Chương 15

     ri, được bổ nhiệm chức trung úy, được trao phó phụ trách các cuộc hành quân du kích. Đa số thanh niên thanh nữ dưới quyền chàng chưa đạt tới tuổi trưởng thành. Còn về các sĩ quan, đó là các tay “cựu trào” mà tuổi trung bình vào khoảng trên dưới hai mươi lăm. Đó là một đoàn quân rất đặc biệt, không đồng phục không phù hiệu, con trai cũng như con gái đều được huấn luyện y như nhau, một sự huấn luyện căn cứ trên một ý nghĩa sâu xa về định mệnh đã ghi trong Thánh kinh về dân tộc họ.
Trong hàng quân, có hai người đã chứng tỏ có nhiều đức tính nên được bổ nhiệm làm các trưởng đoàn, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ari. Người thứ nhất, Zev Gilboa, là một nông dân miền Galilée, thấp, khỏe, nặng nề, có một bộ ria vĩ đại đen thẫm. Người thứ hai, David Ben Ami, một sinh viên ở Jérusalem, nhỏ bé và nóng nẩy, có một khuôn mặt linh hoạt, các nét nhiệt thành và nhậy cảm. Cộng chung cả hai người, chưa được bốn mươi tuổi.
Một ngày kia, trại được tướng Haven-Hurst đến thăm. Trong khi đi thanh tra, viên tướng Anh đã có thể nhận thấy sự hiện diện của ông không hề gây ra một niềm phấn khởi nào. Không hề bối rối vì thế, ông cho gọi Ari đến bộ chỉ huy trại.
- Trung úy Ben Canaan, trung úy hãy ngồi xuống. Trước hết tôi muốn khen ngợi anh: anh đã làm được công việc rất tuyệt hảo với các lực lượng của Palmach.
- Xin cám ơn đại tướng.
- Tôi đã nghiên cứu hồ sơ của anh, nói cho đúng hơn, các chặng trong đời sống của anh. Một đời sống rất phong phú.
- Những trường hợp bất hạnh cùng sự thù nghịch bao quanh chúng tôi đã bắt tôi phải sống một cuộc đời như thế. Thực ra thì tôi thích yên tĩnh hơn xáo trộn: tôi thích được sống như nông dân.
Haven-Hurst không để ý đến lời chàng.
- Tôi tới thăm trại này chính ra để có dịp nói chuyện với anh. Tôi muốn anh tình nguyện nhận một nhiệm vụ đặc biệt. Tôi biết là anh đã chỉ nhập ngũ với điều kiện để huấn luyện cho Palmach thôi, nhưng chúng tôi cho rằng vụ này khá khẩn cấp để biện minh cho một sự sửa đổi thái độ cần thiết.
- Thưa đại tướng, tôi là quân nhân trong quân lực Anh quốc. Vậy tôi sẽ nhận tất cả các nhiệm vụ mà thượng cấp sẽ trao phó cho tôi.
- Tốt lắm. Đây, tóm tắt vấn đề như sau. Kể từ một thời gian gần đây, quân Đức tích trữ quân cụ ở Syrie. Chúng tôi e rằng họ sẽ tấn công Palestine trong mùa xuân này. Vậy mà vì không có khai chiến với chính phủ Vichy, chính chúng tôi không thể nào tung ra một cuộc tấn công phòng ngừa chống lại Syrie được. Ngược lại chúng tôi có đủ các lực lượng Pháp Tự do(1) cần thiết nhưng với điều kiện là chúng tôi có thể chuẩn bị cho họ can thiệp bằng cách cung cấp những tin tức thật chắc chắn và đầy đủ. Chính vì cuộc hành quân này mà chúng tôi đã nghĩ tới anh: một mặt vì anh biết rõ Syrie và Liban, sự hiểu biết do từ thời kỳ anh còn ở Ha Mishmar, một mặt khác bởi vì anh nói thông thạo Ả-rập. Chúng tôi muốn anh sẽ thu thập các thanh niên đã từng ở Ha Mishmar với anh rồi trở lại miền đó, dùng kibboutz như căn cứ xuất phát. Một khi cuộc tấn công của chúng tôi được phát động, anh sẽ có các nhiệm vụ khác. Kể từ bây giờ, tôi có thể hứa thăng cấp đại úy cho anh.
