Dịch giả: Lê Thành
Chương 5

     áy bay hạ cao độ và qua ô kính, tôi thấy cái bóng của nó lướt nhanh như một cánh chim trên nền đất xanh ngắt như một tấm thảm.
Phía đông là biển, dải san hô và những hải đảo màu ngọc bích. Xa tít phía tây là những cánh đồng của vùng chăn nuôi, trải dài mất hút. Phía dưới chúng tôi là vùng ẩm ướt, nơi gió mùa làm ngập nước những ngọn đồi thấp, làm đầy những đầm lầy, nơi những đàn cò quần tụ và loài sếu nhảy nhót những điệu ba lê kỳ bí trên lớp bùn đầy phù sa.
Đây là xứ sở của mía, thơm, những cụm đu đủ, những cây xoài đại thụ và những cánh đồng cỏ tươi tốt. Đây là xứ sở của dân miền bắc, người mảnh khảnh, nói năng nhừa nhựa, những người sống bằng nghề đốn mía, công nhân nhà máy, chăn nuôi gia súc.
Người dân ở đây sống trên các nhà sàn, gió có thể bao bọc lấy ngôi nhà của họ và thổi mát họ sau một ngày làm việc dưới thời tiết nóng ẩm. Những hàng cây boong giấy tuông xuống từ các mái tôn và hàng hiên. Ở nơi đây con người sống nhàn nhã, sung sướng. Nơi đây luôn có công việc cho bất cứ ai muốn đổ công sức để làm và nếu ai đó muốn dùng thời giờ của họ để thảnh thơi mơ mộng trước hiên nhà, thì cũng chẳng ai phê phán, chỉ trích.
Bay bổng giữa trời và đất, tôi cảm thấy có một nỗi yên ổn lạ lùng đang dâng lên trong lòng, một cảm giác như mình vừa được giải thoát, như được tái sinh trong một thế giới mới, tự do thoát khỏi mọi nguy hiểm, không còn vướng bận bởi một kỷ niệm nào, không còn bị ám ảnh bởi cái chết của người tôi yêu.
Chuyến bay đưa tôi tới thành phố cảng Bowen, một thành phố nhỏ với cây cối xanh rì, che giấu những vết tích còn lại của những trận cuồng phong và giông bão. Từ Bowen, tôi phải đáp xe lửa để đi về phía nam, nghĩa là phải đi ngược trở lại sáu mươi lăm cây số. Điều này xem chừng ngu xuẩn vì lẽ ra tôi có thể đáp thẳng máy bay đến đó và không bị hành hạ bởi ba tiếng đồng hồ ngồi lắc lư trong một chiếc xe lửa cổ lỗ, nhưng tôi không thể chọn một giải pháp nào khác.
Quả thật, thành phố mà tôi sẽ đến nhỏ hơn Bowen nhiều. Nếu ai đó đến thành phố này bằng đường hàng không thì hẳn họ là du khách hoặc đại diện thương mại và như thế sẽ khiến cư dân ở đây để ý đến họ. Nhất cử nhất động của họ sẽ là đề tài cho câu chuyện mà cư dân trao đổi trong những quán cà phê hoặc phố chợ.
Nhưng, nếu bạn đến đây bằng xe lửa với quần áo lấm bụi đường, thì chẳng ai thắc mắc khi bạn nói ra nghề của mình như: thanh tra chăn nuôi, môi giới, nhân viên của một hãng đánh cá hoặc của một nhà máy đường. Như vậy, bạn chỉ việc thanh toán đầy đủ tiền khách sạn, không ăn to nói lớn không xài tiền bửa bãi, và có chút ít hiểu biết về thành phố thì bạn sẽ không bị ai dòm ngó.
Tôi không hề biết về thành phố đó nhưng không hề gì vì đã có Johnny.
