Dịch giả: Lê Thành
Chương 12

     ắn lại gắn điếu thuốc xì gà lên môi, kéo một hơi dài, thổi khói thuốc vào mặt tôi, rồi lại lấy điếu xì gà ra khỏi miệng. Tuy đôi môi mỉm cười, nhưng hắn đang nhìn tôi bằng đôi mắt lạnh giá. Vẫn tựa người vào ca-bin, trông hắn có vẻ thư thái và nhạy bén như một con mèo.
Manny Mannix hỏi:
- Như thế là thuyền trưởng đã tìm thấy con tàu?
- Tôi đã nói rồi, Manny.
- Thuyền trưởng không nên quá lo lắng và chớ nên hao phí nước bọt. Chúng ta đang đề cặp đến chuyện làm ăn. Như vậy là ông đã tìm thấy con tàu rồi! Hôm qua tôi đã trông thấy ông làm việc ở ngoài khơi mỏm đá ngầm và lúc nãy đây, ông vừa gọi điện cho người bạn ở Sydney để yêu cầu mang thiết bị đến. Có đúng không?
Tôi gật đầu, điềm tĩnh nói:
- Đúng nhưng còn một điều khác cũng đúng không kém đó là tôi sẽ giết anh nếu anh xía vào chuyện này.
- Thuyền trưởng không nên ăn nói dại dột như vậy. Ông nên nhận thức về quyền lợi của mình... Chúng ta chia đôi được chứ?
- Không, Manny.
Manny nhún vai và thả một hơi thuốc:
- Được! Vậy thì tôi sẽ bỏ ra cho ông hai ngàn đô-la tiền mặt cộng với tiền phí tổn. Ông có quyền lựa chọn. Nếu từ chối, tôi sẽ nhập cuộc và buộc ông phải rời khỏi nơi đó. Ông nghĩ sao?
Tôi liếc mắt nhìn thấy Johnny đang bước lên những bậc thang của bưu điện. Tôi nghe có tiếng can dầu do Johnny bỏ xuống và tôi ra hiệu cho Johnay đến bên tôi.
Tôi nhỏ nhẹ nói:
- Này Johnny, cậu hãy nhìn kỹ người này để ghi nhớ khuôn mặt của hắn. Có thể trong tương lai cậu sẽ gặp lại hắn. Hắn tên là Manny Mannix.
Sự thù địch lóe lên trong ánh mắt Johnny khi anh ta nhìn Manny như thể đó là một con vật nguy hại.
Rồi Johnny điềm tĩnh nói:
- Ông Mannix ạ, ông không nên xen vào vụ này.
Vứt điếu xì gà, Manny đặt tay lên ngực Johnny:
- Này chú em có nước da nâu, hãy về lo chuyện bếp núc đi.
Johnny túm lấy cổ tay Manny và xiết mạnh. Manny trợn trừng mắt, mồ hôi lã chã trên trán.
Johnny nói, nhấn manh từng chữ:
- Này ông Manny Mannix, tôi chưa từng giết người, nhưng có thể một ngày nào đó, tôi buộc lòng phải giết ông.
Johnny buông bàn tay Manny ra rồi cầm lấy các can dầu và chúng tôi đi về phía chợ để tìm Pat. Có lẽ những gì vừa xảy ra đã in dấu trên khuôn mặt chúng tôi nên vì thế Pat đã hỏi ngay khi trông thấy tôi và Johnny:
- Renn! Johnny! Chuyện gì đã xảy ra?
Chúng tôi kể cho Pat nghe về sự việc.
Pat nói ngay:
- Nhưng hắn ta có thể làm được gì chứ?
- Hắn có thể làm rất nhiều chuyện, em ạ. Chúng ta không có quyền trục vớt. Vì vậy Manny có thể thực hành lời hắn đe dọa, nghĩa là nhập cuộc và buộc chúng ta rời khỏi vùng biển.
- Bằng vũ lực ư?
- Đúng.
