Chương 16

     au khi được xét lại, tân trang, tiếp tế đủ thực phẩm nhiên liệu, tầu Exodus đã sẵn sàng nhổ neo đi Palestine.
Ari đã ấn định ngày khởi hành và hôm sau lễ Chanoukah, mà cộng đồng Do-thái ở Chypre đã mở ra để khoản đãi các trẻ em trên sân thượng “Khách sạn Dôme”.
Các quan khách và thủy thủ đoàn đã được mời ngồi vào các bàn danh dự. Ba trăm trẻ em, mặc quần áo mới, vui vẻ ào vào các đống quà do lòng hảo tâm của dân đảo Chypre và của nhiều quân sĩ Anh tặng đã xếp đống sẵn từ nhiều ngày. Việc phân phát quà thực hiện rất nhanh: mỗi trẻ chỉ nhận một món quà thôi, phần còn lại dành cho các người còn bị giam giữ ở trại Caraolos. Sau đó là bữa ăn với các dẫy bàn dài đầy thực phẩm ngon lành. Đó quả là một giờ thần tiên của các đứa bé trai gái đã cương quyết tuyệt thực như người lớn và bây giờ đã lại có thể được làm trẻ con.
Lo lắng đưa mắt tìm bà bạn Kitty trong đám thực khách, Karen sau cùng sung sướng đã tìm ra nàng đang đứng tựa vào bao lơn cùng với Mark Parker.
- Cô Kitty, lại đây cô. Chỗ này còn chỗ cho cô.
Kitty lắc đầu.
- Không được đâu em. Hôm nay là ngày vui của các em chứ. Chúng tôi chỉ nhìn các em cũng đủ thích rồi.
Trên bàn danh dự, David Ben Ami đứng dậy và xin cử tọa im lặng. Chàng bắt đầu nói:
- Chiều hôm nay chúng ta cử hành lễ Chanoukoh ngày đầu để tưởng niệm Judas Macchabée cùng sáu em và một nhóm người can đảm đã từ vùng đồi Judée tiến xuống để chiến đấu chống lại kẻ áp bức Hy-lạp. Đó là một đoàn quân thiếu trang bị, ít ỏi đến mức khôi hài trước đạo quân Hy-lạp lúc đó đang thống trị thế giới. Nhưng đó là một đoàn quân có một niềm tin sâu xa mãnh liệt ở Thượng đế cùng sự trợ giúp của Ngài. Họ đã tấn công Jérusalem, chiếm đô thị này, tiến vào đền thờ lật đổ tượng Zeus và trả lại đền cho Đấng Vĩnh cửu duy nhất và toàn năng. Chính Đấng Vĩnh cửu này đã đang giúp đỡ chúng ta chống lại người Anh.
Chàng phải đợi các tràng vỗ tay tán thưởng chấm dứt mới tiếp tục thuật tiếp câu chuyện phục sinh của Do-thái. Kitty Fremont mê say lắng nghe. Nàng nhìn Karen, nàng nhìn Dov Landau. Nàng quay lại nhìn Mark - để nhận ra là tướng Sutherland đang đứng gần nàng. Mắt nàng hướng về phía đầu bàn danh dự - nhìn Zev Zilboa, người nông dân xứ Galilée, nhìn Joab Yarkoni, người xứ Ma-rốc bé nhỏ, David Ben Ami, người trí thức thành Jérusalem. Sau cùng mắt nàng dừng lại ở Ari Ben Canaan. Người thanh niên Palestine to lớn này, bây giờ mới có dịp để buông xả, có vẻ như muốn gục xuống vì mệt. Lần đầu tiên từ nhiều tuần lễ...
David lớn tiến đọc:
-... Hãy ghi nhớ điều này. Kẻ nào bảo vệ Israël không được lơ là, không được thiếp ngủ...
Kitty cảm thấy rùng mình lạnh lẽo từ đầu đến chân. Nàng không sao rời mắt khỏi khuôn mặt hốc hác của Ari Ben Canaan...
“Kẻ nào bảo vệ Israël không được lơ là, không được thiếp ngủ...”
Các động cơ tầu Exodus bắt đầu lịch kịch nổ máy chạy. Tầu rời ke, chậm chạp quay mũi vượt qua lối ra hải cảng, hướng về Palestine.
Rạng đông ngày thứ hai, tất cả, không ngoại trừ một ai, đều chờ đợi xuất hiện bờ biển đã ao ước biết bao lâu.
- Nhìn kia!... Đất Israël!
Sau đó là một tiếng kêu đồng loạt tiếng hét, vui mừng, tiếng khóc nức nở, tiếng cười và nước mắt.
Ở Haïfa, tầu Exodus cập bến là cả một biến cố. Cần phải thiết đãi những đứa trẻ đã từng làm xiêu cả Đế quốc Anh. Exodus tiến vào hải cảng giữa những tiếng còi hụ liên hồi, tiếng còi huýt đến như điên cuồng. Trên các ke, hai mươi lăm ngàn người hoan hô hết mình sự can trường của chiếc tầu nhỏ bé cùng các hành khách trên tầu. Người ta hầu như không nghe thấy bài ca chính thức của phong trào phục quốc Hatikvah (Hy vọng), do ban nhạc hòa tấu của Palestine cử hành.
Tầu Exodus đã hoàn tất chuyến viễn hành!