Chương 2

     AN DAFNA
ĐÊM NOEL, 1947.
Các đám tuyết đầu tiên của mùa đông rơi xuống những con đường nhỏ sũng nước.
Karen đang mặc một chiếc quần len và một áo xăng-đai dầy. Nàng coi đồng hồ và thở dài.
- Tối nay em phải ăn cơm sớm. Tối nay, em phải gác đêm, cô.
Kitty bắt đầu cột tóc cho Karen thì đột nhiên một giọng đồng ca của trẻ con cất lên phía trước nhà. Kitty kêu lên:
- Cái gì vậy?
Karen nắm tay nàng kéo ra cửa sổ.
- Đó là quà Noel của cô đó. Các em nhỏ bí mật học hát bài này mất hai tuần lễ đó cô.
Kitty kéo màn cửa. Trên thảm cỏ tuyết bắt đầu phủ, năm mươi “đứa con” của nàng tay cầm nến thắp sáng, đang hát bài thánh ca. Nàng mặc áo măng-tô, rồi mở cửa bước ra thềm. Sau lưng các trẻ, bẩy trăm thước xa hơn các ánh đèn lấp lánh như sao dưới thung lũng. Trong các bungalow kế cận, các cửa nhà mở ra và các khuôn mặt tò mò nhìn ra ngoài. Kitty cảm thấy một niềm xúc động siết chặt lấy cổ họng. Nàng không hiểu lời bài ca, những âm điệu này...
Karen nói:
- Merry Christmas, Kitty!
Kitty không còn kìm giữ nữa, nước mắt nàng chảy xuống má.
- Cô không bao giờ có tưởng được một ngày kia sẽ được nghe bài Silent night bằng tiếng hébreu. Đây là món quà Noel đẹp nhất của đời cô!
Karen phải ra đổi phiên canh ở địa đạo vòng đai ngoài của Gan Dafna, nơi nhìn xuống các sườn dốc của cao nguyên. Sau khi người thanh niên gác phiên trước đã ra về, Karen nhét một kẹp đạn vào súng, đóng cơ bẩm lại rồi xỏ bao tay.
Chung quanh nàng, không gian chìm sâu trong im lặng. Tuyết vẫn rơi lả tả, bao phủ dần dần sườn núi. Đột nhiên nàng nhận thấy có gì động đậy trong hàng cây phía sau nàng. Nàng thận trọng quay lại, cố giương mắt nhìn xuyên qua bóng tối hoàn toàn. Lại có cái gì động đậy. Đó chỉ là một con chó đói hay là... Nàng mở chốt an toàn, đưa súng lên vai nhắm sẵn. Một bóng đen tách ra khỏi hàng cây, tiến về phía nàng...
- Đứng lại!
Bóng đen đứng sững lại.
- Mật khẩu?
Nàng giật bắn mình khi nghe thấy một giọng quen thuộc gọi tên nàng.
- Karen!
- Anh Dov!
Nàng leo ra khỏi địa đạo và chạy tới để rơi vào vòng tay chàng.
- Dov! Em không thể ngờ được... Lại đây anh!
Cả hai người cùng nhẩy xuống địa đạo. Dov cắt nghĩa:
- Tôi đợi em cả giờ rồi. Tôi đã đứng chờ trước nhà rồi theo em tới đây...
Hai tay run rẩy nàng xiết chặt lấy vai, cánh tay Dov.
- Anh lạnh ngắt rồi này. Anh cũng không mặc áo len nữa. Anh sắp lạnh cóng đến nơi giờ...
- Không đâu. Tôi thấy dễ chịu lắm.
Mặt trăng hiện ra giữa một khoảng trống của đám mây làm hai người sau hết đã có thể nhìn thấy nhau. Dov nói:
- Tôi... tôi tưởng Karen đã ở Mỹ rồi chứ.
- Em và cô Kitty đều không thể nào đi được.