Johnny Akimoto là con của một thợ lặn ngọc trai người Nhật và một phụ nữ bản địa sống tại vùng đảo Gilbert. Điều này khiến Johnny có nước da xám, mắt xếch và gò má cao. Johnny Akimoto chuyên mò ngọc trai ở những vùng nước sâu, nhưng đôi khi để kiếm thêm tiền, anh phải làm một số công việc khác như giúp việc cho các công ty du lịch Hoa Kỳ, thợ máy trên tàu đánh cá hoặc tài xế xe tải. Mọi người đều biết Johnny và đều yêu mếm anh ta. Tôi còn nhớ cái ngày khi con tàu của tôi và Jeannette bị bão đánh dạt vào bờ, thì Johnny chính là người đã sửa chữa vỏ tàu, khâu vá những cánh bườm và giải thích cho chúng tôi hiểu về những hiểm nguy xuất phát từ những trận cuồng phong thổi từ đất liền vào mùa mưa bão.
Sau đó, Johnny đã giúp tôi xác định hải trình của những con tàu đã một thời ra đi từ Acapulo. Khi tôi tiết lộ với Johnny về kho báu trong lòng con tàu Dona Lucia và ý định trục vớt nó, Johnny đã gật đầu tán đồng và hứa sẽ cùng tôi lặn thám sát trong vùng biển quanh đảo Hai-Sừng. Johnny là người điềm tĩnh, khôn ngoan, trung thực, hiền lành và sống đơn độc.
Tôi nghĩ về Johnny và ngủ thiếp đi khi máy bay tiến thẳng về phương bắc. Tôi mơ thấy Manny Mannix và cô nàng đã bán cho tôi cái vòng đeo tay với giá năm mươi bảng Anh. Rồi cô tiếp viên đánh thức tôi để yêu cầu tôi buộc thắt lưng an toàn. Máy bay đột ngột nghiêng cánh trên một vùng nước xanh biếc. Tôi nhắm mắt lại và khi mở mắt ra, tôi thấy những cái nhà tôn san sát. Máy bay hạ cánh.
Tôi chờ nhận hành lý trong căn phòng bụi bẩn, nóng bức. Trời giữa trưa không chút gió. Một ông to béo mặc bộ com-lê vải páca bắt chuyện với tôi. Ông cho biết ông là giám đốc ngân hàng về hưu, đến với vợ con đang nghĩ mát trên một hải đảo du lịch ngoài khơi Bowen, rằng cái nóng làm da ông nỗi sẩy, rằng ông dự tính sẽ trồng hoa thược dược và đoạt các giải thưởng trong các hội hoa, rằng...
Một nhân viên hàng không đến bên tôi và hỏi:
- Thưa ông, Phải ông là ông Renn Lundigan?
- Vâng, chính tôi.
- Thưa, có một điện tín gởi cho ông. Chúng tôi vừa nhận được ngay khi máy bay hạ cánh.
Anh ta trao đổi một cái bao thư màu vàng viền đỏ có đóng dấu “khẩn”. Tôi mở bao thư cầm lấy bức điện. Nó được gởi đến từ Brisbane, với con dấu mười một giờ rưỡi và dòng chữ:
Chúc Thuyền Trưởng Thành Công
Hẹn Tái Ngộ. Manny Mannix.
Tôi vò bức điện và nhét vào túi. Người đàn ông mặc bộ com-lê pác nhìn tôi với vẻ thắc mắc. Ông ta muốn kể tiếp cho tôi nghe về đời ông, nhưng tôi bỏ đi khiến ông chưng hửng. Bỗng dưng tôi cảm thấy rất cô đơn và mong được gặp Johnny Akimoto.
Chuyến đi bằng xe lửa quả là một cực hình trong ngột ngạt, trong bụi bặm và trong tiếng vo ve không dứt của những con ruồi bu bám. Đã vậy, hai đứa bé cùng toa với tôi không dứt khóc nhè đòi uống nước và bánh kẹo trong khi mẹ chúng vô vọng la mắng để chúng nín khóc.
Tàu dừng lại ở một trạm, rồi phải mất hơn nửa giờ để nhường đường cho một đoàn xe. Cái xứ xanh ngắt mà khi ngồi trên máy bay tôi ngỡ là giàu có thật ra là một vùng đất nghèo khổ và điều này lại càng phù hợp với tâm trạng buồn bã của tôi.
Bức điện của Mannay làm tôi sững sờ và, tiếp sau nỗi lo sợ ban đầu là sự phẫn nộ. Tôi nghĩ rằng Manny không có ý định giết tôi và hắn chỉ đe dọa như thế để lấy le với bồ nhí của hắn. Tuy vậy tôi cảm thấy lo sợ phải mất đi một cái gì đó mà dĩ nhiên giờ này tôi chưa nắm trong tay, nhưng vì nó mà tôi đã đổ ra biết bao công sức và chấp nhận nhiều rủi ro.
