Dịch giả: Di Li
Chương 1

     uổi sáng cuối cùng trong cái năm khó chịu nhất Virginia kể từ sau cuộc nội chiến, tôi đốt lò sưởi và ngồi đối diện với bóng đêm đang bao trùm ngoài cửa sổ. Ở vị trí này, tôi có thể nhìn thấy mặt biển lúc bình minh lên. Tôi mặc áo ngủ và ngồi dưới ánh đèn bàn mờ nhạt, trong đầu kiểm lại các số liệu thống kê ở văn phòng về tỉ lệ tai nạn xe hơi, cướp giật, đánh lộn, đâm nhau, bắn nhau. Đúng lúc ấy thì điện thoại vang lên một cách thô lỗ. Đồng hồ chỉ năm rưỡi sáng.
“Mẹ kiếp”, tôi lẩm bẩm vì trong lòng đã bắt đầu cảm thấy mất kiên nhẫn khi cứ phải trả lời hộ những cú điện thoại của tiến sĩ Phillip Mant. “Được rồi, được rồi”.
Ngôi nhà của anh khuất sau một cồn cát thuộc khu vực bờ biển hoang vu vùng Virginia tên là Sandbridge. Nó nằm giữa căn cứ Hải quân Hoa Kỳ và Khu bảo tồn động vật hoang dã quốc gia. Mant là phó phòng giám định pháp y của quận Tidewater. Tiếc thay, mẹ của anh mất vào tuần trước, đúng đêm Giáng sinh. Theo lễ nghi, anh phải về London để lo chuyện gia đình và tạm thời không phải đảm nhiệm các vụ khẩn cấp trong hệ thống giám định pháp y. Nhưng cô trợ lý nghiên cứu bệnh án pháp lý của anh đã nghỉ sinh con, còn tay giám sát viên thi thể lại vừa mới bỏ việc.
- Nhà Mant nghe đây. - Tôi trả lời trong lúc ngoài ô cửa sổ, gió vẫn luồn qua những bóng thông sẫm tối.
- Tôi là Young, nhân viên phòng cảnh sát Chesapeake. - Đầu dây bên kia là giọng của một người đàn ông da trắng nghe có vẻ như gốc miền Nam - Tôi đang cố gắng liên lạc với tiến sĩ Mant.
- Ông ấy đi nước ngoài rồi. - Tôi trả lời - Tôi có thể giúp gì được cho anh không?
- Bà là bà Mant à?
- Tôi là tiến sĩ Kay Scarpetta, trưởng phòng giám định pháp y. Tôi đang đảm nhiệm công việc giúp tiến sĩ Mant.
Đầu dây bên kia hơi lưỡng lự rồi lại tiếp tục.
- Chúng tôi vừa nhận được thông báo về một xác chết. Một cú điện thoại nặc danh.
- Anh có biết xác chết này hiện đang ở đâu không? - Tôi bắt đầu ghi chép.
- Nó đang nằm ở bãi tàu Hải quân.
- Gì cơ? - Tôi hỏi lại.
Anh ta nhắc lại những điều vừa nói.
- Anh đang nói gì vậy, căn cứ hải quân SEAL [1] à? - Tôi bị bất ngờ vì theo tôi hiểu, chỉ những người thuộc lực lượng SEAL mới được phép quanh quẩn bên những con tàu cũ kỹ neo tại bãi cấm dân thường này.
- Chúng tôi không biết đây là ai nhưng có vẻ như anh ta đang tìm kiếm những di tích của cuộc nội chiến.
- Vào ban đêm sao?
- Thưa bà, đây là khu vực cấm nên bất kỳ ai muốn vào được đó đều phải xin lệnh. Tuy nhiên điều đó cũng không ngăn cản những kẻ tò mò. Họ trốn vào bên trong tàu và thường hành động lúc trời tối.
- Người gọi điện nặc danh đã viện dẫn ra điều này à?
- Gần như thế.
- Có vẻ thú vị đây.
- Tôi cũng nghĩ thế.
- Cái xác vẫn chưa được tìm thấy đúng không. - Tôi nói trong khi vẫn tiếp tục tự hỏi tại sao anh chàng cảnh sát này lại tự gọi điện cho giám định pháp y vào giờ này trong khi người ta còn chưa xác định được có phải cái xác đã nằm đó hay chỉ là người bị mất tích thôi.
- Chúng tôi chuẩn bị đến đó bây giờ, và bên Hải quân cũng đã cử đến một vài nhân viên của họ. Vì thế chúng tôi có thể xử lý tốt tình hình nếu mọi chuyện đúng là như thế. Nhưng tôi chỉ muốn thông báo cho bà như vậy và mong bà gửi lời chia buồn của tôi đến tiến sĩ Mant.
- Lời chia buồn ư? - Tôi hơi bối rối vì nếu anh ta biết chuyện của Mant rồi thì sao còn gọi đến đây để tìm anh ấy.
- Tôi nghe nói mẹ của ông ấy vừa qua đời.
Tôi vẫn để nguyên đầu bút trên mẩu giấy.
- Anh cho tôi đầy đủ tên họ và số điện thoại liên lạc được không?