- Chắc em đang tự hỏi tại sao tôi lại trở lại đây. Đã từ lâu rồi, tôi muốn nhìn lại Gan Dafna, nhưng chỉ vì... khi bỏ trốn khỏi đây, tôi có ăn trộm một số nữ trang. Chắc tất cả mọi người đều coi tôi như một tên ăn cắp...
- Ồ, không có đâu! Ngày nào anh còn sống, hiện diện nơi đây.
- Tôi sẽ bồi hoàn lại tất cả.
- Điều đó không quan trọng đâu anh. Không ai giận anh vì chuyện đó hết.
Dov đã ngồi xụp xuống đất, nói nhỏ:
- Khi tôi còn ở trong tù, và ngay sau khi ẩn trú trong các hang động gần Mishmar, lúc nào tôi cũng nói đi nói lại với tôi một điều: Dov, không ai oán ghét mi hết. Không ai thù mi hết. Chỉ có tự mi làm khổ mi mà thôi. Khi em lại thăm tôi tại nhà tù Acre, đột nhiên tôi không muốn chết nữa. Cũng không muốn giết cả các kẻ thù nữa.
Dov ngừng nói một chút, rồi tiếp tục với giọng thấp hẳn xuống:
- Em biết không... tôi nói với em hồi ấy tôi có một cô bồ, là tôi nói dối đấy. Tôi bịa chuyện ra như vậy để... Karen chịu ra đi...
- Em biết thế mà anh.
- Karen biết thực sao?
- Ít nhất thì em cũng đã cố thuyết phục em như thế. Em muốn tin hết sức ở tình thương của anh đối với em.
Nàng đưa tay chạm vào má Dov.
- Anh run lên vì lạnh rồi anh. Em van anh, vào sưởi trong nhà đi. Anh có thể nói hết mọi sự với cô Kitty, cô biết những gì giữa hai ta mà. Ngay khi mãn phiên gác, chúng ta sẽ đến gặp bác sĩ Lieberman. Cẩn thận nghe anh, anh dám bị các người canh khác chặn lại. Mật khẩu đêm nay là: Mừng lễ vui.
Trước khi đi, Dov do dự.
- Karen... anh muốn hôn em.
Nàng nhón chân lên và hai đôi môi nứt nẻ vì lạnh chạm vào nhau rất nhanh. Dov thì thào:
- Anh yêu em, Karen.
Nói xong, Dov nhẩy ra khỏi địa đạo chạy về phía cổng vào Gan Dafna.
Vào đầu năm 1948, người Ả-rập mỗi ngày tỏ ra liều lĩnh táo bạo hơn. Người Anh càng rút quân dần ra miền duyên hải, bỏ hết vị trí này đến vị trí khác, các vụ chạm súng nho nhỏ lúc trước bây giờ biến thành các trận đánh dàn trận hẳn hoi.
Chưa chi cuộc chiến đã lan rộng ra toàn thể xứ sở. Nhưng các kibboutz, mặc dù bị bao vây, quấy phá, tấn công, vẫn cố thủ vững và còn tấn công trả đũa lại. Ngược lại, tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng hơn lên trong các thành phố. Ở Safed, bên Ả-rập tập trung nhiều lực lượng quan trọng để chờ đợi ngày đại tá Hawks, chỉ huy trưởng yếu khu này, mang trung đoàn quân Anh của mình ra duyên hải. Trong lúc chờ đợi, người Ả-rập chỉ ngăn chặn mọi đường tiến vào khu Do-thái của thành phố này: ai cũng biết đại tá Hawks thân với người Do-thái.
Ở Haïfa, nơi người Anh chiếm cứ vững chắc các bến tầu, chặng chót của chuyến rút quân khỏi Palestine, người Do-thái chiếm ưu thế về cao địa: cư ngụ trên các sườn ngọn Carmel, họ khống chế khu Ả-rập. Nhưng bất hạnh một điều là mỗi khi họ chiếm được một điểm chiến lược, người Anh lại bắt họ rời bỏ trong vài giờ sau.
