Chương 11

     au khi quá giang xe đến Jérusalem, Dov Landau tìm thuê một căn phòng tồi tàn trong khu Cổ thành. Rồi tuân theo đúng lời chỉ dẫn, chàng đến quán cà-phê Saladin, gần cửa Damas, để gửi chủ quán tên và địa chỉ của chàng cho Bar Israël.
Sau khi đem cầm ở một tiệm cầm đồ những nữ trang đã lấy cắp ở Gan Dafna, chàng đi thám hiểm thành phố. Đối với một tay cựu chuyên viên đi dưới ống cống như chàng, những đường phố ngõ hẻm nghèo của đô thị này không có gì là khó nhớ. Trong khoảng thời gian ba ngày, chàng biết rõ đến từng hẻm nhỏ trong khu buôn bán, kiến thức rất quí giá cho một kẻ phải sống còn bằng những gì ăn cắp được. Rồi sau khi đã mua chừng hai mươi cuốn sách về nghệ thuật, hội họa và kiến trúc cùng nhiều tờ giấy lớn và bút chì, chàng ở lỳ trong phòng.
Trong hai tuần lễ liền, chàng chỉ ra ngoài để mua thực phẩm. Từ sáng tới chiều, chàng nghiên cứu học hỏi như điên, chỉ đôi khi ngừng lại khi hình ảnh Karen hiện ra làm chàng không sao tập trung vào công việc được. Khi chạy trốn khỏi Gan Dafna, chàng không ngờ mình đã mang theo biết bao nhiêu là kỷ niệm, kỷ niệm nào cũng liên hệ mật thiết với Karen đến nỗi bây giờ, không có nàng, chàng đau đớn từ tâm hồn đến tận thể xác. Đôi khi, niềm đau dâng lên đến mức độ không sao chịu nổi, chàng vẽ khuôn mặt của Karen, qua từng nét mặt vui buồn của nàng. Rồi tức giận, chàng vò nát tờ giấy, ném vào một góc, không bao giờ chàng vẽ nổi vẻ đẹp duyên dáng của nàng.
Sau hết, sau hai tuần lễ, khi chàng ra ngoài để đi cầm vài thứ đồ linh tinh ăn cắp được ở một cửa hàng, một người đàn ông đang chờ đợi chàng. Tay xiết chặt khẩu súng bao giờ cũng để trong túi, chàng đi qua người lạ mặt, sẵn sàng quay phắt lại nếu có tiếng động nào khả nghi. Một tiếng nói cất lên, ra lệnh:
- Cấm động đậy, không được quay lại.
Dov đứng lại bất động.
- Chú đã hỏi thăm về Bar Israël. Chú muốn gì?
- Anh biết tôi muốn gì mà.
- Tên chú là gì?
- Dov, Dov Landau. Tôi từ Gan Dafna tới.
- Ai gửi chú tới đây?
- Mordéchaï.
- Chú đã vào được Palestine như thế nào?
- Bằng tầu Exodus.
- Tốt. Bây giờ chú tiếp tục đi thẳng, không được quay lại. Chúng tôi sẽ tiếp xúc với chú sau.
Ngày hôm sau, khi chàng vừa thiếp ngủ, có người tới gõ cửa. Ngay lập tức, chàng đứng dậy, súng lục cầm tay. Một giọng nói cất lên ngoài hàng lang.
- Bọn tôi là bạn của chú đây.
Dov đã nhận ra tiếng nói đó là của người đã nói với chàng hôm trước ở cửa khách sạn. Chàng mở cửa nhưng không nhìn thấy ai.
Giọng nói lại cất lên:
- Chú quay mặt vào tường đi.
Chàng tuân lời, ý thức được rằng sau mình có tới hai người. Một người bịt mắt chàng, cặp tay dẫn chàng ra đến tận xe. Chàng phải lên phía sau, nằm dài ra sàn xe, và phải chịu để mọi người phủ lên một cái chăn. Xe rồ máy chạy ngay lập tức. Tài xế có thể chẳng phải mất công chạy quanh co vòng vèo làm gì. Dov, tất cả giác quan vận dụng tối đa, từng quen thuộc với việc tìm đường trong các đường hầm cống tối đen, chàng xác định được lộ trình không khó khăn gì. Đường dốc lên này, hẳn là đường lên ngọn Olives. Đoạn đường êm và rộng này, chắc chỉ có thể nằm trên vùng phẳng ngọn Scopus, nơi có Viện Đại học Do-thái và Trung tâm Y khoa.
