Chương 30

     ark Parker
Khách sạn Dôme Cyrénia (Chypre)
Mỗi lúc thêm gây cấn - Stop - Tiếp tục gởi điện tín.
Ken Bradbury
American New Syndicate, London.
“Tin bổn báo đặc phóng viên Mark Parker ở Cyrénia (Chypre), (American New Syndicate giữ độc quyền).
Một cảnh tượng khôi hài: một ngàn quân sĩ võ trang hùng hậu, nhiều chiến xa, pháo binh, hai phóng ngư lôi hạm, và một chiếc tàu kéo đáng thương không có đến một khẩu trung liên.
Sau tuần lễ đầu tiên, trận chiến Exodus đã đến ngõ bí cả Anh lẫn Do Thái đều giữ vững lập trường. Cho tới giờ không ai lên chiếc tàu đe dọa cho nổ tung nếu cần ấy. Dầu vậy, tàu chỉ cách các ke khoảng một trăm năm chục thước, và với ống nhòm, ta thấy tàu như ở trong tầm tay.
Tinh thần của ba trăm trẻ trên Exodus có vẻ cao khác thường. Trong suốt tuần lễ vừa qua, chúng đã hát các bài dân ca hoặc trêu ghẹo các lính Anh gác chung quanh...”
Mỗi ngày, các điện tín của Parker mang thêm nhiều chi tiết mới để thỏa mãn óc tò mò của hàng triệu độc giả.
Về phía Cecil Bradshaw, ông bất động vì biết mình sẽ phải chịu một trận chỉ trích dữ dội. Báo chí Pháp bùng ra như trong vụ tàu Đất Hứa với sự dị biệt là lần này, giọng điệu các bài quan điểm leo thang rất nhanh đến mức dữ dội đặc biệt. Kể từ khi có Liên minh Thân hữu giữa Pháp và Anh, chưa bao giờ các báo chí Pháp lại đả kích Anh quốc đến như thế. Hơn nữa, báo chí Anh cũng có vẻ chia rẽ, và nhiều nhật báo lớn quan trọng vào bậc nhất cũng đặt vấn đề khôn ngoan của Whitehall một cách công khai.
Là một chính trị gia lão luyện, Bradshaw đã từng trải qua nhiều sóng gió rồi. Mọi ồn ào do vụ Exodus gây ra, theo ý ông, chỉ là một trận bão trong một ly nước hoàn toàn không nguy hiểm và hết sức chóng qua. Ông chỉ cho gởi một bộ ba ký giả bạn đến Cyrénia với nhiệm vụ chống lại các phóng sự của Mark Parker, và trao nhiệm vụ cắt nghĩa lập trường Anh quốc cho chừng nửa tá chuyên viên. Nhưng đáng tiếc là nếu, lập trường này không hề thiếu luận cứ, các ký giả và chuyên viên lại thấy ngay rằng khó mà chống lại lòng thương xót tự nhiên cho số phận ba trăm đứa trẻ di dân kia.
Nếu những kẻ phục quốc Do Thái là thành thật như vậy thì tại sao họ lại dám đưa ba trăm đứa trẻ vô tội vào tình trạng nguy hiễm đến tính mạng như vậy? Thực ra đó chỉ là một âm mưu khá mờ ám, xây dựng một cách lạnh lùng, cốt để che giấu các thực tại của vấn đề Palestine. Thật rõ ràng là chúng ta đang đối diện với các kẻ cuồng tín. Người mang tên Ari Ben Canaan ngoài ra con là một tay xách động phục quốc Do Thái chuyên nghiệp, với một quá khứ đầy những hoạt động bất hợp pháp trong nhiều năm rồi.
Tuy vậy ở Paris những người Anh trong các quán cà phê đã bị phê bình chỉ trích.
Trong các Pubs ở Luân Đôn, các tay hùng biện tùy hứng đã đứng ra bênh vực quan điểm của Anh quốc.
Ở Stockholm, có các bài giảng ở nhà thờ và ở Ý, có các vụ bàn cãi tại quốc hội.
Ở Nữu Ườc, các bookmaker đề nghị đánh cá bốn ăn một là tàu Exodus sẽ không nhổ neo được.
Cuối tuần lễ thứ hai, Ari nhận tiếp Mark Parker trên tàu Exodus. Vì là ký giả đầu tiên được lên chiếc tàu đáng thương và nổi danh này, ba điện tín sau của chàng cung cấp các hàng chữ lớn trang đầu cho các nhật báo toàn thể thể giới.
