Chương 11

     áng hôm đó, Barak trao cho con trai việc mang lúa mì tới cối xay Aata ở làng Ả Rập cách đó chừng mười cây số. Sarah phản đối:
- Tại sao anh lại nghĩ tới chuyện đó! Một đứa bé mười bốn tuổi... Với những biến cố đang xảy ra, các cạm bẫy trên đường đi...
- Chính vì thế đấy! Cả con trai lẫn con gái tôi sẽ không có đứa nào suốt đời run lên như cầy sấy giống như dân Do Thái ghetto.
Rất kiêu hãnh được bố tin cậy, Ari treo lên chiếc xe do lừa kéo, khởi hành đi Aata.
Ngay khi Ari tiến vào làng, chừng mười tay du đãng Ả Rập quẩn quanh quanh quán cà-phê duy nhất ở nơi này đã nhận ra chàng rồi. Chúng chờ đợi cho tới khi xe Ari đã quẹo ở góc dường, mới kéo nhau đi theo tới tận máy xay. Ở bên trong, Ari, thạo tiếng Ả Rập, bàn cãi với chủ máy. Chàng muốn tự mình coi từ đầu tới chót để chắc chắn khi đã xay xong, chủ nhân phải đổ bột của mình vào các túi đựng bột của mình, chứ không phải đổ bậy bột lấy từ lúa mì Ả Rập tồi hơn rất nhiều. Chủ nhân rất lấy làm buồn vì hắn đã hy vọng tráo được mười hay hai mươi ký. Mọi việc xong xuôi, Ari lên đường trở về Yad El.
Chàng vừa ra đi, các du đãng Ả Rập đã lại đề nghị với chủ máy xay một đề nghị hấp dẫn: chúng sẽ cướp lấy bột của Ari rồi bán lại với chủ nhân bằng giá rẻ. Chủ máy nhận lời ngay lập tức, các du đãng rời làng bằng một con đường tắt, vội vã dựng một ụ đá chặn một cuối dốc.
Một vài phút sau Ari đâm đầu vào bẫy. Khi những viên đá đầu tiên ném ra như mưa, chàng quất mạnh roi thúc lừa cho chạy nhanh hơn để rồi phút sau đâm đầu vào hàng rào đá cản. Một viên đá ném trúng ngay đầu làm choáng váng, ngã gục xuống. Bốn du đãng lao ra đè chặt cứng chàng xuống đất trong khi những đứa còn lại chuyển các túi bột xuống xe mang đi.
Đến khuya Ari mới trở về được Yad El.
Chính Sarah ra mở cửa. Khi nhìn thấy mặt Ari đầy máu, quần áo tả tơi, bà hét lên. Răng xiết chặt, Ari đi thẳng lên phòng riêng đóng cửa lại khóa chặt. Chàng chỉ chịu xuống khi bố đã đi dự một buổi họp của moshav về. Chàng cố gắng nói rõ từng tiếng mặc dù môi sưng vù rướm máu:
- Con đã phụ lòng tin của bố. Con đã để mất bột rồi.
Barak phản đối:
- Chính bố mới đáng trách. Chỉ bố đáng trách thôi.
Sarah chạy ra ôm con vào lòng:
- Anh nghe đây, không bao giờ anh được gửi con đi một mình nữa... Không bao giờ...
Barak không trả lời. Nhưng sáng hôm sau ông đưa Ari vào vựa thóc, nói:
- Bố đã quên không dạy con về một vài phương diện...
Ông lấy chiếc roi da cũ ra, tay một thứ hình nhân đưa ra cắm ở bờ rào. Ông cắt nghĩa rất lâu cho con ước lượng xa gần, nhắm và đánh như thế nào. Nghe thấy tiếng kêu réo đầu tiên, Sarah ôm bé gái Jordana chạy lại:
- Anh điên sao anh? Dạy cho đứa bé đáng thương này cách xử dụng roi da... anh điên thật rồi đó anh!