- Nhưng anh đâu có vi phạm điều gì. Anh có thể yêu cầu luật pháp bảo vệ anh được mà?
- Lấy lý do gì chứ? Cho đến lúc này thì Manny Mannix cũng chẳng vi phạm điều gì. Nếu nhờ đến cảnh sát thì thiên hạ sẽ cười vào mũi chúng ta. Và tệ hơn nữa, chúng ta có thể dây dưa vào những vụ rắc rối pháp lý kéo dài nhiều năm... đừng quên răng những vụ kiện về các kho tàng và những con tàu đắm đã làm giàu cho giới luật gia từ bao thế kỷ nay. Em hiểu chứ, Pat?
- Vâng, Renn. Em hiểu.
Sự buồn bã trong âm giọng của Pat làm tôi nhớ đến buổi trò chuyện của chúng tôi đêm qua.
Tôi hỏi:
- Cậu có ý kiến gì không, Johnny?
- Không, Renboss. Tôi chỉ có một điều để nói với ông đó là chiều nay bạn ông sẽ đến đây, mang theo trang thiết bị, chúng ta sẽ ra sân bay đón anh ta, đưa anh ta về đảo và bắt tay vào việc.
- Rồi sau đó?
- Chúng ta sẽ tính sau... Rồi chúng ta sẽ liệu...
Lo âu và mệt mỏi đang trễu nặng trên chúng tôi, tựa như cái nóng trên thành phố nhỏ đang ngủ trưa này. Chúng tôi chậm rãi trở lại bến cảng để lên chiếc thuyền nhỏ ra tàu Vahiné.
Johnny treo ở bên trên cửa boong trước một tấm bạt. Chúng tôi nằm dài dưới bóng râm để uống bia, ăn sandwich, trò chuyện, hút thuốc và ngủ gà. Tuy vậy, chúng tôi vẫn bị ám ảnh bởi một người, đó là Manny Mannix.
Pat nói:
- Tôi không hiểu tại sao hắn có thể tìm ra chúng ta một cách dễ dàng đến thế.
- Chuyện đơn giản thôi - Johnny đáp - Ở Sydney, Manny Mannix biết rằng Renboss đã thắng được một số tiền khá bộn, đủ để mở cuộc tìm kiếm con tàu. Mannix biết về chuyện hòn đảo, nhưng không biết nó ở đâu. Vì thế hắn đã dò hỏi các công ty hàng không và ở đó người ta cho hắn biết rằng vào ngày nọ, có một khách tên là Lundigan đã đáp chuyến bay đi Brisbane. Ở Brisbane, với chút ít tiền, Mannix đã được Sở Địa chính cho biết chính xác về tọa độ của hòn đảo mà ông Renn Lundigan đã thuê mướn. Phần còn lại chỉ cần một chút tinh ý. Mannix biết rằng Renboss phải cần đến một con tàu và con tàu đó buộc phải ghé lại một bến cảng gần hòn đảo. Và y đã chọn Bowen, vì ở đây có một sân bay, nơi y có thể thuê mướn một máy bay để thám sát.
Cú đau nhất của Manny Mannix đã có mặt tại bưu điện vào lúc Renboss gọi cho Nino.
- Quả thật, điều ấy xem chừng quá đơn giản.
Tôi làu bàu:
- Rất đơn giản. Có thể nói là quá đơn giản đối với một con cáo già như Mannix.
- Renboss à, điều mà tôi đang cố hình dung đó là liệu Mannix sẽ quyết định gì.
- Tôi cũng thế, Johnny. Chúng ta có thể mường tường đủ chuyện, nhưng chẳng thể biết điều nào là điều chính xác. Mannix quen biết nhiều và có thừa tiền của để mua chuộc thiên hạ.
Pat thở dài:
- Như vậy thì ta chỉ còn biết chờ đợi thôi.
Johnny gật đầu:
- Đúng đấy!
