Chương 3

     ất nhiều biến cố sẽ đánh dấu những tháng đầu năm 1948.
Ở Âu châu, các cán bộ của “Trung ương” nhờ sự ủng hộ của Jan Masaryk, tổng trưởng ngoại giao Tiệp-khắc, đã mua được một số lượng vũ khí. Để có thể đưa số vũ khí này về Palestine vượt qua hàng rào phong tỏa do hải quân Anh duy trì, họ phải thành lập ở Vienne một công ty hàng không. Công ty này mua ở kho quân cụ thặng dư của Hoa-kỳ một chiếc oanh tạc cơ Liberator cũ và mướn một phi hành đoàn: sáu người Do-thái cựu chiến binh đệ nhị thế chiến, bốn người Nam Phi và hai người Mỹ. Về bãi đáp, họ chọn nơi khuất nẻo trong thung lũng Jezreel có sẵn một căn cứ khu trục cũ không lực Hoàng gia Anh. Nằm giữa một vùng hoàn toàn Do-thái, phi đạo này khó bị người Ả-rập biết. Còn về sự có thể bị các phi tuần Anh bắt gặp, thì đành tin cậy ở tài năng khéo léo của các phi công lái chiếc Liberator... và tin ở may mắn. Dầu thế nào, đây cũng là một cuộc chạy đua với thời gian. Nhận các vũ khí ở năm hay sáu nước khác nhau, hết sức bí mật đưa về Vienne, đã mất tối thiểu hai tuần rồi. Xét sự tiến diễn mỗi ngày thêm thê thảm của tình hình ở Palestine, mọi người chỉ có thể hy vọng rằng chuyến vũ khí đầu tiên sẽ về đến nơi không quá trễ.
Bên phía Ả-rập, hăng hái điên cuồng trong những ngày đầu đã bắt đầu nhường chỗ dần cho chán nản thất vọng. Một cuộc tấn công đại qui mô vào một kibboutz cô lập hoàn toàn chỉ có dân Do thái chính thống giáo cư ngụ, đã chấm dứt bằng một thảm bại đẫm máu trước mắt rất nhiều phụ nữ Ả-rập đã tụ tập lại để tham dự vào vụ hôi của kibboutz. Vài ngày sau, trên đường đi từ Tel-Aviv tới Jérusalem, Lữ đoàn 2 của Palmach đã chiếm được, sau một trận cận chiến dữ dội, ngọn đồi trước đây đã cho phép quân Ả-rập chặn đường tiến của các xe cộ. Ngày hôm sau, một đoàn xe vĩ đại chở đầy thực phẩm đạn dược, mặc dù địch kháng cự dữ dội, đã tới tiếp tế được cho Tân Jérusalem bị bao vây từ nhiều tháng rồi.
Trong “Bộ tư lệnh tối cao” Ả-rập, thiên hạ sửng sốt. Những tên Do-thái đáng nguyền rủa kia chẳng những không tự vệ mà thôi, lại còn lao ra tấn công nữa! Hiển nhiên là chính nghĩa của cuộc thánh chiến cần gấp một chiến thắng. Cần hết sức khẩn cấp!
Bị triệu gọi cấp tốc đến tổng hành dinh Ả-rập đặt ở Naplus, Mohammed Kassi, chỉ huy các quân không chính quy thung lũng Houleh nhận được lệnh - “nhân danh Ngài mufti” - tấn công ngay lập tức Gan Dafna, chiếm trung tâm này, san bằng đến tận móng. Dù Kassi có viện dẫn thế nào tới “cả ngàn khẩu súng, trăm đại liên, hai mươi đến ba mươi súng cối” đại tá Hawks đã biếu cho trung tâm này, dù đã thề chính mắt mình trông thấy một ngàn Palmachnik tới tăng cường cho các đơn vị thiếu nhi Gan Dafna, Kassi rút cục chỉ nhận được hai cái tát nên thân.
- Một là mi tiêu hủy được Gan Dafna, hai là xác mi phanh thây cho kên kên ngoài đồi rỉa thịt.
Kassi không biết làm sao hơn là tuân theo lệnh.