Lần đầu tiên từ hai mươi năm lấy chồng, Sarah thấy sợ hãi chồng. Barak gầm lên:
- Bà im đi! Con trai của Barak Ben Canaan là một con người tự do! Nó sẽ không bao giờ là một Do Thái ghetto hết. Rồi, bây giờ bà đi chỗ khác cho, đàn ông chúng tôi không muốn mất thì giờ với các lời lèm bèm của đàn bà!
Đây quả là một vụ huấn luyện đến nơi đến chốn. Từ sáng đến chiều Ari tập dượt không ngừng. Hình nhân bị đánh nát tan từng mảnh, chàng lấy đích là các hòn đá, các vỏ đồ hộp, chai lọ, tập cho tới khi chàng chỉ vung tay lên một lần là đánh trúng được. Tối đến, chàng không đủ sức để giơ tay lên nữa.
Sau nửa tháng, Barah lại xếp mười hai túi lúa mì rồi lên xe lừa.
- Mang đến máy xay Aata, xay thành bột. Đừng có quên chiếc roi da. Nhưng con phải nhớ điều này: con không có quyền dùng roi vì tức giận hay để trả thù, con chỉ được dùng nó để tự vệ mà thôi.
Khi chiếc xe lên đường Sarah chạy vào phòng riêng, nằm gục xuống giường khóc nức nở. Barah, ông làm điều ông đã bao nhiêu năm nay không làm: ngồi trong chiếc ghế bành ưa thích nhất, ông đọc Thánh Kinh.
Khi rời Aata về, Ari lại rơi vào ổ phục kích cũng vẫn do tụi du đãng ấy tổ chức. Nhưng lần này chàng đề phòng rồi. Ngay khi các viên đá đầu tiên rơi xuống gần xe, chàng phóng ngay xuống đất đi lùng tên chúa đảng, tay cầm roi da. Vù một cái, sợi da dài đã quấn quanh thân tên Ả Rập, nâng bổng hắn lên, quật xuống đất. Ngay lập tức Ari gỡ roi ra và đánh một nhát thứ hai xuống làm tung da thịt. Mười giây sau, chàng làm chủ chiến trường.
Ở Yad El, Barak bắt đầu lo ngại: hoàng hôn xuống rồi và Ari chưa trở về. Sau cùng, ông thấy chiếc xe xuất hiện trên đường. Ông bình tĩnh uể oải tien ra bờ rào:
- Thế nào Ari! Mọi sự ra sao?
- Tốt đẹp lắm bố.
- Để bố mang các túi bột xuống. Con phải lên thăm mẹ ngay. Mẹ con đang lo lắng lắm, bố cũng chẳng hiểu rõ tại sao...
Năm 1930, các rối loạn đã gần như ngừng hẳn. Vả lại đa số các làng Ả Rập thoát khỏi ảnh hưởng của mufti, đã khước từ tham gia vào các vụ rối loạn đó.
Ari Ben Canaan càng ngày càng giống bố. Cũng cao lớn, khỏe mạnh như Barak, chàng cũng thừa hưởng tính bình tĩnh cùng lòng bướng bỉnh lạnh lùng của bố.. Hoàn toàn tin rằng một sự sống chung hòa thuận thành thật với người Ả Rập có thể có được, chàng vẫn có bạn thân là Taha, con trai của mouktar làng Abou Yesha.
Từ vài tháng nay, chàng yêu cô gái con trại chủ lân cận. Và nàng Dafna cũng chỉ để mắt tới chàng, tất cả mọi người đều tin chắc hai người sẽ lấy nhau trong vài năm tới. Khi ấy hai người sẽ là đôi lứa điển hình cho thế hệ mới của Palestine, thế hệ sinh trưởng ở trong xứ. Ngay từ bây giờ, Ari, mười lăm tuổi, đã là đoàn viên Haganah, đoàn dân vệ, và Dafna, mười ba tuổi, đã biết xử dụng năm sáu thứ vũ khí khác nhau. Cả hai đều kiêu hãnh khỏe mạnh và ý thức rõ nhiệm vụ định mệnh đã trao phó cho mình.