- S.T. Young. - Anh ta đọc số điện thoại rồi cả hai cúp máy.
Tôi nhìn cái lò sưởi dưới chân, rồi đứng lên bỏ thêm củi vào, lòng cảm thấy bứt rứt và cô đơn. Tôi ước gì giờ này được ở trong chính ngôi nhà của mình ở Richmond với những ngọn nến bên cửa sổ và cây linh sam được trang trí những món đồ Giáng sinh được cất từ mấy năm trước. Tôi muốn được nghe nhạc của Mozart và Handel thay vì tiếng gió hú trên mái nhà. Tôi cũng ước gì mình không nhận lời mời tốt bụng của Mant là đến ở nhà anh thay vì khách sạn. Tôi định đọc mấy bản báo cáo thống kê nhưng đầu óc không ngừng lộn xộn. Tôi hình dung ra dòng nước lờ đờ của sông Elizabeth mà vào thời khắc này của năm, nhiệt độ không dưới 15,5°C, đấy là trong độ sâu có thể trông thấy được, chừng 43 xăngtimét.
Vào mùa đông, người ta vẫn có thể đi mò trai ở Vịnh Chesapeake hoặc đi 48 kilômét ngoài bờ biển Đại Tây Dương để tìm kiếm những máy bay hay tàu ngầm Đức bị đắm nếu có một bộ đồ lặn. Nhưng ở sông Elizabeth, nơi mà Hải quân neo những con tàu chuẩn bị được phá dỡ của họ, thì tôi không nghĩ ra được điều gì có thể kéo mình đến đây cho dù thời tiết có thế nào đi chăng nữa. Tôi cũng không thể tưởng tượng được có ai lại mò mẫm dưới ấy vào ban đêm để tìm kiếm thứ gì đó. Vì thế tôi tin rằng cú điện thoại báo tin kia được gọi từ một kẻ quái gở nào đó.
Rời khỏi chiếc ghế dựa, tôi đi vào phòng ngủ của chủ nhà. Đồ đạc của tôi để rải rác khắp căn phòng nhỏ bé, lạnh lẽo này. Tôi vội vàng cởi quần áo và tắm nhanh dưới vòi hoa sen. Phát hiện đầu tiên của tôi trong ngày thứ nhất ở đây là cái bình nước nóng đã bị hỏng. Thực ra tôi không hề thích ngôi nhà hút gió của tiến sĩ Mant tí nào. Những tán cây thông bên ngoài cửa sổ vẫn lấp loáng bóng đen xuống nền nhà đầy bụi pha hai màu nâu sẫm và hổ phách. Anh chàng phó phòng người Anh của tôi dường như thích sống trong bóng tối và những cơn gió gào rú. Thành thử ra trong ngôi nhà đồ đạc sơ sài này, lúc nào người ta cũng cảm thấy lạnh lẽo và bất an. Những tiếng động kỳ lạ khiến tôi đang ngủ cứ phải ngồi bật dậy mà vớ lấy khẩu súng.
Tôi choàng áo ngủ và quấn khăn quanh đầu rồi đi kiểm tra hết buồng ngủ, buồng tắm để chắc chắn rằng mọi thứ đều gọn gàng cho đến tận trưa nay, vì lúc ấy Lucy, cô cháu gái tôi sẽ đến chơi. Rồi tôi quan sát gian bếp và cảm thấy phiền muộn khi so sánh với gian bếp của tôi ở nhà. Ngày hôm qua có vẻ như tôi đã không quên gì khi lái xe xuống Virginia Beach để đi chợ, cho dù tôi sẽ phải nấu ăn mà không có máy nghiền tỏi, máy trộn bột mỳ, máy xay sinh tố hay lò vi sóng. Thậm chí tôi còn tự hỏi không biết lão Mant này có ăn ở trong ngôi nhà này hay không nữa. Chí ít thì tôi cũng bắt đầu nghĩ tới việc mang hết bộ đồ nấu ăn của mình tới đây và chừng nào tôi có những con dao và xoong nồi tử tế thì mọi sự sẽ trở nên đơn giản hơn nhiều.
Tôi đọc thêm vài thứ nữa và chìm vào giấc ngủ dưới ánh sáng ấm áp tỏa ra từ chiếc đèn ngủ cổ ngỗng. Lần này chuông điện thoại lại làm tôi giật mình. Tôi chộp vội lấy ống nghe trong khi mắt cố thích nghi với ánh sáng mặt trời đang chiếu thẳng vào mặt.
- Tôi là thám tử C. T. Roche ở hạt Chesapeake. - Một giọng nam giới xa lạ cất lên ở đầu dây bên kia - Tôi biết là bà đang đảm nhận công việc hộ tiến sĩ Mant, vì vậy chúng tôi cần một sự hồi đáp nhanh của bà. Đại loại là chúng tôi đã phải lặn xuống bãi tàu hải quân đã được niêm phong để tìm ra cái xác và giờ vẫn tiếp tục điều tra.
- Tôi đoán đây là vụ mà một nhân viên nào đó của ông đã gọi điện báo cho tôi ban nãy.
Anh ta im lặng hồi lâu rồi mới thốt lên một câu dè đặt.