- Không bao giờ! - Tôi thốt lên - Này, Johnny, cậu có thể đưa tàu vượt qua con lạch trong đêm?
Johnny liếc nhìn tôi rồi, sau một lúc đắn đo suy nghĩ, anh ta gật đầu:
- Được chứ. Đêm nay trăng lên hơi muộn.
- Tốt lắm. Chúng ta sẽ ra sân bay đón Nino Ferrari, rồi về tàu Vahiné và nhổ neo ngay để ngày mai bắt tay vào việc. Như vậy, Manny Mannix sẽ không thể ra tay trước chúng ta.
Máy bay đến vào 10 giờ 20 tối. Trong bộ com-lê nhạt, Nino Ferrari nhanh nhẹn bước xuống. Tôi và Johnny giúp Nino đưa hành lý lên taxi rồi vội vã ra bến cảng.
Đến nửa đêm, chúng tôi ra khơi. Johnny cầm lái trong khi tôi, Pat và Nino ngồi cạnh, bàn bạc về tình huống.
Nino nói:
- Trước tiên, các bạn cần hiểu rõ rằng các bạn không trông mong gặp một phép lạ. Chiếc Dona Lucia đã bị vùi lấp trong cát. Ngay cả một tàu hút cực mạnh cũng không thể giải tỏa nó.
- Đương nhiên, Nino.
- Vậy thì, điều mà chúng ta có thể hy vọng đó là các hòm vàng nằm ở phần đuôi tàu, dưới một lớp cát khá mỏng, và chúng ta có thể đào bới bằng tay.
Tôi cảm thấy thất vọng và thẳng thắn nói ra điều đó. Nino trả lời bằng giọng khô khốc:
- Bộ ông tưởng rằng tôi sẽ mang đến đây một cỗ máy thần kỳ, có thể hút đi hàng trăm tấn cát ư? Đó chỉ là giấc mơ trẻ con! Thật ra, vì biết rằng tôi và ông sẽ phải làm việc nhiều giờ dưới đáy biển nên tôi đã mang đến đây đèn bấm với pin thay thế, những bình khí nén, mìn hút và ngòi nổ.
- Mìn hút? - Pat ngạc nhiên hỏi.
- Lát nữa đây tôi sẽ giải thích về ý đồ của tôi. Nhưng bây giờ thì tôi muốn biết phải chăng có một dòng hải lưu trong vùng con tàu đắm?
- Đúng. Có một dòng hải lưu men theo mỏm đá ngầm, thẳng góc với con tàu đắm.
- Dòng nước đó có xiết lắm không?
- Không mạnh lắm.
- Vậy thì... giờ đây tôi sẽ giải thích ý đồ của tôi. Hơn các bạn, hẳn anh Johnny đây sẽ dễ dàng hiểu rõ những điều tôi giải thích.
Johnny cười thích thú. Nhìn tôi, Nino nói:
- Khi phát hiện chiếc Dona Lucia, hẳn ông đã thấy nó bị vùi dưới những đụn cát. Vì khoang tàu quá tối nên ông chưa vào trong đó nhưng một khi mang theo đèn bấm, ông sẽ thấy rằng khoang tàu chứa đầy cát, một thứ cát luôn chuyển động. Ông hiểu điều đó chứ?
Tôi gật đầu. Nino nói tiếp:
- Vậy thì, chúng ta sẽ tiến hành như sau. Trước tiên, chúng ta sẽ thăm dò phần lò ra của con tàu. Nếu không phát hiện được gì, chúng ta sẽ tiến vào khoang và đào bới...
- Đào bằng tay ư?
- Đúng. Đừng quên rằng chúng ta phải làm việc dưới nước và, khuấy động quá nhiều, cát sẽ bốc lên, lơ lửng trong nước và chúng ta sẽ chẳng thấy gì nữa. Bởi thế, chúng ta phải làm việc từ tốn.
- Và nếu chúng ta chẳng tìm thấy gì trong khoang, Nino?