Một thời gian sau khi các vụ rối loạn chấm dứt, vị mufti, được sự của người Anh khuyến khích, âm thầm cho triệu tập một đại hội quốc tế Hồi giáo. Trước rất nhiều đại diện đã tới Jérusalem, ông tuyên bố thành lập một Liên bang (dĩ nhiên do ông chỉ huy) và tuyên bố quyết định cứu Hồi giáo khỏi nỗi hiểm nguy là người Anh và Do Thái.
Mới nhìn thoáng qua, tưởng chừng các lời lộng ngôn của các chính khách mị dân Ả Rập sẽ không có hiệu quả thực tế nào, nhất là bây giờ đoàn Haganah đã đủ mạnh để hãm bớt sự hăng hái của mufti cùng thủ hạ. Tuy thế, ngay từ 1933, tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng hơn vì sự kiện Hitler cùng đảng Quốc Xã lên cầm quyền ở bên Đức. Trước viễn ảnh một đợt sóng di cư mới cùng lời đe dọa sẽ tổng đình công của người Ả Rập (để phản đối đợt di cư nếu có ấy), người Anh quyết định áp dụng các khuyến cáo của ủy ban điều tra: giới hạn số chiếu khán cấp phát và việc mua đất của các tổ chức Do Thái. Cũng vì thế, ngay vào lúc hàng chục ngàn người Do Thái Âu châu tìm kiếm tuyệt vọng một quốc gia nhận cho mình tị nạn, thì Anh quốc, để quên lãng lời hứa, đã đóng cửa các biên thùy của Palestine.
Dân Do Thái, qua trung gian là Haganah, phản ứng lại bằng phương sách hoạt động duy nhất còn lại: xử dụng các tay phá phong tỏa của tổ chức Mossad Aliyabet. Nhưng không may là vị mufti, xử dụng không biết xấu hổ một thứ áp lực gần như là xăng-ta, tranh đấu hăng hái đến nỗi người Anh sau cùng đành trao phó cho Hải quân Anh nhiệm vụ ngăn chặn các tàu của Mossad. Mufti hết sức mừng rỡ, không những vì người Anh cố gắng tối đa để ông khỏi bị vất vả gì hết, mà còn tìm thấy ở Hitler một bạn đồng minh mạnh không ngờ đến. Nuôi nhiều tham vọng lớn trong vùng Trung Đông Đức coi vị mufti này như một tay tuyên truyền rất tốt. Ở Caire và Damas, tiền bạc quốc xã tung ra như suối. Hỡi những người Ả Rập, Đức quốc là bạn của các bạn! Đất Ả Rập của người Ả Rập! Hãy tống cổ tụi Anh và đồng bọn Do Thái ra ngoài!
Trước cơn bão tố sắp sửa xảy ra, cộng đồng Do Thái Palestine chỉ có một lợi điểm, nhưng đáng kể: Haganah với hai mươi lăm ngàn nam nữ tổ chức được một đoàn dân quân do chừng hai mươi lăm đến ba mươi “sĩ quan chuyên nghiệp” chỉ huy, một cơ quan phản tình báo hết sức hiệu lực, trông cậy sự hợp tác thành thật của nhiều quân nhân Anh, và nương dựa vào sự tham nhũng tiền bạc đến mức độ mua chuộc dễ người Ả Rập. Mỗi thành phố, mỗi làng, và đến từng kibboutz; và moshav nhỏ nhất, cũng đều có các đơn vị dân vệ. Nhờ một bản mật mã, tư lệnh Haganah trong khoảng thời gian vài phút, có thể động viên hàng trăm nam nữ đến những nơi tồn trữ súng giấu diếm rải rác khắp xứ.
Mua từ khắp trên thế giới, các vũ khí được nhập nội Palestine bằng cả trăm ngàn phương cách khác nhau. Thí dụ như trong xe hủ lô chẳng hạn: một hủ lô thôi có thể chứa dễ dàng trăm khẩu carbine. Còn về đạn dược, mọi người giấu trong các kiện hàng, đồ hộp ngay cả tới trong các chai rượu vang nữa. Người Anh chỉ có thể ngăn chặn sự nhập nội bất hợp pháp này bằng cách kiểm soát tất cả các món hàng nhập cảng, nhưng làm như thế là hóa ra đình chỉ nhập cảng luôn. Và hơn nữa vì nhiều người Anh sẵn lòng quay mặt đi chỗ khác khi thấy một kiện hàng khả nghi...