- Theo như tôi biết cho đến giờ phút này thì tôi là người đầu tiên thông báo cho bà.
- Một nhân viên cảnh sát tên là Young đã gọi cho tôi vào lúc năm giờ mười lăm sáng nay. Để tôi xem nào. - Tôi kiểm tra mẩu giấy ghi chép - Chữ viết tắt S là Sam, còn chữ viết tắt T là Tom.
Lại im lặng, rồi sau đó anh ta nói bằng một giọng cũng vẫn dè dặt như thế.
- Ồ, tôi không biết bà đang nói về ai bởi ở chỗ tôi không có người nào có tên như thế cả.
Chất adrenaline trong người tôi chợt bùng nổ khi nghe câu này. Giờ là chín giờ ba mươi và tôi bị ấn tượng mạnh bởi những gì anh ta vừa nói. Nếu người vừa gọi lúc trước không phải là cảnh sát thì anh ta là ai. Tại sao anh ta lại gọi đến đây, và làm thế nào mà anh ta lại biết tiến sĩ Mant.
- Cái xác được tìm thấy khi nào? - Tôi hỏi Roche.
- Khoảng sáu giờ, một nhân viên bảo vệ của bãi tàu nhìn thấy có chiếc tàu lạ neo đằng sau một con tàu ở đó và một chiếc ống dài trên mặt nước, giống như có ai đó đang lặn ở phía đằng kia. Và khi cái ống đó cứ bất động trong suốt cả một giờ sau đó, anh ta đã gọi cho chúng tôi. Một thợ lặn được cử đến và như tôi đã nói, anh ta đã tìm thấy một cái xác.
- Có danh tính không?
- Chúng tôi đã kiểm tra cái ví trên tàu. Có bằng lái xe của một người đàn ông da trắng tên là Theodore Andrew Eddings.
- Có phải anh ta là phóng viên không? - Tôi hỏi giọng đầy hồ nghi - Có phải Ted Eddings không?
- Người này ba mươi hai tuổi, tóc nâu, mắt xanh. Tấm hình của anh ta nói lên điều đó. Địa chỉ của anh ta là ở Richmond, phố West Grace.
Anh chàng Ted Eddings mà tôi biết là một phóng viên điều tra đã giành được giải thưởng về cho Associated Press [2]. Đã một tuần trôi qua và tôi chưa thấy anh ta gọi cho tôi. Vào lúc này tôi hầu như không nghĩ ra được điều gì nữa.
- Chúng tôi cũng đã kiểm tra cái bình khí chín milimet. - Roche nói.
Tôi nói tiếp, lần này giọng đã bình tĩnh hơn.
- Danh tính của anh ta tuyệt đối không được tiết lộ với giới báo chí hay bất kỳ ai khác cho tới khi chúng ta chắc chắn.
- Tôi đã bảo mọi người thế rồi. Bà đừng lo.
- Tốt rồi, và không ai có ý kiến gì về việc anh chàng đó tự tiện lặn xuống bãi tàu đã được niêm phong ư? - Tôi hỏi.
- Có thể anh ta muốn tìm kiếm di vật của cuộc nội chiến.
- Làm sao anh phỏng đoán được điều đó?
- Rất nhiều người muốn thám hiểm lòng sông này để tìm kiếm đạn súng thần công hay những thứ tương tự. Được rồi, chúng tôi sẽ kéo anh ta lên để anh ta không ở dưới ấy lâu quá mức cần thiết nữa.
- Tôi không muốn anh ta bị suy suyển. Anh ta cứ ở dưới nước thêm tí nữa cũng không sao đâu.
- Bà định sẽ làm gì với cái xác? - Giọng anh ta lại trở nên dè dặt.
- Tôi không biết chừng nào vẫn chưa có mặt ở đó.
- Ồ, tôi không nghĩ là bà cần phải tới đây...
- Thám tử Roche! - Tôi ngắt lời anh ta - Tôi có cần đến hiện trường hay không hoặc tôi sẽ làm gì khi tới đó không cần phiền tới ông quyết định.
- Ồ, tôi đang phụ trách tất cả mọi người ở đây và trưa nay tuyết sẽ bắt đầu rơi. Không ai muốn cứ đứng mãi đây trên cái bến tàu này cả.
- Theo điều luật của tiểu bang Virginia, cái xác này thuộc phạm vi quyền hạn của tôi, không phải của anh hay bất cứ cảnh sát nào khác, cũng như lính cứu hỏa đội cứu hộ hay nhà tang lễ. Không ai được chạm vào cái xác cho tới khi tôi cho phép. - Tôi nói bằng giọng khe khắt đủ để anh ta hiểu rằng tôi là kẻ khó nhằn.
- Như đã nói thì nếu vậy tôi sẽ phải thông báo cho đội cứu hộ và các nhân viên của bãi tàu ngừng lại. Họ sẽ không vui vẻ gì đâu. Bên Hải quân cũng yêu cầu tôi phải dọn dẹp hết chỗ này trước khi giới truyền thông xuất hiện.
- Đây không phải là việc của bên Hải quân.
- Bà nói với họ đi vậy. Đây là tàu của họ.