Sau cùng, xe dừng lại. Dov được dẫn vào một căn nhà và đẩy vào một căn phòng đầy những khói thuốc lá. Chắc phải có tới năm hay sáu người trong phòng. Mọi người cho chàng ngồi trên một chiếc ghế rồi thẩm vấn gắt gao trong hai giờ liền. Vừa trả lời cả ngàn câu hỏi, Dov, vừa hiểu được vài điều: nhờ ở các tình báo viên, các Macchabée đã biết được chàng là tay làm giấy tờ giả hữu hạng - tài năng mà họ lại đang cần nhất. Chắc những người đang thẩm vấn chàng thuộc vào bộ chỉ huy của tổ chức.
Một giọng cất lên:
- Tôi nghĩ rằng như thế đủ rồi. Cho hắn thề đi.
- Dov Landau, có một tấm màn trước mặt chú. Giơ hai tay lên để chúng tôi có thể đưa qua tấm màn.
Dov thi hành. Có người cầm lấy tay chàng, đặt một tay lên cuốn kinh thánh, tay còn lại trên khẩu súng lục. Rồi nhắc lại những lời mọi người đọc cho chàng, Dov tuyên thệ:
- Tôi, Dov Landau, tôi hiến dâng thân xác tôi, tâm hồn tôi, ý chí tôi cho Macchabée, Chiến sĩ của Tự do, không một hạn chế dè dặt nào. Tôi sẽ thi hành lệnh nhận được, lệnh sao thi hành vậy. Dù bị tra tấn hay bị giết chết, tôi cũng không khai tên các đồng chí cùng các bí mật tôi đã các biết. Tôi sẽ chiến đấu không ngừng chống lại các kẻ thù của dân tộc Do-thái, cho tới khi nào thành lập được một Quốc gia Do-thái nằm hai bên bờ sông Jourdain. Tôi sẽ chiến đấu theo khẩu hiệu: mắt đổi mắt, răng đổi răng. Tất cả những điều trên, tôi xin thề sẽ tuân theo trước sự chứng giám của Abraham, Isaac và Jacob, Sarah, Rébecca và Rachel, các bậc tiên tri cùng anh hồn của tất cả các người Do-thái đã bị giết chết.
Sau cùng, mọi người tháo khăn bịt mắt. Chàng nhìn thấy mình ở giữa sáu người đàn ông và hai người đàn bà đang nghiêm trọng đưa tay xiết chặt tay chàng. Ông già Akiba ngắm kẻ mới gia nhập với một nụ cười suy tư.
- Các kiến thức khá đặc biệt của chú rất quí giá cho chúng tôi. Chính vì thế chú mới được chấp nhận mặc dù chú chưa được huấn luyện theo thường lệ.
Dov phản đối:
- Cháu không gia nhập Macchabée để ngồi vẽ.
- Chú sẽ làm cái gì chúng tôi bảo chú làm. Chú lo thành lập một xưởng chế tạo mọi thứ giả mạo đủ loại. Nếu chú làm việc khá, thỉnh thoảng chú sẽ được tham dự vào một cuộc đột kích.
Thiếu tá Caldwell đang chơi bridge trong đại tiền sảnh của câu lạc bộ Sĩ quan Anh thì có người gọi điện thoại.
- Kính chào thiếu tá. Đây là văn phòng trung ương An ninh. Đứa con gái Do-thái mà chúng tôi thẩm vấn bây giờ đã sẵn lòng khai. Thanh tra Parkington mong có thiếu tá dự khán buổi lấy khẩu cung này. Chúng tôi đã cho một chiếc xe đến đón thiếu tá ở Câu lạc bộ.
- Tốt lắm.
Năm phút sau, Caldwell lên một chiếc xe nhà binh do một trung sĩ lái. Sau khúc quanh đầu tiên, xe thắng lại. Các cửa xe mở tung và ba người đàn ông nhẩy vào trong xe. Sau đó, xe lại rồ máy chạy hết sức nhanh.
Ba ngày sau, một toán quân tuần tiễu tìm ra thi thể thiếu tá Caldwell gần tường thành của Cổ thành. Trên áo ông có gắn bức hình quân Ả-rập đang giơ thủ cấp của Ben Salomon lên cùng với bản sao chụp lại lời thú tội đã giết Ben Salomon cùng hai binh sĩ Anh. Bản tài liệu thứ nhì này có ghi thêm một câu bằng bút chì: “Mắt đổi mắt, răng đổi răng.”
Trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ, một sự kinh ngạc lan tràn toàn xứ Palestine. Rồi sau đó các Macchabée được biết là thiếu nữ bị An ninh Quân đội bắt đã chết vì băng huyết, hậu quả trực tiếp của một cuộc thẩm vấn gắt gao trong ba ngày ba đêm bằng dùi cui. Tin tức này là dấu hiệu làm phát sinh một chiến dịch trả thù dữ dội. Trong khoảng thời gian mà sau này những Do-thái Palestine phải gọi là “Mười lăm ngày Địa ngục”, các cuộc đánh phá của Macchabée đã làm cho đạo quân đồn trú Anh chìm đắm trong máu lửa. Cuộc trả đũa của tướng Haven-Hurst cũng tàn nhẫn không kém: tuyên bố tình trạng giới nghiêm, bố ráp, khám xét, xử tử sau khi xét xử sơ sài. Vì Ủy ban Điều tra của Liên Hiệp Quốc có thể đến vào bất cứ lúc nào, tướng Haven-Hurst muốn chấm dứt một lần cho xong hoạt động của “Trung ương” Do-thái. Ông thân chinh chọn hai sĩ quan và bốn binh sĩ nổi tiếng là bài Do-thái ghê gớm và bắt họ thề giữ bí mật tuyệt đối. Rồi sau đó, ông trình bầy kế hoạch dự trù.
Tới ngày ấn định, “sáu vị anh hùng” này ngụy trang làm người Ả-rập. Hai người trong bọn họ lái một chiếc xe cam-nhông chở hai tấn chất nổ đến trước tòa nhà trụ sở của Quỹ Lập Nghiệp Do-thái. Tài xế cho xe dừng trước lối dẫn vào cổng, chận cứng tay lái lại, cài số một rồi mở ga. Sau đó hai người nhẩy xuống đất, chạy biến vào trong đám đông.
Chiếc xe húc nhẹ lên bờ hè chỗ cửa vào rồi đâm sầm vào cột bên trái cổng. Một tiếng nổ dữ dội làm rung động cả khu phố. Khi khói đã tan, tòa nhà sụp đổ tan tành.
Cùng lúc ấy, một ê-kíp thứ hai hai người cũng thực hiện một công cuộc tương tự chống lại trụ sở của “Trung ương” đúng lúc tại đây đang có một phiên họp của các cấp lãnh đạo chính của phục quốc Do-thái. Nhưng lần này, chiếc xe cũng húc vào bờ hè nhưng mạnh hơn nên xe đâm lệch mục tiêu. Vụ nổ sau đó chỉ phá hủy tòa nhà bên cạnh.
Đến một chỗ đã định trước, bốn người này lên hai chiếc xe chạy nhanh do các sĩ quan của “đoàn đặc công đặc biệt” cầm lái. Họ chạy sang xứ Transjordanie, quốc gia bù nhìn do người Anh kiểm soát.
Trong vài trăm người chết ở trụ sở Quỹ Lập Nghiệp, có Harriet Salzman, bà già Hoa-kỳ tám mươi tuổi đã từng thành lập các Trung tâm Thanh niên của Mossad Aliya Bet.
Các Macchabée hoạt động ngay lập tức để trừng phạt những kẻ có tội. Chưa đến một ngày, họ đã xác định được rằng “sáu tên Ả-rập kia” thực ra là quân sĩ Anh và kẻ có trách nhiệm thực sự về cả hai vụ tấn công phá hoại bằng chất nổ chính là đại tướng Haven-Hurst. Đánh bài liều xả láng, viên tư lệnh Anh đã đạt tới kết quả hoàn toàn ngược lại với những gì ông đã kỳ vọng: tức giận, uất ức, Haganah và Macchabée chẳng những đã không sợ, lại còn đi tới chỗ liên kết nhau nữa.
Cuộc gặp gỡ giữa hai bên được tổ chức vào lúc một giờ sáng, trong một cánh đồng dọc con đường đi Jérusalem. Một bên là Akiba và Moshé đại diện cho Macchabée, một bên là Avidan, tư lệnh có thẩm quyền của Haganah, và Zev Gilboa chỉ huy lực lượng xung kích Palmach. Không có bắt tay, trao đổi các lời xã giao gì hết. Đối diện với nhau, trong đêm tối, hai bên vào cuộc bàn cãi trong một bầu khí nghi ngờ toàn diện.