Ngoài ra, tôi biết Manny có khá nhiều tiền của để có thể làm những gì y muốn, ngay cả mua chuộc hoặc thuê một người theo dõi tôi. Như thế, y có thể tính toán đường đi nước bước như đánh một ván cờ và chiếu bí tôi. Tôi nghĩ đến ba kiện hàng của tôi ở sân bay Brisbane và thắc mắc chẳng hiểu liệu Manny có thể ngăn không cho chúng được gởi đi?
Tôi biết Manny có thừa tiền để mướn riêng một máy bay và sợ rằng lúc này có thể y đang chờ tôi ở khách sạn. Và tôi tự hỏi mình sẽ làm gì nếu tình huống tồi tệ xảy ra...
Trái với điều tôi đã nghĩ, Manny không có ở khách sạn. Tôi là người duy nhất mướn phòng ở đây. Chủ khách sạn dành cho tôi căn phòng hạng nhất với mùng và giường rất rộng. Tôi có thể sử dụng thoải mái cái phòng tắm duy nhất, uống rượu một mình trong phòng dành riêng cho các thương nhân, thức dậy vào lúc bảy giờ rưỡi và ăn sáng một mình lúc tám giờ. Mặc khác, tôi có thể theo lời chủ khách sạn, đến quán rượu của công nhân và dân đánh cá để lai rai vài ly và nghe họ kể đủ chuyện trên đời. Nhưng lời gợi ý đó đối với tôi chẳng có ý nghĩa gì. Tôi chỉ muốn tắm, uống một ly cocktail và ăn tối trước khi đi gặp Johnny Akimoto.
Tôi gặp Johnny ở chính cái nơi mà trước đây, trong lần đầu tiên, tôi đã gặp anh ta: một ngôi nhà bằng đá hướng ra những cồn cát và quay lưng về phía truông. Những lối đi rải san hô được cào bằng cẩn thận. Trong vườn nhà có trồng một cây boong giấy, một hàng đậu dành dành và một gốc sứ đại thụ.
Mình trần, chỉ mặc một chiếc quần short, Johnny ngồi trên một chiếc thùng gỗ và đang chăm chú gắn lưỡi câu vào cái cần. Khi nghe tiếng bước chân của tôi, anh ta ngước nhìn và khuôn mặt bỗng rạng rỡ bởi nụ cười ngạc nhiên và mừng rỡ.
Anh đi về phía tôi, bàn tay đưa ra:
- Renboss!
- Đúng đấy Johnny. Renboss đây!
Đó là cái tên mà Johnny đã đặt cho tôi vào những ngày hạnh phúc thuơ ấy. Tôi ứa nước mắt vì xúc động. Johnny siết tay tôi, vỗ mạnh vào vai tôi và mời tôi ngồi nơi cái thùng mà anh ta lôi ra từ một góc tối.
- Ngọn gió tốt lành nào đã đưa ông đến đây thế, Renboss? Ông tính ghé lại đây lâu không? Ông có khỏe không? Công việc của ông giờ ra sao rồi? Trông có vẻ mệt, chắc là vì chuyến đi chứ gì?
Johnny nhìn chằm chằm vào mặt tôi, như người mẹ lo lắng nhìn đứa con trong khi nêu lên hàng loạt câu hỏi.
Và tôi đã nói ra sự thật:
- Johnny à, tôi đến đây là để tìm anh.
- Tôi luôn nhớ đến ông... và bà nhà.
- Nhà tôi đã mất rồi.
- Ồ... từ khi nào, Renboss?
Có thoáng buồn và cảm thông trong ánh mắt hiền hòa của anh ta.
Tôi nói nho nhỏ:
- Đã lâu rồi.
- Thế ông có lấy vợ khác không?
- Không.
- Và hôm nay ông đã trở lại để tìm Johnny Akimoto này. Một ý tưởng rất hay. Renboss à, bây giờ tôi đã có một con tàu. Một con tàu chắc chắn. Chúng ta sẽ đi câu ở vùng biển quanh mỏm đá ngầm chứ? Và, nếu ông muốn, chúng ta có thể đến tận đảo Jeudi...