ĐỘC QUYỀN THẾ GIỚI
PHỎNG VẤN ĐẦU TIÊN ARI BEN CANAAN,
PHÁT NGÔN VIÊN CỦA EXODUS
“Hôm nay tôi có hân hạnh là phóng viên đầu tiên phỏng vấn người Palestine Ari Ben Canaan, người chỉ huy của Exodus. Anh tiếp tôi trong phòng lái, nơi duy nhất của tàu tránh được cảnh đông đúc đến mức khó tin của một số người đông như vậy trong một không gian quá chật hẹp. Khi băng qua boong tàu, tôi nhận thấy các trẻ con, dù tinh thần vẫn cao, đã bắt đầu tỏ ra các dấu hiệu suy yếu, hậu quả của một sự giam giữ đã kéo dài hai tuần lễ.
Ben Canaan chừng ba mươi tuổi. Với thân hình lực sĩ cao lớn, tóc đen như mun, mắt xanh lạnh biếc, mọi người dễ tưởng anh là một jenne premier của Hollywood. Sau khi bày tỏ lòng biết ơn đối với các lời khích lệ từ toàn thế giới gởi tới, anh đã tuyên bố:
- Những chỉ trích về cá nhân tôi của người Anh, tôi không để ý tới. Nhưng dầu sao tôi cũng tự hỏi không biết họ - đã bổ túc cái án dài lê thê của họ về tôi bằng cách ghi nhận rằng tôi đã phục vụ trong quân lực Anh thế chiến vừa qua không? Không biết họ đã ghi nhận rằng để bày tỏ sự công nhận giá trị của nó, họ đã từng trao cho tôi cấp bậc đại úy hay chưa? Sau khi đã minh bạch về điểm này, tôi xin nhận quả thực tôi là một người xách động phục quốc Do Thái và tôi tiếp tục như thế cho tới khi nào Anh quốc đã giữ trọn lời hứa là thành lập một Quê Hương Do Thái ở Palestine. Còn các hoạt động của tôi có là hợp pháp hay không, thì đó chỉ là vấn đề ý kiến cá nhân từng người.
Khi tôi trình bày các luận cứ và kháng biện của Anh quốc, anh đáp:
- Những người Do Thái chúng tôi đã quen làm con dê chịu tội rồi. Mọi người trút trách nhiệm cho chúng tôi về tất cả mọi điều. Chỉ có điều tôi ngạc nhiên là họ chưa nghĩ đến việc bắt chúng tôi chịu trách nhiệm về các khó khăn của họ ở Ấn Độ. May mắn thay Ghandi không là người Do Thái.
Thực ra Whitehall đã xử dụng con ngoáo ộp phục quốc Do Thái đầy bí mật và xách động để che đậy ba mươi năm dối trá đối với cả người Do Thái lẫn Ả Rập, để che đậy các thối nát, phản bội trong khi đảm nhiệm việc ủy trị Palestine. Từ bản tuyên ngôn Balfour năm 1917 cho tới giờ vẫn còn là giấy lộn và các lời hứa hẹn kế tiếp nhau đều không được giữ đúng. Tôi xin được nhắc lại ở đây rằng thái độ của đảng Lao động Anh trước kỳ bầu cử vừa rồi là cho phép mở rộng các biên thùy Palestine cho các người Do Thái sống sót khỏi chế độ của Hitler.
Những giọt nước mắt của Whitehall nhỏ xuống thương cho số phận ba trăm trẻ mà họ cho rằng chúng tôi đày đọa nơi đây, chỉ là những giọt nước mắt cá sấu. Trên tàu Exodus này, tất cả các em đều là tình nguyện hết, và hết thẩy chúng đều là trẻ mồ côi vì cha mẹ chúng đã bị quốc xã giết chết. Hầu hết các em đều đã sống năm hay sáu năm trong các trại tập trung của Đức... và của Anh quốc.
Whitehall kết án chúng tôi là đã muốn cưỡng buộc một giải pháp bất công cho vấn đề Palestine. Thế mà trên tổng số sáu triệu dân Do Thái hiện diện tại Âu châu trước thế chiến, này chỉ con chừng hai trăm năm chục ngàn. Tổng số di dân Do Thái được phép nhập nội Palestine do người Anh ấn định mỗi năm là bảy trăm người. Như vậy, liệu có phải là “giải pháp công bình” của người Anh hay không?
Để chấm dứt, tôi phủ nhận quyền người Anh chiếm cứ Palestine. Tôi xin đọc ông nghe đoạn sau đây trong Thánh Kinh:
Khi ta đã tập hợp các gia tộc của Isaael và đã thánh hóa họ trước tất cả các quốc gia khác, họ sẽ ở xứ sở mà ta đã ban cho kẻ hầu hạ ta là họ sẽ ở, cũng như các con cháu họ sẽ ở vĩnh viễn.