- Thì lúc đó chúng ta sẽ sử dụng mìn. Đó là loại mìn có sức công phá yếu, vì chúng ta không nên làm hỏng chiếc Dona Lucia. Chúng ta sẽ gài ở mỗi bên vỏ tàu một quả mìn và sẽ sử dụng ngòi nổ định giờ. Như vậy, vỏ tàu sẽ bị thủng hai lỗ, và dòng hải lưu sẽ cuốn trôi đi phần cát trong khoang tàu. Các bạn hiểu chứ?
Mọi việc xem chừng quá dễ dàng. Với lời giải thích gọn và đầy kinh nghiệm đó, Nino đã mang lại cho chúng tôi can đảm. Rồi anh nói tiếp:
- Giờ đây, có điều mà các bạn cần hiểu là nếu sau khi đã cho nổ mìn và những cuộc tìm kiếm không mang lại kết quả nào, thì để giải quyết vấn đề, chúng ta cần phải sử dụng rất nhiều thiết bị. Tôi nhấn mạnh điếm này để các bạn đừng mê ngủ trong những ảo tưởng vì chúng đắt giá và nguy hiểm.
Tôi bảo rằng tôi hiểu rõ những gì Nino nói và chúng tôi hoàn toàn tin tưởng ở anh trong việc chỉ huy cuộc tìm kiếm. Sau đó, tôi kể cho Nino nghe về Manny Mannix.
Đôi mắt Nino lóe lên ánh phẫn nộ và anh ta hít hà một cách khinh bỉ:
- Trong đời tôi vẫn thường gặp điều đó. Mỗi khi nghe đến vàng là thiên hạ đổ xô đến, tựa như kên kên quanh xác chết. Và, đôi khi cũng có xác chết thật. Chính vì thế mà tôi mang theo cái này.
Nino rút từ túi ra một khẩu Beretta với ánh thép dịu dàng lấp lánh trong đêm.
Anh thở dài và nói tiếp:
- Tôi mong rằng sẽ không có dịp để sử dụng nó vì mục tiêu của tôi khi đến đây là tìm sự bình yên. Nhưng ở đâu có vàng thì sẽ chẳng có bình yên.
Tôi biết, ngồi ở phía bên kia buồng lái, Pat đang chăm chú nhìn tôi, nhưng tôi không dám ngước mắt nhìn nàng.
Đã quá nửa đêm và chúng tôi còn phải mất ba tiếng nữa mới tới đảo. Nếu muốn bắt tay vào việc vào sáng sớm mai, chúng tôi cần phải ngủ. Tôi quyết định cầm lái thay cho Johnny, để anh ta đi ngủ cùng Nino và Pat. Tôi hứa sẽ đánh thức Johnny ngay khi trông thấy hòn đảo, hầu anh ta có thể đưa tàu vào lạch, một công việc khá khó khăn đối với tôi.
Trước khi đi ngủ, Pat ôm lấy tôi và hôn tôi trên môi:
- Chúc anh một đêm tốt đẹp.
- Ngủ ngon, em yêu.
Tôi còn lại một mình trên boong tàu. Nho nhỏ trong đêm là những lời trao đổi ngắn ngủi giữa Nino, Johnny và Pat. Rồi đèn trong ca-bin đã tắt và qua cánh cửa để mở, tôi thấy đốm lửa đỏ của điếu thuốc Nino Ferrari đang hút. Cuối cùng, đốm lửa tắt ngúm và chỉ còn tôi với gió đêm, sao trời và những cánh buồm căng gió.
Đến sáng, sau khi đã lên đảo, Nino nắm quyền chỉ huy nhóm chúng tôi. Ngồi xổm trước lều, trên cát, mình trần cuồn cuộn cơ bắp, Nino căn dặn:
- Trước tiên, chúng ta sẽ sử dụng tàu Vahiné làm điểm xuất phát để lặn. Chúng ta không xài ca-nô vì nó quá nhỏ.