Để mở đầu, Kassi cho một trăm quân chiếm cứ Abou Yesha. Quen thuộc sống hòa thuận với các láng giềng Do-thái từ mấy chục năm nay, dân làng không giấu vẻ bực tức với sự chiếm cứ này. Rất nhiều người trong họ đã xuống tận kibboutz Ein Or để báo cho Ari biết. Đồng thời các kỳ mục khẩn khoản yêu cầu Taha đòi hỏi đạo quân kia phải rút đi. Nhưng mouktar Taha đã khép mình trong một câm nín hoàn toàn, và với thái độ này, các fellah quen nhận chỉ thị chính xác, đành chịu chết không biết hành động ra sao nữa. Rồi một hôm quân của Kassi bắt gặp bốn dân làng đang mang thực phẩm lên Gan Dafna. Những những dân xấu số này bị chặt đầu đem bêu ngay giữa chợ. Kể từ ngày đó, Abou Yesha thôi không còn chống đối nữa.
Do đó con đường độc đạo dẫn lên Gan Dafna đã bị cắt đứt. Kassi, từ đồn Esther cao, cho bắn súng cối không ngừng vào trung tâm.
Tình trạng này, người Do-thái đã tiên liệu ngay từ khi thành lập trung tâm. Lầu chứa nước uống được một bức tường bao cát che kín, các máy phát điện, các kho dự trữ thực phẩm thuốc men và đạn dược, cũng như các kho vũ khí, đều được đào trong các hầm núi rộng rãi có đủ cả các phòng ngủ và lớp học nữa. Một vài giờ sau đợt pháo kích đầu, toàn thể trung tâm đã được tổ chức để sống một cuộc sống khá dễ chịu trong hang động. Còn về việc liên lạc với Yad El, đường điện thoại đã bị cắt, mọi người xử dụng gương Scott (gương kim khí phản chiếu ánh sáng và truyền các tín hiệu Morse).
Dưới thung lũng, ở kibboutz Ein Or, Ari chỉ có thể xiết tay lại mà chờ đợi thôi. Nếu Gan Dafna có đủ dự trữ để cố thủ cả tháng, thì ngược lại, trận đánh đầu tiên sẽ làm tiêu mất “huyền thoại” là trung tâm này “được võ trang ghê gớm”. Và tới khi đó địch sẽ nhào lên và sau đó trẻ con bị tàn sát...
Lục lọi vơ vét khắp nơi, Ari chỉ kiếm được chừng một chục khẩu súng trường kiểu 1883 của Tây-ban-nha, hai mươi ba tiểu liên nội hóa và một súng chống chiến xa Hung-gia-lợi dư mức độ phế thải và năm băng đạn. Zev Gilboa và hai mươi Palmachnik nữa mang các vũ khí này lên tận cao nguyên bằng cách leo lên sườn dốc đứng ban đêm.
Sau mười ngày pháo kích liên tục, đa số nhà cửa trong trung tâm sụp đổ. Một phát đạn nổ tung cả lối vào hầm, làm hai trẻ em bị chết, những người đầu tiên bị chết của cuộc công hãm Gan Dafna.
Cũng ngày hôm đó, Ari được Tel-Aviv cho biết là Bộ tư lệnh cho phép được tản cư trẻ em ra khỏi các vị trí bị địch quân đe dọa và tấn công. Quyết định tối hậu để cho các cấp chỉ huy các kibboutz tùy nghi thẩm định, và trong trường hợp của Gan Dafna, quyền này tùy thuộc khu trưởng, các trẻ em sẽ được đưa về miền duyên hải. Rất dễ đọc được ẩn ý của Bộ tư lệnh qua những dòng chữ của điệp văn này: rõ ràng là, trước tình trạng lâm nguy gia tăng trầm trọng, Haganah đã dự trù tới việc có thể di tản trẻ em bằng đường biển để cứu chúng khỏi vụ tàn sát lớn có thể xẩy ra.
Ari cho triệu tập các đơn vị trưởng và những người này đồng ý khuyến cáo cho tản cư gấp trẻ em ít tuổi. Bây giờ vấn đề là làm cách nào đưa được chúng ra khỏi trại. Tổ chức một đoàn xe sẽ đòi hỏi động viên tới tất cả lực lượng xử dụng được trong vùng - và có làm như vậy, một sự tập trung quân như thế cũng không đủ bảo đảm thành công cho chiến dịch di tản. Vậy mà vấn đề ở đây không phải là thắng hay thua một trận đánh. Vấn đề ở đây quan trọng hơn nhiều: mạng sống của mấy trăm trẻ em.