Tuy vậy, mặc dù sự tham dự tích cực của dân chúng Do Thái, hiển nhiên là việc nhập cảng lậu không cho phép đưa vào các vũ khí nặng cùng số vũ khí tối tân đủ dùng cho cá nhân. Đa số các vụ mua súng ở ngoại quốc đều chỉ là súng trường, carbine, súng lục biến cải hay cổ lỗ. Không có một kho vũ khí nào trên thế giới lại linh tinh tạp nham cho bằng kho vũ khí của Haganah. Để chấn chỉnh một phần nào tình trạng này, các cơ xưởng chế tạo vũ khí lậu được thành lập ngay ở Palestine để chế tạo các loại súng cối, đại liên, trung liên và lựu đạn. Còn về chỗ giấu, không thành vấn đề, một khi vũ khí đã được nhập nội rồi, bất cứ ngăn kéo, tủ lạnh, giường tủ nào cũng có thể giấu được vài ba khẩu, chưa kể các sàn nhà, cửa giả hay tường rỗng. Còn về vấn đề chuyên chở, mọi người cũng không khó tính. Các vũ khí đi “phiêu du” trong các bánh xe sơ-cua của xe vận tải, ở dưới các cần xé thực phẩm, các xọt chồng chất trên xe lừa. Và biết người Anh tính e thẹn, Hagana không ngần ngại trao vũ khí cho đàn bà giấu dưới váy mang đi.
Còn lại vấn đề huấn luyện quân sĩ. Trong địa hạt này cũng như trong việc khai hoang, chính các kibboutz đã giải quyết được nhờ ở cơ cấu tổ chức cộng đồng của họ. Không có gì dễ cho bằng gửi hai mươi hay ba mươi quân nhân trẻ trà trộn vào bốn trăm năm trăm người trong một nông trường, lập các kho giấu vũ khí chính tại đó, cũng như thiết lập các công binh xưởng bí mật. Và đa số các cấp chỉ huy của Haganah cũng đều xuất phát từ các kibboutz.
Tất cả các tổ chức này, do Avidan thực hiện trước mũi người Anh, rút sức mạnh từ sự kiện là không một người Do Thái nào nghĩ tới việc phủ nhận quyền bính của ông hết. Người ta không bàn cãi một mệnh lệnh của Haganah, ngươi ta chỉ thi hành thôi. Tuy thế, ở trong Bộ Tư lệnh, lại có những chia rẽ quan trọng. Đối với Avidan và các cấp chỉ huy cựu trào, Haganah chỉ xử dụng tới võ lực khi cần tự vệ mà thôi. Sự dè dặt này mỗi ngày càng làm khó chịu phe tích cực ủng hộ việc trả đũa chớp nhoáng mỗi khi có bất cứ khiêu khích nào. Trong số những người thuộc thành phần này, Akiba - chính thức ra chỉ là một người làm nghề chăn nuôi khiêm tốn ở kibbotz Ein Or, không chính thức ra thì là kẻ đặc trách quân sự tỉnh Galilée - có một uy tín lớn đối với một số đàn em. Khi người Anh công bố phong tỏa bờ biển Palestine, Akiba cho rằng thời kỳ cũ xưa đã qua rồi. Ông tụ họp một số người đồng quan điểm, và các tay nổi loạn này đã có một quyết định làm rung chuyển cộng đồng Do Thái.
Mùa xuân 1934, Barak Ben Canaan được Avidan yêu cầu tới gặp Bộ Tư lệnh của Haganah đặt tại Jérusalem.
- Một tai họa xảy đến cho chúng ta, Barak. Akiba đã rời khỏi Haganah, lôi cuốn theo nhiều đơn vị trưởng tài ba nhất của chúng ta. Và hàng trăm dân vệ khác cũng sắp noi gương Akiba.
Barak thốt lên một tiếng thở dài.