Rồi đặt cuốn Kinh Thánh xuống, Ari Ben Canaan kết luận:
Những vị đang cư ngụ trong Whitehall nên nghiên cứu hồ sơ của họ kỹ hơn. Dầu thế nào tôi cũng xin nói với ngoại trưởng của Đức vua bằng những lời mà bậc vĩ nhân đã nói với một kẻ áp chế khác cách đây ba ngàn năm: “HÃY ĐỂ DÂN TỘC TÔI RA ĐI”.
Cuộc phỏng vấn, ngày hôm sau, trong một điệp văn khác, Mark Parker trình bày chi tiết về cơ cấu tổ chức và thực hiện chiến dịch Gédéon, nhấn mạnh với sự xử dụng các xe cộ của quân lực Anh. Đây lại là một đòn nặng nữa đánh vào uy tín và tự ái của người Anh.
Rồi theo lời khuyến cáo của Mark, Ari cho phép các ký giả khác lên tàu Eoxdus. Khi trở lại bờ, các đặc phóng viên này đòi hỏi người Anh cho phép họ được viếng thăm trại Caraolos.
Ở Luân Đôn, Cecil Bradshaw không còn biết xoay xở ra sao nữa. Ông đã đón chờ những lời chỉ trích dữ dội, nhưng không hề dự trù tới một cơn nổi giận ghê gớm của dư luận như vậy. Bây giờ ông cũng không còn thể cho phép tàu Exodus ra khơi được nữa. Việc cho phép nhổ neo bây giờ sẽ không được coi như một nhượng bộ nữa, mà bị coi như thú nhận thất trận.
Sau cùng, tướng Tevor Browne bí mật bay sang Chypre để khảo sát tại chỗ xem còn có thể làm được gì. Máy bay của ông hạ cánh vào lúc bình minh tại phi trường Nicosle phi trường được canh giữ rất cẩn thận. Thiếu tá Allistair đón đợi và đưa ông lên ngay một xe bít bùng phóng ngay về và Bộ tư lệnh ở Fargouste.
- Allistair, tôi muốn được gặp anh trước khi gặp thiếu tướng Sutherland. Dĩ nhiên là tôi có nhận được bức thư của anh. Bây giờ anh tự do trình bày ý kiến đi.
Allistair hơi do dự một chút:
- Thưa Thiếu tướng, nói thật ra thì tôi có cảm tưởng tướng Sutherland không còn đủ sức đương đầu với áp lực của tình hình nữa. Đã có một cái gì đó đã xảy ra cho ông, tôi không được biết, nhưng sự kiện rõ ràng thì như tôi vừa trình bày. Caldwell có nói là thiếu tướng hầu như đêm nào cũng gặp ác mộng. Những lúc ấy ông dậy đi đi lại lại trong phòng, và để hầu hết thì giờ để đọc Kinh Thánh.
Tevor Browne nói nhỏ:
- Đáng thương thật! Nhất là Sutherland lại là một quân nhân tài ba đặc biệt nữa! Tôi biết là tôi có thể tin cậy ở sự kín đáo của anh được, phải không Allistair? Theo ý tôi, chúng ta phải bảo vệ và giúp đỡ thiếu tướng Sutherland hết sức chúng ta.
- Thưa vâng.
“Cyrénia (Chypre)
Tin của bản báo đặc phóng viên.
Tướng Tevor Browne, nổi danh về các chiến dịch trong sa mạc Libye, đã bí mật đáp xuống phi trường Nicosie sáng hôm qua. Ông mặc thường phục và vụ ông tới được giữ hết sức bí mật. Sự xuất hiện bất ngờ của tướng Tevor Browne chứng tỏ Whitehall đã lo âu về vấn đề Exodus. Sự kiện này có thể chứng tỏ hoặc sẽ có thay đổi lập trường, nếu không phải là thay đổi cấp chỉ huy quân sự tại Chypre”.
Ngày hôm sau Mark trở lại tàu Exodus và yêu cầu được gặp Karen tại phòng lái. Quang cảnh chàng nhìn thấy trên tàu có vẻ mỗi lúc thêm khẩn trương. Các trẻ em gầy đi, xơ xác, và đầy mùi hôi của thân thể không tắm rửa vì thiếu nước.