- Tôi sẽ vui lòng nói cho họ biết điều đó. Trong lúc ấy thì ông chỉ cần báo với mọi người rằng tôi đang trên đường tới. - Tôi bảo anh ta trước khi gác máy.
Nhớ ra rằng có thể mình sẽ ra ngoài mất vài giờ nên tôi để lại tin nhắn ghi âm ở cửa trước để bí mật hướng dẫn Lucy cách vào nhà khi tôi đi vắng. Tôi giấu chìa khóa ở chỗ chỉ có con bé mới tìm thấy rồi nhét túi đồ y tế và dụng cụ lặn vào cốp chiếc xe Mercedes màu đen. Giờ đã là mười giờ mười lăm và nhiệt độ đã tăng lên 3,5°C. Nỗ lực liên lạc với đại tá Pete Marino trở nên tuyệt vọng.
- Ơn Chúa! - Tôi lẩm bẩm khi điện thoại trong xe cuối cùng cũng reo. Tôi chộp lấy nó ngay lập tức. - Scarpetta nghe đây.
- Cô đấy à.
- Nếu mà anh đã nghe tin nhắn thì chắc biết rằng tôi đang rất sốc. - Tôi bảo anh.
- Cô mà sốc thì đã chẳng gọi cho tôi đâu. - Anh có vẻ vui vì nghe điện thoại của tôi - Có chuyện gì vậy?
- Anh có nhớ cái gã phóng viên mà anh rất ghét không? - Tôi cẩn thận không nhắc đến các chi tiết vì chúng tôi đang ở ngoài nên rất có thể bị theo dõi.
- Gã nào vậy?
- Cái gã làm cho AP suốt ngày lê la ở văn phòng tôi ấy.
Marino ngẫm nghĩ một lúc rồi nói.
- Thế có chuyện gì? Cô đang hẹn hò với hắn à?
- Không may là tôi đang định làm thế thật. Tôi đang trên đường tới sông Elizabeth. Cảnh sát Chesapeake vừa gọi.
- Chờ chút đã. Có vẻ như không phải chuyện hẹn hò. - Giọng anh chùng xuống.
- Tôi e là như thế.
- Rác rưởi thật.
- Chúng tôi chỉ mới tìm được một tấm bằng lái nên vẫn chưa có gì là chắc chắn. Tôi sẽ đến kiểm tra trước khi chuyển anh ta đi.
- Chờ một phút đã nào. - Anh nói - Thế quái nào mà cô phải làm việc ấy? Không có ai khác làm thay à?
- Tôi cần phải nhìn tận mắt trước khi anh ta được lôi lên. - Tôi nhắc lại.
Marino có vẻ không hài lòng vì tính anh hay lo lắng thái quá. Chẳng cần nói thêm câu nào thì tôi cũng đã biết rõ điều đó.
- Tôi chỉ vừa mới nghĩ ra rằng chắc anh sẽ muốn lục soát nhà riêng của gã đó ở Richmond. - Tôi bảo anh.
- Ờ, tất nhiên rồi.
- Tôi chưa biết chúng ta sẽ tìm thấy gì.
- Ồ, tôi chỉ mong cô để cho họ làm việc ấy.
Đến Chesapeake, tôi vòng ra lối rẽ vào cửa sông Elizabeth rồi ngoặt trái vào phố High, đi qua mấy cái nhà thờ xây bằng gạch, bãi xe rác và mấy ngôi nhà di động. Phía bên kia khu vực nhà tù thành phố và sở cảnh sát là trại lính Hải quân hòa lẫn vào khung cảnh rộng lớn tẻ nhạt của bãi tàu cứu hộ được bao quanh bởi dãy hàng rào rỉ sét chăng dây thép gai phía trên. Ngay giữa miếng đất bừa bãi hàng đống sắt thép và tràn ngập cỏ dại là một nhà máy điện đang hun đốt đống rác thải và than đá để cung cấp năng lượng cho bãi tàu duy trì công việc trì trệ và tẻ ngắt của nó. Ống khói và đường ray hôm nay hoàn toàn yên tĩnh, các cần trục tàu thủy không hoạt động. Ít ra là sau đêm giao thừa tất cả mới quay trở lại như cũ.
Tôi lái xe về phía tòa nhà trung tâm được xây bằng gạch lỗ vuông xám xịt. Ngay đằng sau nó sẽ là cầu tàu lát gạch. Ở cổng, một thanh niên mặc đồng phục đội mũ cứng bước ra khỏi phòng bảo vệ. Tôi hạ kính xe xuống. Lúc này mây đã vẩn đầy bầu trời lộng gió.
- Đây là khu vực cấm. - Khuôn mặt anh ta hoàn toàn không có chút biểu cảm nào.
- Tôi là bác sĩ Kay Scarpetta, trưởng phòng giám định pháp y. - Tôi nói trong khi chìa tấm thẻ bằng đồng để chứng minh thẩm quyền trong những vụ án bất thường, bạo lực hay chết bất đắc kỳ tử ở khu vực Thịnh vượng chung Virginia.
Anh ta cúi thấp hơn để xem cho kỹ giữa tôi và chiếc thẻ có điểm chung không. Anh ta liếc nhìn tôi vài lần rồi lại nhìn chiếc xe.