Tôi đưa mắt nhìn Johnny. Anh ta gật đầu:
- Đồng ý, Renboss, tôi sẽ đưa chiếc Vahiné đến bất cứ nơi đâu ông muốn.
Nino nói:
- Chúng ta sẽ lặn sâu mười sải, đó là điều không mấy khó khăn. Chúng ta sẽ làm việc dưới đó khoảng nửa tiếng, rồi lên tàu nghỉ hai tiếng giữa hai lần lặn.
Tôi ngỏ ý tiếc vì phải mất quá nhiều thời gian để nghỉ ngơi, nhưng Nino đáp ngay:
- Nếu phải lặn sâu hơn nữa thì ta cần phải nghỉ ngơi ba tiếng đồng hồ cho mỗi mười lăm phút làm việc dưới đó.
- Tại sao?
- Tại vì cho đến lúc này, ông chỉ đơn giản lặn thôi chứ chưa buộc phải có một nỗ lực nào. Khi làm việc dưới nước, năng lượng chúng ta tiêu hao khiến cho azốt trở nên nhiều hơn và chu chuyển nhanh hơn trong huyết quản. Như vậy, ta dễ bị chứng khí ép. Với phương pháp của tôi, chúng ta sẽ giảm thiểu hiểm nguy và mệt mỏi.
- Dĩ nhiên, tôi sẽ tuân theo lời chỉ dẫn của anh. Sở dĩ tôi thắc mắc là vì muốn biết... Liệu chúng ta có thể tiết kiệm được thời gian bằng cách luân phiên lặn xuống dưới? Một người làm và một người nghỉ...
Đôi mắt Nino lóe lên vẻ dí dỏm:
- Nếu ông là một thợ lặn chuyên nghiệp thì tôi đồng ý ngay. Nhưng vì ông không mấy kinh nghiệm nên tôi thấy tốt hơn và chắc ăn nhất là chúng ta nên cùng làm việc.
Tôi nghiêng mình mỉm cười và hỏi thêm:
- Nhưng trong khi làm việc dưới đó, làm sao ta biết được giờ giấc?
- Tôi có mang theo đồng hồ người nhái nhưng ở dưới đó chúng ta dễ quên giờ giấc và điều đó rất nguy hiểm. Để chắc ăn, Johnny sẽ báo cho chứng ta bằng cách bắn một phát súng xuống nước. Chúng ta sẽ nghe thấy tiếng viên đạn chạm vào mặt nước.
Pat nói:
- Trong trường hợp tìm thấy một vật gì đó, thì các anh sẽ tính sao?
- Với những món đồ nhỏ thì Johnny sẽ buộc cái giỏ có dằn chì vào sợi dây câu và thả xuống. Với những thứ to lớn hơn, như hòm chứa tiền vàng chẳng hạn, thì chúng ta sẽ thả cáp xuống để kéo lên.
Pat nói:
- Còn một số câu hỏi nhỏ, chẳng liên quan gì đến chuyện lặn tìm kho tàng, mà tôi muốn nêu ra đó là mỗi tối, Nino sẽ ngủ ở đâu?
Johnny đáp, hơi nhanh nhẩu:
- Nino sẽ ngủ trong căn lều lớn với Renboss. Còn tôi, tôi sẽ ngủ trên tàu Vahiné.
Không còn ai thắc mắc gì nữa. Buổi hội ý đã kết thúc bằng một câu hỏi đơn giản và một câu trả lời cũng đơn giản không kém.
Bốn mươi phút sau, chiếc Vahiné đã bỏ neo ngoài khơi mỏm đá ngầm, cách hai mươi thước bên trên con tàu Dona Lucia.
Ngồi ở ở boong, tôi và Nino uống trà; Johnny đang chắp thêm một sợi thừng vào quai của giỏ đựng cá trong khi Pat ngồi xổm cạnh tôi, lắng nghe những lời căn dặn sau cùng của Nino.