Trong vùng pha trộn các nhà cửa cũ kỹ tồi tàn của Jaffa với các tòa nhà cao tối tân của Tel-Aviv, các cuộc ám sát đột kích và đánh nhau ngoài đường phố xẩy ra không ngừng. Nhưng những trận đánh dữ dội nhất lại diễn ra chung quanh các khu Do-thái ở đô thị Jérusalem. Tại phần này của Cổ thành, hoàn toàn bị cô lập bởi các đơn vị không chính quy Ả-rập tăng cường thêm nhiều đơn vị của Liên đoàn Ả-rập Transjordanie, thực phẩm và nước uống thiếu thốn đã tạo ra một tình trạng mỗi ngày một thêm thê thảm. Dưới làn đạn súng cối và súng trường của các tay thiện xạ Ả-rập nấp trên các nóc nhà, dân Do-thái chỉ có thể di chuyển bằng xe bọc thép. Bên Ả-rập kêu ầm lên là đã chiến thắng khi họ chặn được một đoàn xe của Hồng Thập Tự do trung tâm y khoa ở ngọn Scopus gửi đến. Ngày hôm đó, họ tàn sát bẩy mươi bẩy y sĩ Do-thái không võ trang theo đúng Quy ước Genève. Việc tàn sát ghê tởm này xẩy ra ngay trước mắt quân đội Anh mà người Anh không can thiệp.
Đại tá Hawks sắp bắt đầu di tản khỏi khu Safed. Ari đã trao cho Zev Gilboa đại diện bên Do-thái trong buổi lễ bàn giao chính thức đồn Esther cho các lực lượng Do-thái.
Vài giờ sau Ari được biết rằng Zev và quân sĩ của anh khi tới đồn đã bị tiếp đón bằng một loạt đạn bắn ra ào ào. Trái với lời đã hứa hẹn long trọng, quân Anh đã trao đồn Esther cho người Ả-rập.
Nhẩy vội lên xe jeep, Ari phóng như bay về Safed. Hất viên trung úy có nhiệm vụ loan báo chàng đến sang một bên, Ari đi thẳng vào văn phòng đại tá.
- Các ông đã phản bội chúng tôi!
Hawks cãi bằng một giọng não nề:
- Không phải lỗi tại tôi. Tôi thề với anh là không phải tại tôi. Tối qua, lúc 10 giờ, tôi được lệnh rút quân ngay lập tức ra khỏi đồn ấy.
- Các ông có thể báo trước cho tôi được chứ.
- Tôi không thể báo cho các anh biết trước được - tôi không có quyền làm như vậy. Tôi là quân nhân, anh Ben Canaan, tôi phải tuân lệnh thượng cấp của tôi. Anh hãy tin ở tôi đi, đêm qua tôi nhắm mắt không nổi.
- Một lời xin lỗi thật đẹp cho một kẻ mang trách nhiệm về số phận của Gan Dafna trong lương tâm - giả thử là đại tá có một lương tâm.
Hawks tái mặt:
- Anh sẽ không để tụi trẻ trên đó, trên cao nguyên cô lập đó chứ? Anh bắt buộc phải đưa chúng xuống dưới đồng bằng...
- Đáng lẽ đại tá phải nghĩ tới chuyện đó sớm hơn chứ. Không có đồn Esther, chúng tôi bắt buộc phải cố thủ ở Gan Dafna, nếu không muốn mất toàn thể thung lũng Houleh.
Hawks cúi đầu xuống, hai tay xiết chặt lấy thành bàn. Hiển nhiên viễn ảnh ba trăm đứa trẻ bị tàn sát làm ông xúc động dữ dội. Ari nói tiếp:
- Có lẽ còn có cách để sửa sai bớt tai hại đại tá đã làm. Ít nhất một phần nào.
- Tôi sẽ làm tất cả những gì anh muốn...
- Với tư cách chỉ huy trưởng khu Safed, chắc đại tá có quyền đi lên Gan Dafna để khuyến cáo chúng tôi di tản trung tâm này chứ?
- Chắc chắn vậy.