- Tôi thấy có một trở ngại, thưa đại tướng.
- Trở ngại nào?
- Đa số các bạn đồng đội của tôi ở Ha Mishmar đã bị cảnh sát của đại tướng bắt nhốt.
Haven-Hurst đỏ bừng mặt.
- Tôi sẽ ra lệnh tha họ ngay lập tức.
- Xin cám ơn đại tướng. Một điều khác: ở đây tôi có hai quân nhân hữu hạng. Tôi mong được đưa họ tới Ha Mishmar và xin cho họ được chuyển sang quân lực Anh.
- Chấp nhận hoàn toàn.
Ari đứng dậy, chào và tiến ra cửa. Trên ngưỡng cửa, chàng quay lại:
- Nếu đại tướng cho phép tôi được góp ý kiến, thì bây giờ đúng là lúc tiến đánh Syrie. Cuộc hành quân này sẽ mang lại cho Lộ quân VIII khoảng thời gian cần thiết để rút lui sang Ấn-độ.
Haven-Hurst nhìn thẳng vào Ari bằng ánh mắt lạnh như thép.
- Ari Ben Canaan, không cần phải nói anh cũng biết rằng một ngày kia chúng ta sẽ gặp lại nhau, nhưng mỗi người một bên chiến tuyến.
- Thưa đại tướng, chúng ta đang là như thế rồi.
Đi cùng Zev Gilboa và David Ben Ami, Ari lên đường đi Ha Mishmar, trái đồi cao đối với chàng đã ghi bao nhiêu là kỷ niệm thê thảm. Trong một thời gian ngắn, chàng đã đứng đầu năm mươi chiến binh lão luyện của Haganah, trong đó có nhiều kẻ đã từng phục vụ trong quân lực Anh ở các xứ xa xôi.
Các toán tuần thám Ari tung ra trong lãnh thổ Syrie đã liều lĩnh tiến đến tận Damas. Vì chiến dịch tấn công cần phải bất ngờ hoàn toàn, chàng cần phải hành động hết sức thận trọng để địch khỏi nghi ngờ. Ari xử dụng phương pháp vừa giản dị vừa hiệu lực. Đa số quân của chàng nói thạo tiếng Ả-rập cùng am tường địa thế, chàng cho họ ăn mặc như dân bản xứ để gửi họ lên đường công khai giữa ban ngày: họ chỉ còn việc mở mắt trông và lắng tai nghe. Nhưng dẫu sao phương pháp này cũng có vẻ không đủ để khám phá đến nơi đến chốn những đô thị lớn như Damas và Beyrouth. Đó là một công việc hết sức tế nhị cần đến một hành động cá nhân: là một người có thể đến vào bất cứ nơi đâu mà không bị nghi ngờ. Ari tham khảo Haganah và thượng cấp ở đây đã tìm ra được một con chim hiếm, đó là một chàng trai mười bẩy tuổi, tên Joab Yarkoni.
Đó là một người Do-thái Ma-rốc, sinh quán tại Casablanca, vóc người nhỏ bé, can đảm, táo bạo, có bộ óc khôi hài “cao độ” trong bất cứ hoàn cảnh nào. Với da mặt xạm nắng và đôi mắt đen lớn, hắn có thể ngụy trang thành bất cứ người Ả-rập nào. Joab nói:
- Đi coi xem có gì trong các đô thị đó hả? Không có gì dễ hơn. Tôi sẽ mang về tất cả những tin tức gì anh muốn.
Joab Yarkoni đã giữ lời. Đi từ biên giới tới Damas, từ Damas tới Beyrouth, từ Beyrouth đến Tyr, hắn trở về Ha Mishmar sau ba tuần lễ. Những tin tức hắn thâu thập được cho phép mọi người biết rõ quân lực Vichy đến nỗi chỉ sai chừng nửa đại đội là cùng.
Một cách kín đáo, các lực lượng Pháp Tự do tiến vào Galilée rồi dàn ra dọc biên thùy Syrie.
Một nhóm người của Palmach - tổng cộng chừng năm chục - bị sát nhập vào một đoàn đặc công được tuyển lựa kỹ càng, gồm toàn các tay chuyên viên về mìn và chất nổ. Lực lượng này, chia làm ba nhóm xung kích, được trao phó nhiệm vụ tiến vào lãnh thổ Syrie và Liban trước khi có trận đánh để chiếm cứ một số trục giao thông cùng các cây cầu chiến lược, tử thủ tại đó cho tới khi quân lực đồng minh tiến tới nơi.