- Khi vượt qua boong của con tàu đắm, ông cần phải rất thận trọng. Ngoài vùng sáng của ánh đèn bấm, ông sẽ chẳng trông thấy gì. Nhưng hãy nhớ rằng các trụ tàu đều bị bám đầy san hô, ốc biển và có rất nhiều chỗ gồ ghề. Nếu không cẩn thận, ông sẽ làm đứt các ống thở.
Tôi đã từng nghĩ đến chuyện này và không thoải mái chút nào khi nghe nhắc đến. Xúc động trước viễn ảnh của những hiểm nguy đang bao trùm cái thế giới xa lạ dưới lòng biển, Pat quay sang hỏi Nino:
- Còn những hiểm nguy khác thì sao? Chẳng hạn như cá mập... và... và...
Nino cười:
- Dĩ nhiên ở dưới đó có những loài cá rất nguy hiểm, những thủy quái. Chỉ có điều là chúng không sinh sống trong hầm những con tàu bị đắm. Người thợ lặn có thể gặp hiểm nguy, nhưng hầu hết các loài cá đều né tránh con người. Vả lại, ngay cả dưới lòng đại dương, bàn tay của Thượng đế cũng vươn tới để phù trợ chúng ta.
Rồi Nino đứng dậy và nói với tôi:
- Đã đến giờ rồi ông bạn ạ! Chúng ta chuẩn bị lặn thôi.
Sau khi đã mang các thiết bị và đeo bình hơi lên vai, chúng tôi bám lấy sợi thừng để tuột xuống từ tàu Vahiné. Lần này, tôi có đeo thêm ở thắt lưng một cây đèn bấm lớn. Chúng tôi lặn trong làn nước xanh màu hoàng hôn, mem theo sợi cáp neo tàu. Nino bám theo sau tôi, và khi tôi quay đầu nhìn anh, anh khoát tay ra hiệu cho tôi hãy can đảm lên. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã xuống dưới đáy biển đang lả lơi như theo một cơn gió lặng lẽ. Phía trước chúng tôi, cách ba mươi thước là con tàu Dona Lucia.
Bồng bềnh bên cạnh Nino, tôi chạm nhẹ vào vai anh ta và chỉ tay về con tàu. Tôi thấy anh mỉm cười sau lớp mặt nạ và đưa hai ngón tay cái lên. Cái giỏ của Johnny từ từ hạ xuống gần chúng tôi.
Tôi và Nino men theo con dốc nghiêng nghiêng của boong tàu phủ đầy rong biển để đến cửa boong toang hoác, đen ngòm. Nino rọi đèn vào. Trong vùng sáng, tôi trông thấy mớ rong đỏ, vài cành san hô và một đàn cá nhỏ màu sắc sặc sỡ đang tránh xa ánh đèn để lẩn vào bóng tối.
Nino tắt đèn và ra hiệu cho tôi tiếp tục hướng lên phía trên. Ở đỉnh con dốc, dưới mặt bằng đầu tiên, cũng có một khe hở. Khe hở này dẫn vào một ca-bin, có lẽ ca-bin của thuyền trưởng. Sau khi đã thăm dò phần đuôi thuyền, có lẽ ca-bin này là nơi để chúng tôi bắt đầu cuộc tìm kiếm. Phần boong tàu kề cận chúng tôi trông có vẻ hẹp và được bao quanh bởi một lan can tàu, chạm trổ với bên trên là một hình trang trí. Tôi chợt muốn gỡ hết những san hô, rong biển và sò ốc để có thể nhìn rõ hơn cái hình trang trí đó; nhưng tôi bị giới hạn bởi thời gian, sức lực và lượng dưỡng khí mang theo.
Sau khi ra hiệu cho tôi, Nino lặn ngược trở lại để xuống đến boong có những ca-bin và dừng lại để chờ tôi trước một khe hở không mấy rộng.