- Không Johnny, chúng ta không đến đảo Jeudi... Chúng ta sẽ đến... hòn đảo của tôi.
- Hòn đảo của ông ư? (Johnny nhìn tôi với vẻ thắc mắc rồi mỉm cười hài lòng) À! Tôi nhớ ra rồi. Hòn đảo có con tàu đắm chứ gì? Ông đã mua hòn đảo đó à?
- Tôi đã thuê mướn nó với mục đích dò tìm con tàu Dona Lucia. Tôi mong có anh đến đó để giúp tôi lặn tìm.
Johnny không nói năng gì và nhìn lòng bàn tay một lúc như muốn tìm hiểu các đường chỉ tay định mệnh. Rồi anh thọc tay vào túi, lấy ra hai điếu thuốc và trao cho tôi một điếu. Trong ít phút chúng tôi lặng lẽ hút thuốc, lắng nghe tiếng gió lẫn với tiếng sóng biển.
Cuối cùng, Johnny nói bằng giọng trầm tĩnh:
- Để thực hiện công việc đó, ông cần phải có một con tàu.
- Tôi có đủ tiền để mua một con tàu.
- Ông phải thuê một thợ lặn có trang bị đầy đủ.
- Chúng ta sẽ lặn mình trần, mang theo bình hơi, thế thôi.
- Ông đã từng lặn sâu dưới đáy biển rồi chứ?
- Đôi ba lần...
- Nếu vậy, để có kinh nghiệm, ông cần phải tập dượt nhiều.
- Tôi mong được anh huấn luyện cho. Ngoài ra, cái gã bán dụng cụ lặn có ghi cho tôi một loạt những bài tập phải thực hành. Gã ta nói, sau khi đã tập luyện, tôi có thể làm việc dưới độ sâu hai mươi sải.
- Hai mươi sải!... Quá sâu đối với một thợ lặn không trang bị.
- Nhưng nếu có bình hơi thì không sao.
Johnny gật đầu:
- Chuyện đó quá mới mẻ đối với tôi.
- Anh đồng ý theo tôi chứ, Johnny? Anh giúp tôi mua một con tàu và lương thực...
- Này Renboss, ông không cần phải mua một con tàu. Ông có thể sử dụng tàu của tôi. Đó là loại thuyền ba cột buồm. Tuy đã cũ, nhưng tôi đã sửa chữa và bảo trì tốt và có thể đưa ông đến bất cứ đâu. Máy tàu còn mới toanh nên có thể chạy khá nhanh, khoảng bảy hoặc tám hải lý một giờ.
- Tốt lắm. Tôi mướn tàu của anh và trả lương cho anh mỗi tuần. Anh theo tôi ra đảo và làm việc với tôi, đồng ý chứ?
- Vâng... Đó là giải pháp tốt nhất và ông cũng khỏi phiền phức. Còn không, nếu mua tàu ở đây, ông phải trả giá khá đắt cho một con tàu cũ, hoặc nếu muốn con tàu tốt thì ông sẽ không đủ tiền để mua.
Tôi gật đầu. Johnny lặng lẽ hút thuốc. Khuôn mặt anh ta khuất dưới bóng râm, tuy vậy anh ta vẫn nhìn chăm chăm vào tôi.
Cuối cùng, Johnny nói:
- Renboss à, tôi trông ông có vẻ lo sợ. Có điều gì chăng?
- Rồi tôi sẽ kể anh nghe. Chuyện này khá dài.
- Một khi đã làm việc với nhau rồi thì tôi mong được biết chuyện đó.
Để Johnny không còn thắc mắc, tôi kể hết cho anh ta: quan hệ của tôi với Manny Mannix, những lời của cô người mẫu thời trang tại khách sạn Lennon, bức điện của Manny và nỗi sợ hãi mà hắn đã gây cho tôi bởi hắn có khá nhiều tiền của.
Johnny thở ra một hơi thuốc, nhìn gió cuốn đi rồi nói:
- Tốt hơn ta nên ra đảo càng sớm càng tốt.
- Tôi sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào anh muốn.
- Trước tiên ta phải mua lương thực.
- Bao giờ thì mua?