Nhiệm vụ nguy hiểm nhất được trao phó cho toán của Ari. Chàng phải dẫn ba mươi người của chàng đi dọc theo duyên hải Liban, tiến đến gần một đạo quân của chính quyền Vichy và ngăn cản đạo quân này tổ chức phòng thủ chừng sáu cây cầu trong vùng núi, một sự phòng thủ có thể làm quân Pháp Tự do phải ngừng tiến quân. Ari mang theo Joab, Zev và David. Ngoài ba trung sĩ này, chàng còn có mười sáu người Do-thái và mười người Úc nữa.
Khởi hành hai mươi bốn giờ trước ngày N, họ đi ngược bờ biển rất nhanh nhờ am tường địa thế, liên tiếp vượt qua sáu cây cầu, chiếm một hẻm núi gần đạo quân của Vichy đồn trú ở Fort Henried. Rồi sau khi chôn mìn trên đường, chọn vị trí đặt các khẩu liên thanh, họ chờ quân đồng minh tiến đến.
Nhưng, như thường thấy xẩy ra trong một cuộc hành quân loại này, đã có một kẻ nào đó đã phạm lỗi lầm. Cánh quân phía đông, đã phát xuất từ Transjordanie mười hai tiếng đồng hồ quá sớm, tiến thẳng về Damas, làm mất luôn yếu tố bất ngờ.
Đối với Ari, sự kiện đó có nghĩa là chàng bắt buộc phải tử thủ hẻm núi đó không những trong ba hay bốn tiếng cần thiết để đại quân đồng minh tiến đến, mà còn phải giữ thêm mười hai giờ nữa.
Viên chỉ huy quân sự Vichy ở Fort Henried không để mất thì giờ. Vừa được báo động, ông đã tập trung hai tiểu đoàn có thiết giáp và pháo binh yểm trợ, khởi hành dọc duyên hải để đi phá các cầu trong miền núi. Khám phá ra tiền quân địch, Ari hiểu là đã có gì trục trặc xẩy ra. Ngay lập tức, chàng gửi ngay Zev và David về biên thùy Palestine để cầu viện.
Tiến vào hẻm núi không nghi ngờ gì, đạo quân của Vichy bị thiệt hại khá nặng vì các liên thanh bắn từ cạnh sườn và các trái mìn nổ tung dưới chân. Họ lùi lại, tập trung rồi cho pháo binh bắn như mưa.
Sáu giờ ghê gớm trôi qua trước khi một tiểu đoàn Pháp Tự do tới tăng viện kịp. Hẻm núi vẫn giữ được. Tất cả các cuộc xung phong đều đã bị đẩy lui. Và trên đèo nằm rải rác hơn bốn trăm xác quân sĩ của quân lực chính phủ Vichy.
Trong đoàn đặc công của Ari, chỉ còn có năm người sống sót. Chính Ari cũng hầu như hấp hối. Lưng chàng đầy mảnh đạn, hai viên đạn nữa nằm trong người, một chân và mũi bị gẫy. Đối với chàng, chiến tranh chấm dứt ở đây.
Một xe tải thương đưa chàng về Palestine. Trong khi quân lực Pháp Tự do hoàn tất công cuộc chiếm cứ Syrie, Ari phải chịu cực hình gắp từng mảnh đạn ra, rồi sau đó là một thời kỳ dưỡng bệnh rất dài. Để tuyên dương công trạng của chàng, người Anh thăng chức thiếu tá và ban một huân chương cho chàng để tưởng thưởng chiến công ở hẻm núi.
Ari Ben Canaan đã tỏ ra xứng đáng với chính nghĩa của Đồng minh, như tất cả hàng ngàn đoàn viên phục quốc Do-thái khác.
Người ta thấy các Do-thái Palestine hiện diện trong các toán xung kích chuẩn bị chiếm Tobrouk và Bardia. Sau này, một trong những tiểu đoàn của Do-thái này đã tham dự vào cuộc tử thủ Tobrouk oai hùng. Họ chiến đấu ở Ý, ở Hy-lạp, đảo Crète, Hòa-lan.