Sau một thởi gian luyện tập, tôi đã có thể khống chế nỗi sợ xuất phát từ lòng biển, nhưng tôi vẫn chưa thể làm chủ được nó. Vì thế, lần này, khi đến cạnh Nino, nỗi sợ hãi của tôi một lần nữa lại trở về, kèm theo với nỗi khiếp đảm mới mẻ khi phải đối diện với bóng tối dưới đáy biển. Tôi bất chợt rùng mình. Nino mỉm cười, đặt tay lên vai tôi và bấm đèn.
Chẳng hề có thủy quái như tôi đã nghĩ. Trước mắt tôi chỉ là những con cá, rong biển, nước và ở phía sau những thứ đó là bóng tối.
Tôi bấm đèn và theo Nino vào trong ca-bin.
Đứng lên lớp cát, chúng tôi rọi đèn về phía bức tường thành rong biển dựng đứng phía trước. Tôi cảm thấy thất vọng. Trước mắt tôi lộ ra những hình thể hẳn là những trụ tàu, một lỗ hõm có thể là một hốc kê giường, một khối lạ lùng có thể là cái bàn. Nhưng ngoài những thứ đó ra, chẳng còn gì nữa... có chăng là mớ rong biển lả lơi và những chú cá nhỏ đang chuồn nhanh.
Chúng tôi rọi đèn lên phía trên. Tôi đưa tay vuốt nhẹ một thân trụ nhơn nhớt rong rêu. Rồi chùm sáng của đèn bấm hướng về phía gần đó và tôi trông thấy một vật bị phủ đầy sò ốc trông tựa như một cây đèn bão. Tôi dùng dao đập manh. Vật trông tựa cây đèn bão vỡ ra và lặng lẽ rơi xuống.
Nino có một cử chỉ nôn nóng và anh quỳ xuống. Tôi bắt chước quỳ theo.
Tôi thấy anh dùng dao cạo đi lớp rong, cát và san hô để thăm dò độ dày của lớp trầm tích phủ trên ván thuyền. Lớp trầm tích này dày đến năm mươi centimét.
Nino đứng dậy và khoát tay cho biết chẳng có gì. Chẳng có cái hòm nào được cất giấu ở đây. Rồi anh ta tiến đến góc của ca-bin xa nhất, nơi độ nghiêng của sàn tàu làm tích tụ một khối cát. Nino lại một lần nữa quỳ xuống và bắt đầu dùng tay và dao để cẩn thận lấy đi mớ trầm tích bám trên sàn tàu. Sau khi chọn một điểm cách Nino khoảng một thước, tôi cũng bắt tay vào việc.
Ba phút sau, tay tôi chạm phải một vật có vẻ như bằng gỗ. Tôi rọi đèn lên đó nhưng chẳng trông thấy gì.
Rồi, trong cơn nôn nóng, tôi đào bới một cách vội vã, tựa như con chó đào tìm một khúc xương. Một lúc sau, Nino đến bên tôi, xua xua ngón trỏ với vẻ trách cứ, như muốn nói tôi đang làm sai phương pháp. Rồi anh ta quỳ xuống rồi cùng tôi đào bới. Cát bốc lên mù mịt và khi lấy đi được một nắm cát trên sàn thì mớ cát khác nhiều hơn lại lấp đầy. Tuy vậy, sau một thời gian cật lực làm việc, chúng tôi đã xác định được vật tìm kiếm.
Đó là một cái rương của thủy thủ có đai bằng đồng. Ngay lúc đó, chúng tôi nghe như có tiếng động tương tự như tiếng cây gãy: tiếng súng của Johnny báo hiệu đã đến lúc chúng tôi phải trồi lên mặt nước.
Chỉ tay về cái rương, tôi nhìn Nino và ra dấu, cố thuyết phục anh hãy nấn ná lại thêm đôi chút. Nhưng Nino lắc đầu rồi đưa tay để bảo rằng phải lên thôi.
Từ tốn thận trọng, chúng tôi tiến dần lên trong khi cát phủ xuống trên cái rương thủy thủ trong ca-bin chiếc Dona Lucia.