- Bà là trưởng phòng giám định pháp y? - Anh ta hỏi - Thế tại sao bà lại không lái một chiếc xe tang lễ?
Tôi đã từng nghe người ta hỏi thế này rồi và kiên nhẫn giải thích.
- Những người làm việc ở nhà tang lễ mới lái xe tang. Tôi không làm việc ở nhà tang lễ. Tôi là một chuyên viên giám định pháp y.
- Tôi cần có thêm những giấy tờ khác nữa để chứng thực điều đó.
Tôi đưa cho anh ta bằng lái xe và không hề băn khoăn về việc ngay cả cái thứ giấy tờ này cũng không thay đổi được việc anh ta sẽ không cho phép tôi lái xe vào bên trong. Anh ta lùi lại, đưa máy bộ đàm lên miệng.
- 11 gọi số 2. - Anh ta quay đi như thể sắp nói điều gì hệ trọng lắm.
- Số 2 nghe đây. - Có giọng đáp lại.
- Có tiến sĩ Scaylatta ở đây. - Anh ta phát âm sai tên tôi tệ hơn tất cả những người đã từng nói nhầm trước đây.
- 10-4. Chúng tôi đang đứng cả ở đây.
- Thưa bà. - Anh bảo vệ quay sang tôi rồi chỉ - Bà cứ lái xe thẳng qua đây là tìm thấy bãi đậu xe ngay bên tay phải. Bà phải để xe đó rồi đi bộ ra cầu tàu số 2. Ở đó bà sẽ gặp đại tá Green, là người mà bà cần trình báo.
- Thế tôi gặp thám tử Roche ở đâu? - Tôi hỏi.
- Bà cần gặp đại tá Green. - Anh ta nhắc lại.
Tôi kéo kính xe lên trong khi anh ta mở cánh cổng có treo biển cảnh báo rằng khách đang chuẩn bị vào một khu công nghiệp mà việc mang theo bình sơn xịt là vô cùng nguy hiểm, các thiết bị bảo hiểm an toàn phải được trang bị và ngay cả việc đậu xe ở đây cũng đã là liều lĩnh rồi. Từ xa, tôi nhìn thấy những con tàu chở hàng xám xịt đang chuẩn bị cập bên, máy quét, tàu khu trục nhỏ và xuồng bay sừng sững giữa nền trời lạnh giá. Ở cầu cảng số 2 có nhiều phương tiện cứu hộ, xe cảnh sát và một nhóm người đang đứng ở đó.
Đậu xe đúng như chỉ dẫn, tôi vội vã đi về phía họ trong khi họ đưa mắt nhìn tôi. Vẫn để nguyên túi đồ y tế và bộ đồ lặn trong cốp xe nên giờ tôi là một phụ nữ trung niên tay không, chân đi ủng, quần xếp li sợi len và áo khoác Schoffel màu xanh hải quân nhạt. Đúng vào lúc tôi bước chân lên cầu cảng thì một người đàn ông tóc muối tiêu mặc quân phục khác với những người kia chặn tôi lại như thể tôi đang cả gan xâm phạm nơi này vậy. Ông ta đứng chắn ngang đường, miệng không mỉm cười.
- Tôi có thể giúp gì được cho bà? - Ông ta nói với giọng điệu đầy kiểu cách. Gió thổi tung mái tóc của ông ta, khiến cho gò má tái đi.
Tôi tự giới thiệu.
- Ồ tốt quá. - Giọng ông ta nghe không có vẻ như thế - Tôi là đại tá Green thuộc Sở điều tra Hải quân. Chúng tôi thực sự quan tâm đến chuyện này. Tôi nghe đây. - Ông ta quay đi và nói với ai đó - Chúng ta sẽ tháo hệ thống CP [3] đó ra...
- Xin lỗi, ông ở Sở điều tra Hải quân ư? - Tôi cắt ngang vì cần phải làm sáng tỏ mọi việc ngay bây giờ. - Tôi tin rằng bãi tàu này không phải là tài sản của bên Hải quân. Nếu đúng là như thế thì tôi không nên ở đây làm gì. Vụ này lẽ ra phải thuộc trách nhiệm của Hải quân và các ông nên cử một nhà nghiên cứu bệnh học đi mổ xác.
- Thưa bà! - Ông ta nói như thể tôi đang thách thức sự kiên nhẫn của ông ta vậy - Bãi tàu này là tài sản do nhà thầu điều hành và vì vậy nó không thuộc quyền quản lý của Hải quân. Nhưng hiển nhiên chúng tôi cần quan tâm đến vụ này vì có kẻ đã đột nhập và lặn quanh những chiếc tàu thủy của chúng tôi.
- Ông có căn cứ nào chứng minh cho việc đã có kẻ làm việc đó hay không? - Tôi nhìn quanh.
- Một số kẻ săn của nghĩ rằng chúng sẽ tìm thấy vài viên đạn súng thần công, chuông tàu cổ hay bất cứ thứ gì dưới nước ở xung quanh đây.