- Chúng ta chờ chuyện đó xảy ra chứ: Akiba nói tới việc này từ nhiều năm rồi. Tôi chỉ ngạc nhiên là tại sao chú ấy có thể chịu nhịn được cho tới giờ phút này. Chú ấy uất ức kể từ ngày ông cụ chúng tôi bị bọn học sinh trung học ở Jitomir giết chết. Và chú cũng chưa bao giờ quên được vụ vợ con bị giết.
Avidan nhún đôi vai u:
- Anh cũng biết là một nửa công việc của tôi trong Haganah là kìm bớt tính sốt ruột điên rồ của các người trẻ. Nếu chúng ta để cho họ làm theo ý muốn, ngay ngày mai họ sẽ tuyên bố khai chiến với Đế quốc Anh! Các tính tình của anh, của tôi, của Akiba chắc chắn đều giống nhau như hệt, nhưng ông em anh dám phá hủy công cuộc của chúng ta. Một trong những lý do cắt nghĩa tại sao cho tới giờ phút này chúng ta đã làm được bao nhiều là việc đó chính là thứ mặt trận thống nhất chúng ta đưa ra đương đầu với địch, mặc dù các bất đồng bên trong. Bây giờ Akiba và các thành phần tích cực quá đáng ấy sẽ làm vỡ sự thống nhất. Nếu họ tung ra các hoạt động đặc công, tất cả cộng đồng Do Thái sẽ lãnh đủ hết.
Barak rời Jérusalem để tới Ein Or. Nông trường này, như mọi kibboutz đã thành lập được lâu, trông như cả một khu vườn. Với tư cách cựu trào, Akiba được sống riêng biệt trong một nhà riêng hai phòng đầy những sách. Ông cũng còn quyền, hết sức là đặc biệt, có riêng một máy phát thanh. Trong khung cảnh yêu dấu, Akiba có thể sung sướng nếu ông đã tìm cách giải thoát khỏi bóng ma ám ảnh của vợ và con đã bị giết chết.
Ngay từ những lời nói đầu tiên của Barak, Akiba đã lộ rõ một vẻ nóng nảy giận dữ. Hiển nhiên là ông sợ vụ phải cắt nghĩa trình bày này với anh ruột.
- Tôi thấy là quý ông trong Trung ương đã gửi anh tới đây để nước mắt ngắn dài với tôi. Tại sao mấy ông bự đó không thân chinh lại đây? Mấy ông đó hẳn rất thạo nghệ trong việc xoa dịu thiên hạ mà.
Barak trả lời:
- Tôi vẫn cứ lại đây dầu họ không yêu cầu. Ngay từ lúc tôi biết chuyện điên rồ của chú....
- Điên rồ? Tôi chỉ làm những gì mà Trung ương sợ không dám làm thôi. Nhưng sớm hay muộn, ngay mấy ông giáo chủ quá thận trọng với bất cứ giá nào đó cũng sẽ bắt buộc phải nhìn thẳng vào thực tại. Người Anh là kẻ thù của chúng ta....
- Tôi không tin thế chút nào, chú Akiba. Xét chung, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp dưới triều đại của người Anh. Dầu thế nào người Anh cũng là chính quyền hợp pháp ở Palestine.
Akiba mỉa mai:
- Một chánh quyền sẵn sàng cắt cổ chúng ta. Những quý vị hào hoa phong nhã trong Trung ương đi hết từ hội nghị này sang hội nghị khác, một cái cặp đầy căng giấy tờ cắp nách, đọc các bài diễn văn, cúi mình chào và cười cười, trong khi tên mufti cùng các tay sát nhân của hắn tự do hành động. Anh có thấy tại Ả Rập chịu điều đình với chúng ta không?
- Chúng ta vẫn tiếp tục các mục tiêu của chúng ta bằng các con đường hợp pháp.
- Chúng ta chỉ có thể đạt tới các mục tiêu đó nếu chúng ta chiến đấu thôi!
