ca-bin thuyền trưởng. Khi về đảo, tôi sẽ vẽ cho anh mặt cắt của một con tàu Tây Ban Nha và rồi anh sẽ hiểu.
- Như vậy, cơ may duy nhất của chúng ta đó là kho tàng được cất giấu nơi phía đuôi con tàu, dưới những lớp cát đầu tiên.
- Đúng.
- Nếu nó được cất giấu ở một nơi khác trên con tàu thì chúng ta chẳng thể tìm được nó vì lúc đó chúng ta phải cần đến một tàu hút-cát mới có thể giải tỏa chiếc Dona Lucia.
Rồi nhún vai, Johnny nói tiếp: “Ngay cả lúc đó, chúng ta cũng chưa chắc đạt được mục tiêu”.
Sau khi chăm chú nghe câu chuyện của chúng tôi, Pat hỏi Johnny:
- Có điều gì đó đang làm anh e ngại. Anh có thể cho tôi biết được chứ?
- Nó là thế này, cô Pat à... Renboss và tôi đều không mấy kinh nghiệm trong vấn đề trục vớt. Bản thân tôi thì chẳng giúp Renboss được gì nhiều bởi tôi không có trang bị lặn nên không thể ở dưới nước đủ lâu để tiếp tay Renboss. về phần Renboss, ông ta có học lặn ở độ sâu, nhưng chỉ có thế thôi nên không thể xoay trở.
Pat hỏi Johnny:
- Vậy anh có ý kiến gì không?
- Renboss có một người bạn... Chính anh ấy đã cung cấp thiết bị lặn cho Renboss.
Tôi gật đầu khi trông thấy Pat nhìn tôi:
- Đúng. Anh ấy là Nino Ferrari, trước đây từng là người nhái trong quân đội Ý.
Johnny nói tiếp:
- Chúng ta cần phải nhờ đến Nino vì anh ấy là dân chuyên nghiệp. Anh ấy có những trang thiết bị cần thiết và biết rõ phương pháp trục vớt. Anh ấy có hứa sẽ đến ngay nếu Renboss cần và đương nhiên giờ đây chúng ta đang cần sự giúp đỡ của anh ấy...
Vỗ vai Johnny, tôi mỉm cười:
- Đồng ý, Johnny. Hôm nay chúng ta sẽ nghỉ ngơi và ngày mai, cậu sẽ đưa chúng tôi đến Bowen. Từ đó, tôi sẽ gọi về Sydney cho Nino Ferrari để yêu cầu anh ta đến ngay, mang theo những trang thiết bị cần thiết. Ngoài ra, chúng ta sẽ mang theo những bình khí nén đã hết để đến Brisbane sạc lại. Cậu nghĩ sao, Johnny?
- Nhất trí thôi, Renboss! Cô Pat sẽ đi cùng chúng ta chứ?
- Dĩ nhiên.
- Như vậy tôi sẽ có dịp cho cô biết về chiếc Vahiné của tôi.
Chúng tôi kết thúc bữa ăn trưa trong thanh thản, sau đó đổ thức ăn thừa xuống biển và kéo theo sợi cáp có buộc khối chì lên.
Chính lúc đó, chúng tôi trông thấy chiếc máy bay.
Đó là chiếc “Phi Long”, một loại máy bay mà người ta thường thấy trong những lễ hội hàng không cấp tình. Nó đang bay ở độ thấp, hướng về Bowen. Khi gần đến đảo, phi công cho máy bay quay trở lại, đảo một vòng cung rông bên trên những vách đá của bờ biển trước khi hướng về phía chúng tôi. Vì nó bay khá thấp nên chúng tôi có thể trông thấy khuôn mặt của viên phi công và người hành khách duy nhất ngồi ở phía sau. Máy bay, một lần nữa đánh một vòng quanh hòn đảo, lượn trên bãi biển rồi bay theo hình số tám từ cuối đảo để men theo mỏm đá ngầm và lượn ngang trên ca-nô chúng tôi.
Cuối cùng, nó bay thẳng ra khơi, mất hút.
Pat mỉm cười nói:
- Hẳn là một khách du lịch giàu có.
Tôi buồn bã nói:
- Cũng có thể là Manny Mannix.
Mím môi, Johnny không nói năng gì.
Pat hỏi:
- Manny Mannix là ai vậy, Renn?