Chúng tôi đang đứng giữa con tàu chở hàng El Paso và tàu ngầm Exploiter. Cả hai con tàu này đều ảm đạm cứng ngắc trong lòng sông. Mặt nước đen như món cà phê capuccino và tôi chợt nhận ra rằng những gì sắp được chứng kiến tới đây sẽ còn tệ hơn cả những gì mà tôi hãi sợ. Gần chiếc tàu ngầm là khu vực lặn. Nhưng tôi chẳng nhìn thấy dấu hiệu nào của nạn nhân, người cứu hộ hay cảnh sát đang điều tra cái chết của anh ta. Gió thổi từ mặt nước khiến má tôi cóng lạnh. Tôi hỏi Green điều này nhưng ông ta lại quay lưng đi thay vì đáp lại.
- Xem nào, tôi không thể cứ ở đây cả ngày để chờ đợi thằng Stu được. - Ông ta nói với người đàn ông mặc bộ đồng phục công nhân và chiếc áo khoác trượt tuyết bẩn thỉu.
- Chúng ta có thể lôi mông thằng Bo đến đây, thưa đại tá. - Người kia đáp lại.
- Chẳng có cách nào đâu, José. - Green nói, có vẻ như ông ta đã quen biết những công nhân bến tàu này rồi - Không cách nào gọi cho thằng đó được.
- Quỷ tha ma bắt. - Một người khác có bộ râu dài xoắn bện lên tiếng - Ai chẳng biết từ giờ đến trưa nó cũng chưa giã rượu.
- Ờ, có đúng là chó chê mèo lắm lông không nhỉ [4]. - Green nói và cả bọn ồ lên cười.
Người đàn ông râu dài có nước da xù xì như vỏ chiếc bánh hamburger. Anh ta nhìn tôi một cách ranh mãnh trong lúc châm điếu thuốc, bàn tay sần sùi che gió cho lửa khỏi tắt.
- Từ hôm qua đến giờ tôi chưa uống giọt nào. Nước còn không được uống nữa là. - Anh ta thề thốt trong khi đám đồng nghiệp vẫn cứ cười - Mẹ kiếp, sao mà lạnh như vú mụ già thế này. Lẽ ra mình phải mặc cái áo dày hơn mới phải.
- Tao bảo này, thằng dưới kia còn lạnh hơn nữa. - Một công nhân khác nói. Hàm răng anh ta va vào nhau lập cập và tôi nhận ra rằng họ đang nói về kẻ xấu số kia. - Giờ thì chắc nó lạnh cóng rồi.
- Nó có cảm thấy gì nữa đâu.
Tôi cố gắng kiềm chế cơn giận đang ngùn ngụt khi phải quay sang nói với Green.
- Tôi biết ông rất nhiệt tình với vụ này. Tôi cũng vậy. Nhưng tôi chẳng nhìn thấy đội cứu hộ hay cảnh sát nào ở đây cả. Tôi cũng không nhìn thấy cái xuồng hay khu vực mà xác chết bị kẹt dưới đó.
Tôi cảm thấy sáu cặp mắt đang quay sang nhìn mình và tôi cũng nhìn lướt những khuôn mặt phong trần trông như băng cướp biển mặc quần áo thời hiện đại vậy. Tôi không được mời tham dự cái câu lạc bộ bí mật của họ và điều này làm tôi nhớ đến thời thơ ấu, khi mà sự cô lập độc ác đã từng làm tôi bật khóc.
Cuối cùng thì Green cũng trả lời.
- Cảnh sát đang gọi điện ở trong kia. Trong tòa nhà chính ấy, cái nhà có chiếc mỏ neo to tướng ở đằng trước. Mấy tay thợ lặn chắc cũng đang ở trong đó cho ấm. Đội cứu hộ thì vẫn ngồi bên kia bờ sông để đợi bà. Và hẳn là bà cũng muốn biết rằng cảnh sát vừa mới tìm thấy bên đó một chiếc xe tải moóc mà họ cho là của người đã chết. Nếu bà đi theo tôi, - ông ta bắt đầu bước đi, - tôi sẽ chỉ cho bà nơi mà bà quan tâm. Tôi biết là bà có ý định lặn xuống đó với một vài thợ lặn.
- Đúng vậy. - Tôi đi cùng ông ta trên cầu cảng.
- Tôi đoán là đến Chúa cũng không biết bà là sẽ tìm thấy gì ở dưới đó.
- Đã từ lâu tôi học được cách không bất ngờ trước bất cứ sự việc gì cả, đại tá Green ạ.
Khi đi qua những con tàu rệu rã và cũ kỹ, tôi nhìn thấy rất nhiều thanh kim loại mảnh bắc từ thành tàu xuống mặt nước.
- Cái gì vậy? - Tôi hỏi.
- CP. - Ông ta trả lời - Chúng được nạp điện để làm giảm quá trình ăn mòn.
- Tôi hy vọng sẽ có người dỡ nó ra.
- Một tay thợ điện đang trên đường đến đây. Hắn sẽ dỡ bỏ toàn bộ hệ thống cầu cảng.
- Như vậy nghĩa là cái kẻ dưới kia đã xâm nhập được qua hệ thống CP. Tôi không cho rằng việc lần mò qua hệ thống này là dễ dàng.