Trong khi chờ đợi Karen đến, Mark nói chuyện với Ari. Vẫn lạnh lùng bình thản, Ari cười nhận các bao thuốc lá và chai rượu brandy do người ký giả mang tới. Ari hỏi:
- Trên bờ mọi sự ra sao?
- Chưa có gì mới lạ. Cho tới giờ, việc Tevor Browne tới đây cũng chưa đi tới một thay đổi nào. Câu chuyện về các anh vẫn còn giữ trang đầu của các nhật báo thế giới. Anh hiểu không Ari, “chiến dịch Gédéon” kể từ giờ thành công vĩ đại. Anh muốn phóng ra một chưởng làm người Anh lãnh đủ phải không? Bây giờ thì anh đã hoàn toàn thành công rồi đó. Một mặt khác, theo các tin tức tôi được biết thì người Anh đã quyết định không nhượng bộ.
- Vậy thì anh muốn dẫn tới vấn đề sao?
- Vấn đề như sau: hiện nay anh có thể hoàn tất chiến thắng của anh bằng cách làm một cử chỉ nhân đạo là đưa tàu trở về bờ. Anh có thể tin ở tôi và các bạn đồng nghiệp sẽ biến vụ các trẻ em trở lại trại Caraolos thành một tin tức hàng đầu, mặc dù mọi ngăn trở của người Anh. Một câu chuyện sẽ làm rơi lệ toàn thể thế giới.
- Chắc Kitty Fremont đã nhờ anh nói như thể phải không?
- Xin anh hãy để Kitty yên. Tốt hơn anh hãy nhìn tụi trẻ này: chúng sắp xỉu tất cả đến nơi rồi.
- Chúng biết chúng phải đương đầu với những gì rồi.
- Nhưng có những điều mà anh không biết. Tôi đang e rằng chúng ta đạt tới, có lẽ vượt quá rồi nữa, cực điểm của xúc động chung của các độc giả. Ngày hôm nay chúng ta còn giữ được trang đầu. Nhưng nếu ngày mai Frank Sinatra đập lộn với một anh chàng ký giả viết tin xe cán chó trong một hộp đêm nào đó, thiên hạ sẽ đẩy chúng ta vào mục tin vặt vãnh ngay. Anh hãy nghĩ đi...
Mark ngừng nói khi thấy Karen bước vào.
- Chào ông Parker.
- Chào cô bé. Tôi mang thư và cả một gói gì nữa của Kitty cho cô bé đây.
Karen chỉ muốn nhận bức thư không thôi.
- Trong lúc các bạn tôi không có gói quà nào...
Mark cầu nhầu:
- Tôi tự hỏi sẽ loan báo cho Kitty biết vụ từ chối rất quá cao thượng này ra làm sao đây. Ari, anh hãy nhìn cô bé này, nó đang đau. Anh không trông thấy mắt thâm quầng, gò má hóp của Karen sao? Anh tin ở tôi đi, trong vài ngày nữa, anh sẽ gặp nhiều lo lắng rắc rối trên tàu này cho mà coi.
- Tôi chấp nhận trước những điều đó. Đối với chúng tôi, chỉ có một điều quan trọng duy nhất: làm dư luận căng thẳng và chú ý đến chúng tôi. Parker, anh ráng hiểu cho điều này: không bao giờ, không bao giờ hết, chúng tôi lại chịu trở lại trại Caraolos. Trong tất cả các trại ở Âu châu, có hai trăm ngàn người Do Thái khác đang lo âu chờ đợi một lời giải đáp, và giải đáp này, chỉ chúng tôi mới mang lại được. Ngay từ sáng mai, chúng tôi sẽ tuyên bố tuyệt thực. Những ai bị ngất xỉu sẽ được đưa bầy ngay lên boong tàu cho quân Anh trông thấy.
Mark la:
- Quả thực anh là một con quỷ, một con quỷ khát máu.
- Anh cứ việc nguyền rủa tôi nếu anh muốn nhưng anh chẳng thay đổi được gì hết.. Này Parker, anh có tin thực là tôi thực tình bắt tụi trẻ này nhịn đói không? Nhưng, mẹ kiếp, anh hãy cho chúng tôi những vũ khí khác để chúng tôi chiến đấu! Hãy cho tôi trọng pháo để bắn các chiến xa kia, bắn chìm các phóng ngư lôi hạm kia! Tất cả những gì chúng hiện có, đó là lòng can đảm và lòng tin của chúng tôi. Từ hai ngàn năm nay mọi người đã cố tình đánh đập, tra tấn, tàn sát chúng tôi. Thì bây giờ đây, năm 1946, chúng tôi lao mình vào một trận chiến mà chúng tôi sẽ thắng.