Chương 13

     úc đó là một giờ sáng. Bruce Sutherland vừa mới thiếp ngủ trong chiếc ghế bành ông thích nhất thì người làm vào đánh thức ông dậy, loan báo là có một “tiểu thư” tới thăm.
Thấy Karen tiến vào, Sutherland dụi mắt.
- A! Cô bé. Cháu làm cái gì ở đây, vào giờ này? Cô Kitty có biết cháu tới đây không?
Mặt xanh xao, căng thẳng, thiếu nữ lắc đầu. Sutherland đưa nàng tới đi-văng ngồi.
- Chắc cháu cũng phải ăn cơm tối rồi chứ?
- Cháu không đói...
Sutherland ra lệnh cho người hầu:
- Mang một sandwich và một ly sữa vào đây.
Rồi quay lại Karen, ông hỏi:
- Bây giờ cháu vui lòng cắt nghĩa cho vì cớ gì tiểu thư lại tới đây.
- Cháu phải gặp anh Dov Landau. Trong tất cả những người cháu biết, chỉ có bác là giúp được cháu thôi.
- Hừm... được... chắc bác giúp được đấy, nhưng bác tự hỏi... một buổi gặp gỡ như vậy chỉ làm cháu khổ thêm thôi. Trong vài tuần nữa, cháu và cô Kitty sẽ rời xứ này rồi, tại sao cháu không cố quên chàng trai đó đi?
Karen cầu khẩn:
- Cháu van bác. Cháu biết cháu hiểu những điều bác nói. Nhưng kể từ khi anh Dov bị bắt, cháu không thể nghĩ tới ai khác được. Cháu phải gặp anh ấy. Hãy giúp cháu... cháu xin bác.
Sutherland càu nhàu.
- Được, được rồi. Để bắt đầu, bác sẽ điện thoại cho Kitty đã: chắc cô ấy đang điên vì lo lắng. Cháu kỳ thật đó, nửa đêm dám đi bộ đến đây qua một vùng toàn Ả-rập.
Sáng ngày hôm sau, Sutherland gọi điện thoại tới Jérusalem. Vị cao ủy không đợi nói tới lần thứ hai, nhận lời ngay. Biết đâu khi nói chuyện với Dov, Karen lại không thành công trong việc thuyết phục Dov chịu ký đơn xin ân xá. Vài giờ sau, sau khi ghé đón thêm Kitty, Sutherland và Karen đến đồn cảnh sát Naharya, nơi có một đoàn hộ tống võ trang đưa họ tới thẳng nhà tù Acre.
Sutherland và Kitty được mời ngồi đợi trong văn phòng quản ngục. Còn Karen, đi giữa hai người lính, vượt qua hàng loạt cửa bọc thép, băng qua một sân trong tường bao quanh có đục những ô nhỏ có chấn song. Nàng cảm thấy hàng trăm cặp mắt thèm khát của các tù nhân nhìn nàng đi qua, và nghe thấy những lời nói tục tĩu nữa. Nhìn thẳng về phía trước, đi như một người máy, nàng leo lên một cầu thang hẹp, đi qua một ụ đại liên đặt sau dây kẽm gai rồi dừng lại trước cánh cửa sau cùng có hai người lính súng lắp lưỡi lê đứng gác.
Mọi người đưa nàng vào một xà-lim nhỏ cùng một người lính. Cánh cửa đóng lại sau lưng nàng. Người lính mở một cái khe nhỏ chừng vài phân trong tường đối diện, cười khẩy bảo:
- Này cô nhỏ, cô có thể nói chuyện với hắn qua cái khe này.
Karen nghiêng người xuống. Nhìn qua hành lang phía bên kia, nàng thấy hai xà-lim: trong xà-lim thứ nhất có một ông già, xà-lim thứ nhì có Dov đang nằm ngửa nhìn lên trần. Một người lính gác đến mở cửa xà-lim của Dov.
- Đứng dậy, Dov Landau. Mi có người tới thăm kìa.
Để thay cho câu trả lời, Dov lấy một cuốn sách và mở ra đọc.
- Mi điếc hả? Có người tới thăm kìa.
- Xin anh nói giùm với các nhà thương thuyết đầy lòng tử tế của các anh rằng tôi đi vắng.
- Không phải thăm viếng chính thức đâu. Đây là một cô gái mà.
Các ngón tay Dov vụt xiết chặt cuốn sách.
- Nói giùm với cô ta là tôi bận.
Khi người lính gác nhún vai quay đi, Karen ghé sát môi vào khe hở gọi:
- Anh Dov! Anh Dov!... Em đây, Karen đây mà
Akiba nói:
- Này chú bé! Ra nói chuyện với nàng đi. Chú muốn chết trong thứ câm nín như anh của lão bắt lão phải chịu sao? Ra nói chuyện với cô bé!