- Rồi tôi sẽ cho cô biết về hắn. Thôi ta về, Johnny.
Đêm hôm đó lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi ngồi dưới ánh trăng và cầm tay một cô gái. Tựa lưng trên lớp cỏ mềm mại của một sườn dốc, chúng tôi ngồi khuất sau một gốc đại thụ, dưới tiếng rì rào của lá trong gió. Bên trên chúng tôi, cành hoa gừng trắng tỏa ngát hương thơm. Gần đó là một khóm lan rừng bám trong một hốc đá đang đong đưa trong gió. Biển giờ đây chỉ còn là dải lụa bạc với tiếng thì thầm nho nhỏ.
Thoạt đầu chúng tôi chỉ trao đổi những chuyện tầm thường vụn vặt để che giấu ý nghĩ của mỗi người, thỉnh thoảng là những lời đùa bỡn, kèm theo tiếng cười gắng gượng, tựa như hai người khách du lịch gặp nhau trong buổi tiệc cocktail. Rồi khi đêm đã khuya, khi đầu óc chúng tôi không còn căng thẳng nữa, câu chuyện chúng tôi trở nên thân mật hơn. Tôi kể cho Pat nghe về cuộc tình của tôi với Jeannette, những ngày chúng tôi sống trên đảo Hai-Sừng, những năm khó khăn sau khi Jeannette mất và chuyến trở về của tôi trên hòn đảo này, nơi tôi đã có được hạnh phúc.
Tôi tâm sự với Pat về những hy vọng và lo âu của tôi. Tôi tả cho nàng nghe về cảnh đẹp dưới lòng biển, cuộc tìm kiến con tàu Dona Lucia và lần đối mặt với con cá mập.
Pat nắm chặt tay tôi và bất chợt rùng mình. Rồi, đổi tư thế, nàng ngồi xổm trước mặt tôi và nhìn thẳng vào mắt tôi, nàng hỏi:
- Renn à, em muốn anh trả lời một điều?
- Điều gì?
- Có phải anh rất quan tâm đến tiền bạc?
Nhận thấy câu hỏi khá hốc búa nên tôi cô tránh né:
- Mọi người đều quan tâm tới tiền.
- Dĩ nhiên tiền là cần thiết và rất nhiều người muốn ngày càng có tiền nhiều hơn.
Nhưng không mấy ai xem tiền là lẽ sống.
- Có phải em muốn biết tôi có xem trọng tiền hay không chứ gì?
Pat đáp bằng giọng khẩn thiết:
- Đúng đấy, anh Renn. Em biết những dự định của anh. Em biết anh tin rằng nếu tìm thấy cái kho tàng đó, anh sẽ thoát khỏi cái cuộc sống mà anh chán ghét. Bản thân em, em không tin chắc điều đó có thể xảy ra.
- Vậy thì, em hãy giải thích xem!
- Em nghĩ rằng cái kho tàng đó sẽ trói buộc anh và làm cho con tim của anh xơ cứng.
Giọng nói của Pat quá buồn bã và đôi mắt của nàng quá u sầu đến nỗi làm tôi phải sửng sốt. Tôi kéo nàng đến gần rồi nói bằng giọng bỡn cợt:
- Này cô bé, vậy thì cô tìm kiếm cái gì trên đời này chứ? Phải chăng đối với cô, mọi chuyện đều là tội lỗi?
Pat cáu kỉnh thốt lên:
- Dĩ nhiên, anh có thể suy diễn lời nói của em theo kiểu nào cũng được! Nhưng đối với em, đó không phải là tội lỗi mà là điều làm em sợ hãi và kinh khiếp!
- Cái gì chứ? Tiền ư? Cái mà vì nó ta phải làm việc năm mươi tuần mỗi năm?
- Không, Renn. Không phải tiền mà là sự khát khao tiền bạc. Cái tham lam khủng khiếp đang làm biến chất tất cả. Còn về sự sợ hãi và thù hận thì đó là những điều mà sáng nay em đã trông thấy trong mắt anh khi anh nhìn chiếc máy bay đó, chiếc máy bay có thể đã chở Manny Mannix.
Tôi bực bội đáp:
- Tham lam? Thù hận? Sợ hãi? Em biết gì về những thứ tình cảm đó chứ?
- Renn à, em biết rất rõ những điều đó. Em đã bị chúng vây khốn trong suốt hai mươi năm. Cha em là một người rất giàu có nhưng suốt đời không hề được một phút giây thực sự hạnh phúc.