Hàng trăm người trong họ thuộc vào các phi hành đoàn oai hùng của không lực Hoàng gia Anh. Trong một cuộc đột kích táo bạo, một đơn vị quyết tử của Do-thái đã phá hủy xưởng lọc dầu Tripoli, và sau đó không một người nào sống sót trở về. Có những người Do-thái Đức, mặc quân phục Đức, làm việc ở Tổng hành dinh của Rommel. Nhiều quân nhảy dù Do-thái được thả xuống các nước Trung Âu để sưu tầm tin tức và tổ chức phá hoại. Tại những nơi đây nữa, nhiều kẻ đã ra đi không về. Một thiếu nữ tên là Hanna Senesh, được thả xuống Hung-gia-lợi, bị cơ quan Gestapo bắt, đã trở thành một bậc anh thư của kháng chiến bởi vì mặc dù bị tra tấn tàn bạo vẫn không khai những nơi nàng tiếp xúc.
Các đoàn viên phục quốc Do-thái lập không biết bao nhiêu chiến công oai hùng, nhưng chính quyền Anh không hề muốn họ sau này sẽ dựa vào đó để đưa ra những nguyện vọng yêu nước. Do đó hậu quả là Luân-đôn cố tránh không nói gì đến các nỗ lực quân sự của Do-thái cả. Đến nỗi những nỗ lực này trở thành một trong những bí mật được giữ kín nhất trong chiến tranh.
Điều chờ đợi xẩy ra đã xẩy ra: chiến tranh chấm dứt, kẻ thù chung bị đánh bại. Anh quốc từ chối thu hồi lại Bạch thư. Mặc dù cả ngàn vụ phản bội của Ả-rập và đã không giơ đến ngọn ngón tay lên để góp phần vào chiến thắng, mặc dù các đóng góp anh hùng của các đoàn viên phục quốc Do-thái, mặc dù sáu triệu người Do-thái đã bị Quốc xã giết chết, người Anh vẫn giữ nguyên lập trường - không cho người Do-thái về Palestine.
Haganah, với một lực lượng bây giờ gồm nhiều chiến binh kinh nghiệm, đã bắt đầu bất mãn, xôn xao. Nhưng dù thế nào chính các Macchabée là những kẻ đầu tiên tuyên chiến lại với người Anh. Một loạt tấn công bằng chất nổ làm rung động cả xứ. Trong khi người Anh rút quân đóng vững trong các đồn Taggart, các Macchabée lần lượt cho nổ hết các cơ sở quân sự nầy đến cơ sở quân sự khác của người Anh.
Việc trả đũa thật tàn bạo. Tỏ ra một nghị lực không ai có thể ngờ được là có, tướng Haven-Hurst cho bắt giam và đầy sang Soudan cả trăm đoàn viên Macchabée. Tuy vậy, cơ quan an ninh không sao khám phá ra các nơi ẩn trú của các cán bộ của Akiba. Sau đó, Haven-Hurst cho đánh đòn bằng roi da tất cả những đoàn viên nào bị bắt về sau này, tại nơi công cộng. Đoàn Macchabée đáp lễ bằng cách bắt cóc quân sĩ Anh để rồi cũng đem ra đánh bằng roi da ở nơi công cộng.
Người Anh cho treo cổ các đoàn viên Macchabée và đoàn này cũng treo cổ những quân lính Anh bắt được. Rất nhiều viên đạn Do-thái đã bắn hạ sát các sĩ quan Anh công khai chống lại phục quốc Do-thái. Về phía người Ả-rập, họ cũng thực hiện nhiều vụ ám sát ghê tởm để đáp lễ các hành động của Do-thái. Từ bắc tới nam, Palestine sống run sợ dưới chế độ khủng bố.
Trong chuyến ngao du Âu châu, mufti đã có cái dại là tuyên bố mình là lãnh đạo tinh thần của các dân Nam-tư theo Hồi giáo đang chiến đấu trong hàng ngũ quân lực Đức. Khi chiến tranh chấm dứt, chính phủ Belgrade ghi tên ông vào danh sách những tội nhân chiến tranh. Mufti chạy trốn sang Pháp và bị chính quyền nơi này bắt giữ. Tuy vậy người Anh vẫn muốn duy trì ông để sau này có thể cần tới như một tay xách động ở Trung Đông. Bởi thế họ giúp cho mufti trốn thoát được sang Ai-cập, nơi đây ông được đón tiếp như một anh hùng của Hồi giáo. Trong thời gian này, ở Palestine, cháu ông là Jammal đã nắm lấy guồng máy chỉ huy cộng đồng Ả-rập.