Trục trặc ngay từ lúc đầu: các Macchabée nghi ngờ Avidan muốn đặt lực lượng của mình hoàn toàn dưới quyền chỉ huy của ông ta mà thôi. Có các lời trách cứ phóng ra từ hai phía, và tinh thần căng thẳng lên cao dần cho tới khi Avidan, cắt ngang những lời phàn nàn của Akiba, đặt ra một câu hỏi dứt khoát:
- Các anh có chấp nhận hợp tác với chúng tôi hay không?
Ben Moshé lầu nhầu:
- Chúng tôi sẽ cố thử.
Mười lăm ngày sau, việc hợp tác này biểu lộ bằng một cuộc phát động hoạt động trên một tầm mức rộng lớn.
Trong nội một đêm, Haganah làm tê liệt toàn diện hệ thống hỏa xa ở Palestine. Đêm sau, các Macchabée xâm nhập vào sáu sứ quán và lãnh sự quán Anh vùng chung quanh Địa trung hải để phá hủy một khối lượng tài liệu vĩ đại người Anh xử dụng để chống lại sự nhập nội bất hợp pháp Palestine. Một đêm sau nữa, Palmach phá hoại các ống dẫn dầu từ Mossoul ra biển tại mười lăm địa điểm khác nhau.
Vấn đề còn lại là làm sao tiêu diệt được địch thủ chính của phong trào phục quốc Do-thái là đại tướng Haven-Hurst. Mới nhìn qua, đây là một công cuộc không thể nào thực hiện được. Trại Schnellner, tổng hành dinh của đại tướng này, là cả một pháo đài kiên cố do nhiều ngàn quân sĩ bảo vệ. Trong những chuyến xuất trại hiếm hoi, đại tướng được một đoàn hộ tống võ trang mạnh đến nỗi phải hy sinh hàng trăm Macchabée mới tấn công nổi.
Nhưng các trạm quan sát đặt chung quanh trại đã khám phá ra khe hở của bộ giáp sắt.
Những quan sát viên nhận thấy rằng cứ ba lần một tuần, một chiếc xe dân sự ra khỏi trại vào lúc giữa nửa đêm và một giờ sáng để rồi tờ mờ sáng mới trở về. Một vụ kiểm soát nhanh chóng cho biết rằng chiếc xe này thuộc một gia đình Ả-rập giầu có. Một mặt khác mọi người biết rằng bề ngoài, Haven-Hurst bao giờ cũng gentleman đến độ phát chán lên được, nhưng bên trong, bao giờ ông cũng có nhân tình. Thế mà không có một tin đồn đại nào là ông có liên hệ tình ái với một phụ nữ Âu châu cả. Ngược lại, trong gia đình Ả-rập sở hữu của chiếc xe bí mật kia, có một thiếu phụ khá xinh và khá thông minh để quyến rũ một người như Haven-Hurst. Từ đó đi đến một kết luận dễ dàng.
Người ta cho đặt thêm quan sát viên trước địa chỉ của gia đình Ả-rập. Những người này không mất công chờ đợi lâu. Ngày hôm sau, lúc nửa đêm, họ thấy thiếu phụ ra khỏi nhà để đến một căn nhà tọa lạc trong khu thượng lưu El Baqua. Nửa giờ sau, một chiếc xe dừng lại ngoài vòng rào căn nhà này và hình dạng rất dễ xác định là ai vội vã bước xuống, tiến vào nhà.
Ngay đêm hôm đó, vào lúc ba giờ sáng, Haven-Hurst bị đánh thức đột ngột bằng một giọng nói lớn dõng dạc:
- Hãy tán dương Đức Vĩnh cửu đã báo thù cho Israël!
Khi ông chồm ra khỏi giường, hàng tràng đạn tiểu liên quạt khắp phòng, cầm nhịp cho những tiếng thét kinh hoàng của thiếu phụ Ả-rập.
Vào buổi trưa, bộ Tư lệnh Anh được báo tin bằng điện thoại cho biết địa điểm đặt xác của vị Tư lệnh. Kẻ báo tin vô danh ấy còn thêm rằng mọi người đã cẩn thận chụp ảnh đại tướng vào lúc ông này qua đời, đang ra sao chụp y như vậy. Trong trường hợp người Anh báo thù bằng cách đàn áp dân Do-thái, các bức hình bệ rạc này sẽ được trao lại cho các ký giả ngoại quốc.
Và các vụ báo thù đã không xẩy ra.