Chậm chạp, Dov đặt cuốn sách xuống, đứng dậy ra nhìn qua khe hở. Karen nhìn thấy rõ ràng đôi mắt xanh đầy giận dữ lạnh lùng của chàng. Dov trách cứ:
- Tôi chán ngấy mọi trò đạo đức giả rồi! Nếu thiên hạ gửi cô tới đây để ăn mày chữ ký của tôi, thì cô có thể ra về ngay lập tức. Tôi không thèm cái lòng khoan hồng của tụi chúng đâu.
- Em thề với anh là không có ai gửi em tới đây hết. Em thề như vậy.
- Nếu đúng vậy em đến đây làm gì?
- Em chỉ muốn nhìn thấy anh lần chót.
Bên này bức tường, Dov cứng người lại. Ước muốn được chạm vào má nàng mạnh mẽ đến nỗi làm chàng đau đớn. Karen lại nói:
- Có thật là anh đã nghĩ như anh đã viết trong bức thư anh gửi cô Kitty không... hay anh chỉ nói thế chỉ vì...
- Tôi nghĩ thế thật.
- Anh! Anh hiểu chứ, em rất muốn biết...
- Bây giờ thì Karen biết rồi đó.
- Vâng, anh Dov... Em... em sắp ra đi. Em sang xứ Mỹ.
Chàng có một cử chỉ biểu lộ lãnh đạm.
- Có lẽ em đã lầm khi đến đây. Em làm phiền anh...
- Không đâu. Tôi biết em muốn làm vui lòng tôi. Dĩ nhiên tôi thích cô bạn kia hơn, nhưng nàng ở trong Macchabée nên nàng không thể đến đây... Em là một cô gái khá lắm, Karen... Em hãy yên tâm mà sang Hoa-kỳ và quên tất cả những gì đã xẩy ra đi. Chúc em may mắn!
Nàng nói như một hơi thở:
- Có lẽ bây giờ em về thì hơn.
Nàng đứng thẳng người dậy, quay ra phía cửa.
- Karen!
Nàng quay lại.
- Em nghe đây đã... để chứng tỏ chúng ta vẫn là bạn tốt với nhau... nếu lính gác cho phép, có lẽ ta nên xiết tay nhau một lần chót.
Người lính gác đang nhìn đi chỗ khác, Karen luồn tay qua khe, Dov nắm lấy xiết chặt giữa hai tay mình. Trán tì vào đá, chàng nhắm mắt lại. Đột nhiên chàng cảm thấy Karen đã nắm lấy một tay mình và đang kéo qua khe hở.
Chàng phản đối:
- Đừng, đừng... không nên...
Nhưng chàng không còn đủ sức chống cự nữa. Karen hôn lên tay chàng nhiều lần, ép sát vào má và chàng cảm thấy những giọt nước mắt của nàng chẩy trên các ngón tay. Rồi đột nhiên nàng rời xa.
Được đưa trở lại xà-lim, Dov nằm gục xuống giường. Trong đời, chưa bao giờ chàng yếu đuối đến độ để nước mắt phải tràn ra. Nhưng bây giờ, không nỗ lực nào của ý chí có thể ngăn cản nổi. Quay lưng lại để giấu Akiba và người canh gác, chàng khóc nức nở không kìm giữ.
Ủy ban Điều tra của Liên Hiệp Quốc đã ra đi. Ủy ban đã trông thấy những thực hiện đẹp đẽ của các nhà tiên khu Do-thái, đã nhận thấy ác ý cùng thứ đạo đức giả đầy thù hận của người Ả-rập. Hiển nhiên là không thể có một giải pháp trung gian nào. Nếu chỉ lấy lý lẽ của công bằng làm căn bản, Liên Hiệp Quốc phải khuyến cáo thành lập một Quê Nhà Do-thái. Bây giờ vấn đề chỉ còn là chờ xem các hội viên của Liên Hiệp Quốc sẽ chống lại các lời đe dọa hầu như công khai của các quốc gia Ả-rập như thế nào thôi.
Một lần nữa được trao phó nhiệm vụ đại diện cho “Trung ương” ở hội nghị Genève, Barak Ben Canaan quyết định, trước khi ra đi, trở về Yad El để sống vài ngày với Sarah. Một bữa cơm giã từ mang lại cơ hội cho hai bậc cha mẹ - cơ hội mỗi ngày một hiếm có - gặp lại các con, Ari và Jordana, và cả David Ben Ami nữa. Cuối bữa cơm, Jordana hỏi:
- Mọi người có biết tin là bà Fremont sắp rời Palestine chưa?
Cố gắng giấu ngạc nhiên, Ari nói:
- Anh không biết gì cả.
- Bà ta cũng xin bác sĩ Lieberman cho từ chức. Bà mang theo đứa con cưng, Karen Clement. Về phần em, em không ngạc nhiên gì hết về chuyện này: em biết chắc từ lâu là bà ta sẽ chạy lẹ ngay khi tình hình mới nguy ngập một tí.