Dầu thế nào, do sự suy yếu của Anh quốc, phần đất này của thế giới không còn chỉ ở dưới quyền kiểm soát của Anh nữa mà thôi. Mỹ đã đứng ra chuẩn bị thay thế, và dưới áp lực của Hoa-thịnh-đốn, Luân-đôn phải chấp nhận thành lập một ủy ban Mỹ-Anh đặc trách việc cứu xét vấn đề Palestine. Ủy ban này, sau khi điều nghiên tại chỗ và đã đi thăm tất cả các trại tập trung di dân Do-thái ở Âu châu đã đi đến một kết luận khả dĩ chấp nhận được: “Phải cho phép nhập nội ngay một trăm ngàn người Do-thái”.
Người Anh phản đối. Họ tuyên bố rằng một biện pháp như vậy chỉ có thể áp dụng được nếu người Do-thái phải giải tán vĩnh viễn luôn cả Haganah lẫn đoàn Macchabée. Ngoài điều kiện vô lý này, người Anh còn đưa thêm cả chục điều kiện nữa, điều nào cũng kỳ cục, được tưởng tượng ra cốt để khỏi phải chấp nhận đề nghị của ủy ban.
Bây giờ, chính “Trung ương” cũng không nhịn được nữa. Chính cơ quan đầu não này đã ra lệnh cho Haganah cùng Palmach thực hiện cả loạt đột kích vào các cơ sở vị trí của Anh. Áp lực căng thẳng mỗi lúc một tăng. Mang hàng mấy chục ngàn quân sĩ tới, người Anh thiết lập một chế độ cảnh sát trị không thua kém gì các chế độ chuyên chế đã có từ xưa đến nay. Trong một cuộc bố ráp khổng lồ, họ bắt hàng mấy trăm nhân vật của phục quốc Do-thái, đem an trí ở ngục Latrun. Để trả thù vụ bắt giam khổng lồ này, Haganah cho nổ tung tất cả những cây cầu dọc theo biên thùy Palestine.
Sau cùng, trong một bài diễn văn chống Do-thái rõ ràng, Ngoại trưởng của Anh hoàng tuyên bố đình chỉ toàn diện việc nhập nội Palestine của người Do-thái.
Câu trả lời của các Macchabée làm vỡ tai nhiều người. Vài hôm sau đó, khoảng một chục người ăn mặc như người Ả-rập, trao rất nhiều thùng sữa cho “Khách sạn Đức vua David”, một dinh thự lớn cánh trái được dùng làm Bộ Tư lệnh quân lực Anh. Các lính gác, không thể ngờ được đó là các thùng thuốc nổ, đã để cho họ đi qua. Các Macchabée mang các thùng xuống các hầm phía dưới cánh trái tòa nhà, điều chỉnh ngòi nổ theo thời hiệu đã định rồi ra về. Rồi một người trong bọn họ điện thoại cho Bộ Tư lệnh, khuyến cáo người Anh nên di tản cấp tốc ra khỏi tòa nhà đó. Dĩ nhiên là lời khuyến cáo này không được coi là đứng đắn. Hiển nhiên đây là một trò đùa làm cho quân lực Anh bị lố bịch. Đoàn Macchabée đâu dám hỗn láo đến độ cho làm nổ tung Bộ Tư lệnh Anh...
Mười lăm phút sau, một tiếng nổ lớn làm rung động cả đô thị. Khi những tiếng dội vào đồi núi chung quanh đã yếu bớt, mọi người nghe thấy một tiếng nổ rền. Đó là cả cánh trái của “Đức vua David” đã sụp đổ.
Chú thích:
(1) Lực lượng Pháp Tự do: hợp bởi các đơn vị cùng các quân sĩ Pháp không nhận quyền bính của chính phủ Vichy. Lực lượng này cũng như phong trào kháng chiến tại nội địa Pháp, đều đặt dưới quyền lãnh đạo của De Gaulle.