- Cứ cho là thế đi! Nhưng nếu chúng ta bắt buộc phải chiến đấu, thì chúng ta hãy cùng tiến bước dưới cùng một lá cờ. Chú, khi chú thành lập đoàn quân ngoài vòng pháp luật như thế, chú tự xếp chú ngang hàng với tên mufti. Chú có bao giờ nghĩ tới các hậu quả do sự ra khỏi Palestine của người Anh sẽ mang lại không? Dù sự chua chát của chú (và cả của tôi nữa) có lớn tới đâu đi nữa, thì người Anh vẫn còn là may mắn lớn nhất cho chúng ta để đạt tới qui chế Quốc gia một ngày kia.
- Chúng ta sẽ trở thành một quốc gia theo cùng cách thế chúng ta đã khai hoang: bằng mồ hôi và bằng máu của chúng ta. Về phần tôi, tôi chán ngồi móc meo trong cái xó này đợi người Anh ném cho chúng ta hạt cơm thừa miếng canh cặn.
Barak phải cố gắng mới kiềm chế nổi mình:
- Chú Akiba, lần chót tôi yêu cầu chú đừng làm như thế. Làm vậy chú chỉ mang lại cho kẻ địch của chúng ta cơ hội để bôi nhọ vu cáo chúng ta thêm mà thôi...
Akiba kêu lên:.
- À, vậy thế hả! Sau cùng, chúng ta đã đến tận cùng của vấn đề rồi đây. Bao giờ cũng cái bản nhạc cũ rích ấy hả? Một Do Thái phải tuân theo “luật chơi”, một Do Thái thì phải cầu xin, phải kêu gọi tới tình nhân đạo, một Do Thái là phải giơ má ra...
- Chú im đi!
Akiba hét lên:
- Tôi không im! Các anh ấy à, các anh chỉ có mỗi một nguyên tắc thôi: chúng ta làm gì thì làm nhưng đừng có chiến đấu. Tụi Đức, tụi Ả Rập, Anh coi các anh như các đứa trẻ con thiếu giáo dục cũng là quá ghê rồi.
- Tôi nói với chú là chú im đi.
- Thật thế hả? Anh Barak, anh là cái đồ Do Thái ghetto... các anh là thế đấy, cả các quý vị trong Trung ương nữa. Này đây, ông anh yêu quý của tôi nghe đây, tôi, tôi có thể lầm lẫn, nhưng tôi muốn sống. Mặc kệ tất cả thế giới có cho ước muốn này của tôi có là sai lầm chăng nữa!
Bây giờ đến lượt Barak run lên vì tức giận. Ông đứng dậy, giận dữ, căng thẳng, tiến ra phía cửa. Đằng sau ông, Akiba tiếp tục thốt hết ra những hận thù:
- Anh hãy nói với tất cả các kẻ chuộng ăn nói rằng Akiba cùng các Macchabée (Thây ma) có một thông điệp xin gởi tới người Anh cùng Ả Rập: “Mắt đổi mắt, răng đổi răng!”
Đứng trên ngưỡng cửa, Barak quay đầu lại:
- Thế đủ rồi! Từ giờ chú không được đặt chân vào nhà tôi nữa, không bao giờ.
Akiba sững người. Môi ông bắt đầu run lên, mắt mờ đi, nói nhỏ, không tin:
- Không bao giờ được đặt chân vào nhà anh? Anh Barak, coi kìa, chúng ta là anh em... Anh đã mang tôi trên lưng từ Nga về Palestine này...
-... Để ngày nay hối tiếc đã làm như thế.
- Vậy anh muốn kết tội tôi chỉ vì tôi hành động theo lương tâm tôi?
Nhìn thấy Barak đặt tay lên chốt cửa, Akiba đột nhiên lại tức giận:
- Barak Ben Canaan, anh nghe lời chót đây: Không một hành động nào của chúng ta, dù cao quý hay bất xứng, lại có thể nặng nề cho bằng những hành động thiên hạ đã làm đối với dân tộc Do Thái. Ngày mai đây, cho rằng các Macchabée có nổi điên lên nữa đi nữa, thì thử hỏi mọi người lấy quyền gì mà trách cứ một khi dân tộc Do Thái đã bị hành hạ suốt hai ngàn năm?