- Ngày mai. Ta sẽ mua lương thực và một số tân dược, đề phòng khi chúng ta bị thương ở mỏm đá ngầm hoặc dưới đáy biển.
- Tối nay tôi sẽ ghi danh sách các loại thuốc cần thiết. Thành phố này có nhà thuốc chứ?
- Có. Theo tôi nghĩ thì ông nên mua tân dược còn lương thực để tôi lo. Nếu một mình ông tự mua sắm mọi thứ thì thiên hạ sẽ thắc mắc.
- Bao giờ chúng ta có thể ra đi?
- Ngày mốt... sáng sớm.
- Tại sao ta không đi vào chiều mai?
- Không thể được. Trước tiên phải kiểm tra con tàu, rồi ra đảo để nhận các kiện hàng của ông.
- Vậy, nếu Manny xuất hiện khi ta chưa kịp nhổ neo thì sao?
- Hắn đến đây để làm gì chứ?
- Johnny à, chỉ đơn giản là hắn biết tôi sẽ đến một hòn đảo, nhưng hắn không biết tên hòn đảo và vị trí của nó.
Johnny lắc đầu:
- Ông chớ có lầm. Ông đã mua hòn đảo đó chứ gì? Thì cũng tương tự như tôi đã mua căn lều và mảnh đất này.
- Tôi chỉ thuê mướn chứ không mua hòn đảo đó.
- Thì cũng vậy thôi. Ông đã ký một giấy tờ và chúng được lưu giữ tại Brisbane. Bất kỳ ai cũng có thể đến Sở Địa chính và, với hai shilling sáu pence, người đó có thể biết tất cả những gì mà hắn cần biết về các hợp đồng thuê mướn đất của ông. Ông hiểu chứ, Renboss?
Chuyện đó quả thật rất dễ hiểu. Là một sử gia tôi có thể xác định những nguyên nhân đưa các đế quốc đến suy tàn và khiến các anh hùng rơi rụng, thế mà tôi quên mất những thủ tục pháp lý thông thường nhất của đời sống hiện đại. Đúng vậy, Manny Mannix chẳng cần phải nhọc công. Y chỉ cần chờ cái lúc thuận tiện và bỏ ra hai shilling sáu pence là xong.
Tôi không ngăn được phải bật cười. Cười thật lớn, cười cho đến khi nước mắt dâng lên.
Johnny lặng im nhìn tôi, vẻ lo sợ. Khi tiếng cười tôi bị tắt nghẹn bởi cơn ho, tôi ngượng ngùng xin Johnny điếu thuốc. Anh ta trao cho tôi, bật lửa cho tôi mồi và hỏi bằng giọng trầm tĩnh:
- Ông thấy đỡ chưa, Renboss?
- Đỡ rồi.
- Tốt lắm. Ngày mai tôi đi mua lương thực còn ông, tân dược. Chúng ta sẽ gặp nhau tại đây vào lúc ba giờ chiều, và đưa mọi thứ lên tàu. Rồi chúng ta sẽ ngủ lại đó và nhổ neo vào rạng sáng.
Tôi rút ví và trao cho Johnny ít tiền:
- Năm mươi bảng Anh đủ để mua sắm chứ?
- Quá nhiều đấy.
- Tiền tôi còn gởi ở ngân hàng. Ngày mai tôi sẽ ứng lương cho anh nếu anh muốn.
- Renboss à, chờ khi xong việc rồi hãy trả lương cũng được.
Johnny mỉm cười, vỗ vai tôi.
Tôi nói:
- Nếu lỡ không xong việc thì sao?
- Thì ta sẽ trở lại cái giải pháp của tôi lúc đầu. Chúng ta sẽ đến đảo Jeudi hoặc sang New Guinea để kiếm việc làm... Renboss à, bây giờ ông nên về khách sạn và ngủ cho khỏe. Ngày mai, trời sáng mọi việc sẽ tốt đẹp hơn.
- Thôi, chào nhé Johnny.
- Chúc ông một đêm ngon giấc.
Trước khi về khách sạn, tôi ghé lại quán rượu và uống khá nhiều với các công nhân xưởng đồ hộp. Sau đó, những kỷ niện khuất dần trong tâm trí tôi cho đến khi tôi thức dậy vào sáng hôm sau. Đã mười giờ.