Ari cãi:
- Xét cho cùng, sao cô ta phải ở đây nhỉ? Cô ta là người Hoa-kỳ, cô chỉ đến Palestine để theo đuổi cô bé Karen đó.
- Hơn nữa, bà ta còn không ưa gì chúng ta hết.
David can thiệp:
- Nói thế là sai!
- Quả thực lúc nào anh cũng chỉ bênh người đó không à!
Bà Sarah nói:
- Mẹ thì mẹ thấy dễ thương lắm. Cô ấy đã làm được nhiều điều kỳ diệu cho các lũ trẻ đáng thương ở Gan Dafna và được mọi người ưa chuộng lắm.
Jordana vẫn chưa chịu:
- Còn con thì con thấy bà ấy ra đi là điều hay. Dĩ nhiên là chúng ta có thể tiếc là bà mang theo Karen, nhưng một mặt khác, bà ấy đã nuông chiều cô bé này đến nỗi ta khó mà có thể cho nó là một người Do-thái phục quốc được nữa.
Ari đột nhiên đứng dậy và đi ra vườn. Sarah bất mãn nói:
- Tại sao con lại cứ cố tìm cách làm cho anh buồn vậy? Con biết rõ các tình cảm của anh đối với cô ấy mà...
- Anh Ari sẽ cám ơn Thượng đế là loại bỏ được người đàn bà đó cho mà xem.
Barak nói:
- Thực vậy hả? Con lấy quyền gì mà phán xét tình yêu của một người đàn ông?
Mọi người đều im lặng. David cầm lấy tay Jordana.
- Em đã hứa đi chơi bằng ngựa với anh. Bây giờ đi chứ?
Giận dỗi, nhưng rồi sau cùng Jordana cũng nhận lời. Hai người đứng dậy đi ra ngoài. Barak càu nhàu:
- Để hai đứa nhỏ ấy đi. Thằng David ấy biết cách xoa dịu cô Jordana của chúng ta. Tôi có cảm tưởng rõ ràng là nó ghen với bà Fremont. Có lẽ một ngày kia các cô gái của xứ ta cũng tìm được thì giờ để trở thành đàn bà hơn.
Ông im tiếng, lơ đãng quấy chiếc muỗng trong ly trà. Đi vòng ra sau ghế của ông, Sarah đặt má lên mái tóc hoa râm của chồng.
- Mình ra kiếm Ari đi. Hãy nói với con về cô ấy, và cũng hãy...
Barak vỗ nhè nhẹ lên tay vợ.
- Rồi, ta ra gặp nó.
Ông kiếm thấy con trai đứng gần vườn trồng cây ăn trái, mắt nhìn đăm đăm về các quả đồi có Gan Dafna.
- Con yêu cô gái đó đến như thế sao, con?
Ari càu nhàu:
- Ích gì đâu? Nàng từ một thế giới đầy lụa và hương thơm đến, bây giờ nàng lại trở về đó. Xét cho kỹ, chuyện đó là bình thường.
Barak cầm lấy cánh tay con, và qua cánh đồng, ông tiến về chỗ giòng Jourdain chảy dọc ven trại. Bên kia sông, hai người trông thấy David và Jordana đang phi ngựa như bay. Họ nghe thấy tiếng cười của cô gái.
- Con thấy không? Jordana đã nguôi rồi. Này con, mọi việc của Palmach ra sao ở Ein Or?
- Như thường lệ, bố. Nhiều thanh niên khá, nhiều thiếu nữ tận tụy, nhưng họ quá thiếu thốn trang bị. Thật là điên khi hy vọng thắng trận chống lại bẩy đạo quân Ả-rập.
Chậm chạp, hai người trở về nhà. Đột nhiên Ari cảm thấy bàn tay mạnh mẽ của bố xiết chặt lấy vai mình. Chàng kinh ngạc khi thấy con người to lớn này đầu gục thấp xuống, như một nỗi buồn đè nặng trĩu.
- Nghe đây con. Hai ngày nữa bố sẽ lại lên đường đi Genève. Chưa bao giờ bố ra đi mà trong lòng buồn như vậy. Từ mười lăm năm nay rồi, đã có một người vắng mặt nơi bàn ăn của chúng ta. Bố đã là một con người kiêu ngạo, bướng bỉnh đến độ kinh khủng, nhưng có Chúa chứng kiến bố đã trả giá cho lòng kiêu hãnh bướng bỉnh này. Ngày hôm nay, buồn bã hành hạ bố như bị đầy xuống địa ngục. Ari con, bố chỉ còn biết trông cậy vào con thôi: con đừng để em Akiba của bố treo lủng lẳng ở đầu một sợi dây thừng của người Anh!