Tới đây, một lần nữa Ari lại nghĩ ra một kế hoạch táo bạo đến điên rồ. Được rồi, nếu các phương cách thông thường không dùng được, chàng sẽ liều đánh cá lớn với số mệnh - chàng lại thắng cuộc.
Sau khi đã trao cho David Ben Ami thành lập một “lực lượng cứu ứng”, Ari leo lên cao nguyên - một chuyến đi ghê khiếp bởi vì bất cứ một nỗ lực nhỏ nào của chân cũng làm chàng đau đớn vì vết thương cũ chưa lành. Lên được tới Gan Dafna vào lúc rạng đông, chàng cho triệu tập ngay tất cả các trưởng nhiệm sở của trung tâm. Chàng tuyên bố, không giáo đầu gì hết.
- Ở đây các bạn có hai trăm rưỡi trẻ em dưới mười hai tuổi. Chúng ta sẽ tản cư các em đó vào tối mai. Đêm nay, bốn trăm người lấy từ tất cả nông trường trong thung lũng sẽ leo lên đây dưới sự hướng dẫn của David Ben Ami. Nếu họ không bị địch khám phá ra và tấn công, sáng mai họ sẽ tới đây. Đêm mai họ sẽ lại xuống núi - hai trăm rưỡi người mỗi người cõng theo một trẻ, một trăm rưỡi còn lại sẽ giữ nhiệm vụ bảo vệ cho tất cả. Tôi cũng cần nói thêm rằng một trăm rưỡi người bảo vệ này sẽ được xử dụng tất cả các vũ khí cộng đồng nặng của toàn khu chiến Houleh
Mọi người đưa mắt nhìn nhau như Ari vừa nói vừa quàng xiên xong. Bác sĩ Lieberman phản đối:
- Xuống núi kiểu đó rất nguy hiểm, dầu là thực hiện ban ngày đi nữa. Ban đêm, trên lưng hay trong tay bồng một đứa trẻ... chắc chắn sẽ có tai nạn xảy ra...
- Đó là một thứ may rủi mà chúng ta đành phải chấp nhận.
Zev Gilboa nhận xét thêm:
- Đó không phải là may rủi duy nhất đâu. Đoàn người bắt buộc phải đi băng qua gần Abou Yesha. Quân Ả-rập sẽ nghe thấy họ...
Ari ngắt lời:
- Chúng ta sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để quân Ả-rập không nghe thấy họ. Dầu thế nào, chúng ta cũng chẳng thể còn cách nào khác nữa.
Ngay lập tức các lời phản đối cất lên nhao nhao.
- Im lặng! Chúng ta đâu có ở trong quốc hội! Các bạn sẽ phải giữ bí mật tuyệt đối: không được có một hành động cuống quít sợ hãi nào hết. Rồi, bây giờ bắt đầu làm việc!
Sáng ngày hôm sau, bốn trăm người tình nguyện đã lên đến nơi, và theo lệnh Ari, họ phân tán ẩn núp vào các bờ bụi chung quanh trung tâm. Do đó, các quan sát viên Ả-rập đứng sau các lỗ châu mai của đồn Esther đều không trông thấy được họ.
Đúng 17g55, các trẻ em phải di tản được tập họp để ăn cơm chiều: không đứa nào nhận thấy là bữa nay có một vị hơi đắng do thuốc ngủ hòa tan gây ra. Lúc 18g15, mọi người đưa chúng vào giường. Mười phút sau, chúng đã ngủ say sưa.
Đến 18g32, mặt trời lặn xuống sau đồn Esther. 18g40, Ari lại họp các trưởng nhiệm sở.