- Có hề gì đâu. Hệ thống này rất nhẹ. - Ông ta nói như thể bất kỳ ai cũng phải biết điều này - Cũng giống như khi người ta di chuyển với một cục pin chín vôn thôi mà. Cái CP này không thể giết chết hắn. Vì thế bà có thể gạt lý do đó ra khỏi danh mục của mình được rồi.
Chúng tôi dừng lại ở đầu cầu, cũng là phần đuôi của chiếc tàu ngầm đang ngập một phần dưới nước. Từ đây có thể nhìn thấy nó mà không bị vật gì ngăn cản. Neo cách đó chừng hơn sáu mét là một chiếc xuồng bằng nhôm xanh lục với cái ống đen dài dẫn từ chiếc bình gas được nhồi trong một cái săm trên băng ghế sau. Sàn xuồng ngổn ngang các dụng cụ và thiết bị lặn cùng một số vật dụng khác mà tôi ngờ rằng đã có ai đó kiểm tra chúng một cách khá sơ sài. Ngực tôi thắt lại vì cố kìm nén cơn giận.
- Có thể hắn ta chỉ bị chết đuối thôi. - Green nói - Hầu hết những cái chết của thợ lặn mà tôi được biết đều là chết đuối. Người ta có thể chết trong vũng nước nông như thế này.
- Tôi thì thấy những trang thiết bị của anh ta hoàn toàn khác thường. - Tôi lờ đi lời khẳng định của ông ta.
Ông ta nhìn chiếc xuồng đang xoay mòng mòng bởi dòng nước.
- Cái bình gas. Ừ, nó bất thường đấy.
- Khi người ta tìm thấy chiếc xuồng thì nó vẫn đang hoạt động chứ?
- Nó hết khí rồi.
- Ông có thể nói được gì về nó nào? Nó là thứ tự chế à?
- Mua ở ngoài. - Ông ta đáp - Đây là cái bình nén chạy bằng xăng năm mã lực, nó sẽ đẩy khí qua cái ống dẫn áp lực thấp được nối liền với bộ phận điều chỉnh thứ hai. Như vậy hắn ta có thể ở dưới đó chừng bốn, năm giờ đồng hồ cho đến khi hết nhiên liệu.
- Bốn, năm giờ ư? Để làm gì chứ? - Tôi nhìn ông ta - Tôi có thể hiểu được điều đó nếu như ông bắt được tôm hùm và bào ngư ở dưới ấy.
Ông ta im lặng.
- Ở dưới đó có gì vậy? - Tôi nói - Đừng có nói với tôi về những tàn tích của cuộc nội chiến nữa bởi vì cả hai chúng ta đều biết rõ rằng sẽ chẳng kiếm chác được thứ gì ở đây đâu.
- Đúng thực, chẳng có cái chết tiệt gì ở dưới kia cả.
- Ồ, anh ta lại nghĩ đến một thứ gì đó kia. - Tôi đáp.
- Bất hạnh thay hắn ta đã nhầm. Trông mây kìa. Chúng ta phải nhanh lên không không kịp. - Ông ta kéo cổ áo lên trùm kín tai - Tôi đoán chắc bà là một thợ lặn có bằng cấp.
- Nhiều năm nay rồi.
- Chắc chắn tôi cần phải xem chứng chỉ của bà.
Tôi nhìn ra chỗ chiếc xuồng và con tàu ngầm bên cạnh trong lúc tự hỏi những con người này còn nghĩ ra thứ gì để bất hợp tác nữa đây.
- Nếu bà có ý định đó thì chắc phải mang theo nó chứ. - Ông ta tiếp lời - Tôi nghĩ bà biết điều đó.
- Còn tôi thì nghĩ rằng bên quân đội không có phận sự gì với bãi tàu này.
- Tôi thuộc lòng các nguyên tắc ở đây. Và ai điều hành nó không quan trọng. - Ông ta nhìn tôi chằm chằm.
- Tôi biết. - Tôi nhìn lại - Và tôi cho rằng chắc tôi cũng cần phải xin giấy phép nếu như tôi muốn đậu xe trên cầu cảng này, để tôi không cần phải vác theo đồ đạc nữa.
- Bà cần phải xin giấy phép để được đậu xe ở đây.
- Ồ, tôi chẳng có cái gì cả. Tôi không có sẵn thẻ của PADI [5], không thẻ lặn cứu hộ, cũng không có chứng chỉ lặn nữa. Tôi còn không có cả giấy phép hành nghề y của Virginia, Maryland hay Florida.
Tôi nói trơn tru và chậm rãi. Và bởi vì không thể lấn át được tôi nên ông ta tỏ ra cương quyết hơn. Ông ta chớp mắt vài lần và tôi cảm nhận rõ sự khó chịu trong đó.
- Đây là lần cuối cùng tôi yêu cầu ông cho phép tôi được làm công việc của mình. Chúng ta đang có một cái chết bất thường và điều đó nằm trong phạm vi quyền hạn của tôi. Nếu ông không muốn hợp tác, tôi rất vui lòng gọi đến phòng cảnh sát liên bang, Chánh án tối cao của Tòa án Hoa Kỳ hay FBI. Tùy ông lựa chọn. Tôi có thể gọi bất kỳ ai đến đây trong vòng hai mươi phút nữa. Tôi có mang theo điện thoại di động trong túi áo đây. - Tôi vỗ vỗ vào túi.