Tôi không biết phải trả lời sao và sự bực bội của tôi cũng biến mất.
Một lúc sau, tôi dịu dàng hỏi:
- Đó có phải là tất cả những gì em muốn nói với anh?
Nhìn thẳng vào mặt tôi, cằm hất lên, mắt long lanh, Pat nói:
- Không, Renn à. Lần đầu tiên trong đời, em gặp một người mà em ngưỡng mộ, kính trọng... và yêu mếm. Em sung sướng khi thấy người đó chiến đấu hết mình nhằm đạt được một điều gì đó. Nhưng, nếu người đó thua cuộc thì em cũng sung sướng khi trông thấy người đó mỉm cười để em có thể tiếp tục hãnh diện vì người ấy. Đó là tất cả những gì em muốn nói. Bây giờ, chúng ta về lều chứ?
- Đồng ý! - Tôi thốt lên.
Tôi ôm Pat vào lòng và hôn lên môi nàng. Nàng run rẩy khi đưa hai tay bám lấy cổ tôi.
Bỗng dưng, tiếng thì thào của biển và những vì sao lấp lánh như tắt lịm.
Sáng hôm sau, chiếc Vahiné và Johnny đưa chúng tôi đến Bowen. Thành phố nóng bỏng dưới cơn nắng trưa khi chúng tôi rời bến cảng nhỏ để đi đến một hướng: Johnny mang theo can để đi mua dầu mazout, Pat ra chợ để mua sắm và tôi đến bưu điện để gọi cho Nino Ferrari. Lần này, tôi được liên lạc với Nino sau hai mươi phút chờ đợi.
- Nino đó hả? Renn Lundigan đây.
Ở đầu bên kia, giọng Nino căng thẳng:
- Đã gặp rắc rối rồi à?
- Không chưa gặp nhưng chắc sắp sửa thôi. Qua điện thoại, tôi muốn nói càng ít càng tốt. Anh hãy nêu câu hỏi và tôi trả lời. Đồng ý chứ? Tôi đã tìm thấy nó rồi, Nino.
- Con tàu ư?
- Đúng.
- Ở độ sâu bao nhiêu?
- Mười sải.
- Ông đã trông thấy gì?
- Gần phân nửa. Phần đuôi.
- Cát hay san hô?
- Cát.
- Nhiều không?
- Rất nhiều.
- Tôi hiểu, Renn. Ông muốn tôi đến phải không?
- Đúng, càng sớm càng tốt. Hãy mang theo mọi trang thiết bị cần thiết. Tôi sẽ thanh toán mọi phí cước máy bay.
- Về trang thiết bị thì tôi không có nhiều. Nếu những thứ tôi mang đến không đủ để làm việc thì phải cần huy động nhiều phương tiện để giải quyết vấn đề. Ông hiểu chứ?
- Rất hiểu. Liệu chiều nay anh sẽ có mặt ở đấy?
Sau một lúc tần ngần, Nino cười nho nhỏ rồi hỏi:
- Ở đâu chứ?
- Ở Bowen. Mỗi chiều đều có chuyến bay từ Sydney đi Bowen. Được chứ Nino?
- Này ông bạn, ông bắt tay vào việc nhanh đấy!
- Buộc phải thế thôi, Nino ạ. Tôi e rằng sẽ gặp phải những ngăn trở.
- Nếu vậy, tốt hơn tôi phải chuẩn bị cho một số tình huống có thể xảy ra.
- Ý kiến rất hay. Chúng tôi sẽ ra sân bay đón anh và khiêng hộ anh những trang thiết bị. Sau đó chúng ta sẽ lên tàu ra đảo ngay. Trong trường hợp anh không đi được chiều nay thì hãy gởi điện về sân bay Bowen cho tôi.
- Đồng ý, tôi sẽ đi chuyến chiều nay.
- Hẹn gặp nhé, Nino.
Tôi gác máy. Khi ra khỏi ca-bin, tôi chạm phải một người đàn ông mặc bộ vest trắng đang tựa người vào bức tường của ca-bin điện thoại kế cận. Khi tôi quay lại để nói lời xin lỗi. Người này rút điếu xì gà ra khỏi miệng và mỉm cười với tôi.
- Công việc tốt đẹp chứ thuyền trướng? - Manny Mannix nói.