- Được, vậy ông sẽ làm chuyến thăm viếng đó. Ngày mai đại tá lên Gan Dafna với một đoàn năm mươi xe cam-nhông có chiến xa hộ tống. Chính thức, đại tá có ý định mang trẻ em xuống thung lũng.
- Tôi không hiểu. Anh muốn tản cư trung tâm?
- Không. Nhưng đại tá khỏi lo tới chuyện đó. Đại tá cứ mang đoàn xe lên Gan Dafna đi.
Hawks không đủ can đảm để đặt ra các câu hỏi khác. Ngày hôm sau, đoàn xe vĩ đại lên đường đến cao nguyên, băng qua sáu làng Ả-rập, vượt qua trước mặt các lính canh Ả-rập ở đồn Esther, để tới Gan Dafna vào lúc gần trưa. Trong một tiếng đồng hồ liền, Hawks cố gắng thử thuyết phục bác sĩ Lieberman di tản trung tâm. Nhưng đã được Ari báo trước, Lieberman cương quyết từ chối. Mỗi lúc thêm phân vân khó hiểu, Hawks đành ra về với các xe cam-nhông trống không.
Trong lúc đó Ari dạo chơi trong làng Abou Yesha, thố lộ với các bạn bè Ả-rập là đại tá Hawks đã trút xuống Gan Dafna hàng tấn vũ khí đủ loại, nhất là súng cối và đại liên. Chàng cắt nghĩa:
- Ít ra thì đại tá cũng phải giúp chúng tôi như vậy. Vả lại đại tá cũng chưa bao giờ giấu giếm cảm tình với dân Do-thái chúng tôi. Ông giúp vũ khí như vậy để đền bù lại vụ ông phải trao đồn Esther cho bên Ả-rập các anh.
Ngay tối hôm đó, cả vùng đều “biết” là Gan Dafna bây giờ đã trở thành “pháo đài” khó mà chiếm cho nổi. Câu chuyện này lại càng đáng tin hơn nữa vì sau đó không hề có một vụ tản cư nào. Hiển nhiên hơn nữa là chắc chắn người Do-thái đâu dám để trẻ con ở lại một vị trí không bảo vệ được bao giờ.
Ngược lại, buổi hội kiến của Ari với mouktar làng Abou Yesha đã đưa đến một kết quả tai hại. Sau khi gợi lại rất lâu những kỷ niệm chung, Ari cảnh báo bạn: nếu làng này chấp nhận cho các quân không chính quy Ả-rập biến làng thành một căn cứ hành quân, Haganah sẽ bắt buộc phải tấn công tiêu diệt làng.
Xúc động vì cái giật mình đau đớn của Taha, Ari đặt một tay lên vai bạn:
- Anh Taha... tôi xin anh hãy giúp tôi.
- Anh quên rằng tôi chỉ là một tên Ả-rập - một tên Ả-rập dơ dáy sao.
- Chỉ có anh, mình anh mới nhét cái ý nghĩ phi lý ấy vào đầu anh thôi.
- Có lẽ anh sẽ nói tôi là anh em với anh chăng?
- Từ bao giờ tôi vẫn coi anh là anh em với tôi.
- Thực vậy hả? Vậy này, nếu sự thật là như thế, hãy cho tôi Jordana. Anh hãy thuận cho tôi Jordana để nàng trở thành vợ, thành mẹ của các con tôi...
Taha chưa kịp nói hết câu, Ari đã bằng một cú đấm chớp nhoáng, đánh Taha ngã lăn ra đất. Taha chồm dậy, rút dao găm cài ở thắt lưng ra, tiến tới phía Ari. Sững người, Ari không làm một cử chỉ nào để bảo vệ mình. Taha giơ dao lên, toan đâm, nhưng rồi buông dao. Tiếng kim khí va vào sàn đá làm Ari bừng tỉnh. Chàng thì thào:
- Trời! Tôi đã làm gì? Tôi đã làm gì?
Chàng giơ tay ra như để xin thứ lỗi... Taha quay đi, nói bằng giọng cứng rắn:
- Anh đã cho biết điều tôi cần muốn biết. Bây giờ anh đi đi, đồ Do thái!