- Bà muốn lặn, - Ông ta nhún vai - thì cứ lặn đi. Nhưng bà phải ký vào giấy cam kết để bãi tàu đỡ phải gánh trách nhiệm nếu như có bất cứ điều gì không may xảy ra. Và tôi thì e rằng ở đây chẳng có mẫu khai nào giống như thế đâu.
- Biết rồi. Giờ thì tôi phải ký vào một thứ gì đó mà ông không có à.
- Đúng thế.
- Tốt. - Tôi nói - Tôi sẽ tự thảo một bản cam kết.
- Luật sư sẽ phải làm việc đó, nhưng hôm nay lại là kỳ nghỉ lễ.
- Tôi cũng là một luật sư và tôi làm việc vào ngày nghỉ lễ.
Quai hàm ông ta nghiến lại và tôi biết rằng ông ta chẳng cần quan tâm tới bất kỳ bản cam kết nào nếu như ở đây có sẵn một tờ. Chúng tôi bắt đầu quay lại. Dạ dày tôi co thắt vì khó chịu. Tôi không muốn thực hiện cú lặn này cũng như chạm trán những con người mà tôi gặp hôm nay. Trước đây tôi đã từng vướng phải hàng rào quan liêu trong những vụ liên quan đến chính phủ hay các phi vụ lớn. Nhưng lần này thì khác.
- Thử xem nào. - Green lại nói bằng giọng khinh miệt. - Các trưởng phòng giám định pháp y lúc cũng một thân một mình chạy theo các xác chết thế này à?
- Rất hiếm khi.
- Thế thì hãy giải thích tại sao bà lại cho vụ này là quan trọng đến thế.
- Nếu như cái xác được chuyển đi thì hiện trường cũng biến mất. Tôi nghĩ vụ này đủ khác thường để tôi phải bỏ công ngó vào một lát. Tôi đang tạm thời chịu trách nhiệm cho những vụ xảy ra ở quận Tidewater. Vì thế tôi đã lập tức đến đây ngay sau khi được gọi.
Ông ta dừng lại một lát rồi lại tiếp tục trêu tức tôi.
- Tôi rất tiếc khi nghe tin về mẹ tiến sĩ Mant. Thế khi nào thì ông ấy quay lại làm việc vậy?
Tôi cố nhớ lại cú điện thoại sáng nay và người đàn ông tên Young với giọng mang âm sắc miền Nam nằng nặng. Giọng lão Green thì nghe không như thế. Giọng tôi cũng vậy, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi không thể bắt chước được một giọng nói lè nhè.
- Tôi chưa biết khi nào thì anh ta quay lại. - Tôi thận trọng đáp - Nhưng tôi đang không hiểu làm sao ông lại biết anh ta.
- Thỉnh thoảng vẫn có những vụ bị chồng lẫn lên nhau mà không biết như thế có nên hay không.
Tôi không hiểu ông ta đang ám chỉ điều gì.
- Tiên sĩ Mant luôn hiểu rõ vụ nào thì quan trọng và vụ nào thì nên can thiệp. - Green tiếp tục. Những người như thế thì rất dễ làm việc.
- Cái gì quan trọng và cái gì nên can thiệp, đại tá Green?
- Tỉ dụ như nếu có một vụ thuộc phận sự của Hải quân hoặc thuộc phạm vi quyền hạn này, thuộc phạm vi quyền hạn kia, thì có nhiều cách khác nhau để can thiệp. Tất cả đều thành ra vấn đề và có thể có hại. Gã lặn dưới kia chẳng hạn. Hắn ta đến một nơi không thuộc về hắn và thử nhìn xem chuyện gì đã xảy ra.
Tôi dừng bước và nhìn ông ta bằng ánh mắt ngờ vực.
- Có thể là tôi đang tưởng tượng. - Tôi nói - Nhưng tôi cho rằng ông đang đe dọa tôi đấy.
- Thôi đi lấy dụng cụ của bà đi. Bà có thể đậu xe gần đây, ngay sát hàng rào kia. - Ông ta nói rồi bước đi thẳng.
Chú thích:
[1] SEAL: Viết tắt của Sea, Air và Land (Biển, Không trung và Đất liền) - Chú thích của người dịch - ND.
[2] Associated Press (AP): cơ quan thông tấn của Hoa Kỳ lớn nhất thế giới - ND.
[3] CP - Cathodic protector: là một kỹ thuật làm giảm sự ăn mòn bề mặt kim loại bằng cách cho nó hoạt động như một cực âm của pin điện hóa. Hệ thống này thường được dùng để bảo vệ các ống nhiên liệu, cầu cảng, tàu thuyền, để khai thác dầu xa bờ, giếng dầu trên bờ...
[4] Nguyên văn là “The pot calling the kettle black” - Nồi chê ấm đen - ND.
[5] PADI - Professional Association of Diving Instructors: Hiệp hội huấn luyện viên nhà nghề - ND.