- Yêu cầu các bạn lắng nghe tôi thật cẩn thận. Vụ di tản sẽ khởi sự trong vài phút nữa. Mỗi bạn sẽ ở đúng vị trí tôi sẽ chỉ định. Cuộc hành quân đặc biệt này sẽ diễn ra theo một thời biểu hết sức chính xác: bất cứ một sai lệch, tùy hứng nào cũng dám đưa đến những hậu quả nghiêm trọng. Tôi sẽ không chấp nhận bất cứ một bàn cãi nào. Tất cả mọi sự phản đối, khước từ thi hành lệnh đều sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Đến 18g45, Jordana ra lệnh cho các thiếu nhi ở lại trung tâm lập bốn vòng vây chung quanh trung tâm. Hơn lúc nào hết, lúc này hết sức cần tránh sự xâm nhập của địch có thể khám phá ra bí mật hoạt động trong trại. Zev Zilboa cùng hai mươi Palmachnik của anh tiến ra vùng đồi để thi hành “nhiệm vụ bảo vệ đặc biệt”.
Lúc 19 giờ, mọi người chuẩn bị cho các trẻ em vẫn ngủ say sưa: mặc quần áo ấm cho chúng, đặt một băng keo lên miệng để ngăn cản chúng kêu khóc. Lúc 17g30, Ari ra ngoài để đưa bốn trăm người tình nguyện trở vào.
Một đường dây người được thành lập tới tận cửa lối vào các hầm trú để chuyền tay nhau các trẻ em. Các người tình nguyện sẽ mang chúng trên lưng trong một thứ như các yên biến cải không cản trở gì hết cử động chân tay họ. Lúc 20g30, sau khi kiểm soát lại một lần chót hệ thống dây nhợ, đoàn người dài bắt đầu di chuyển, hộ tống bằng một trăm năm mươi người võ trang. Dưới sự hướng dẫn của Ari, họ lần lượt vượt qua bờ cao nguyên để rồi tan biến vào trong bóng đêm.
Từ đó là sự chờ đợi khắc khoải, im lìm, bất tận. Không thể nào ngồi yên nổi một chỗ, Kitty đi lang thang giữa các căn nhà. Nửa đêm, một giờ sáng, hai giờ... Đột nhiên một loạt súng nổ ở xa vọng lại. Nàng hét lên một tiếng.
- Các đứa nhỏ của tôi! Chúng giết các đứa nhỏ của tôi!
Nàng lao mình chạy vào bóng đêm. Jordana phải ôm cứng lấy nàng và sau cùng phải đấm cho nàng một cái vào giữa lưng ngã sóng soài ra đất.
- Nghe tôi đã nào chị Kitty! Tiếng súng đó là của Zev Gilboa cùng các Palmachnik đang tấn công đánh lạc hướng địch ở phía bên kia Abou Yesha để quân Ả-rập khỏi chú ý tới lộ trình của đoàn người chúng ta.
Jordana đỡ Kitty đứng dậy, rót cho nàng một ly rượu.
- Cầm lấy uống đi chị! Tôi rất tiếc là đã phải đánh chị...
- Cô làm phải đó. Tại tôi mất bình tĩnh quá.
Ba giờ sáng... bốn giờ... năm giờ rưỡi, họ đều ra hết bên ngoài, trong bình minh lạnh cóng, để tiến ra ngoài vòng rào trại về đài canh và quan sát cheo leo bên bờ vực.
Chậm chạp, sương mù tan dần để lộ rõ thung lũng phía dưới. Ống nhòm dán vào mắt, người quan sát nhìn chăm chú sườn núi. Không có gì hết... không có một cái gì động đậy...
- Nhìn kìa!
Trong các khu vườn của nông trường Yad El, một tấm gương đang gửi những dấu hiệu Morse, các chấm, vạch, các chấm rồi các vạch...
Người quan sát có vẻ phân vân.
- Họ nói... tôi chẳng hiểu họ nói gì hết... họ nói như sau: X 14 16.
Mọi người ngơ ngẩn một thời gian ngắn. Tấm gương lại nhắc lại bản điệp văn. Rồi bỗng giọng Jordana cất lên, đầy vui mứng chiến thắng:
- Họ đã xuống tới nơi, hoàn toàn bình yên vô sự. Exodus 14 16: Con hãy giơ gậy của con lên và giơ tay về phía biển: hãy rẽ nước ra và con dân Israël sẽ băng qua không ướt gót.