Dịch giả: Mai Sơn
LỜI CẢM TẠ

     òng tri ân sâu sắc nhất của tôi xin gởi, tất nhiên, đến bà Nhu, vì đã sống cuộc đời lạ thường như vậy và đã chia sẻ với tôi câu chuyện đời bà. Nhưng quyển sách này sẽ không thể có được nếu không có sự giúp đỡ của nhiều người khác.
Bà Nhu ắt hẳn sẽ còn xa lạ với chúng ta biết mấy nếu không nhờ sự hiếu khách của ông John Phạm và tấm lòng hào hiệp của Đại úy James Văn Thạch, những người mà tôi muốn gởi đến lời cảm ơn chân thành.
Tôi đã học tập với nhiều giáo sư và nhà giáo lỗi lạc trong nhiều năm qua. Giáo sư Jack Harris ở Đại học Hobart and William Smith đã dẫn dắt tôi trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên, và giáo sư Hồ Tài Huệ Tâm tại Đại học Harvard nổi bật với sự uyên bác lỗi lạc của bà về lịch sử Việt Nam. Ngô Như Bình, người hướng dẫn tiếng Việt của tôi tại Harvard, là người thầy tận tâm nhất tôi có may mắn được học. Xin cảm ơn giáo sư Edward Miller tại Dartmouth đã cho tôi những lời khuyên sáng suốt về học thuật của ông, mặc dù không phải là một giáo sư trực tiếp hướng dẫn tôi.
Tôi đã được hưởng lợi ích to lớn từ sự chân thật và rộng lượng của những người mà tôi phỏng vấn. Nhiều người trong số họ đã sống qua một cuộc chiến mà tôi chỉ có thể viết về nó, và tôi thấy mình kém cỏi so với sự hiểu biết của họ. Cảm ơn ngài đại sứ Jim Rosenthal, bà Mauterstock, Phạm Ngọc Lan, Lan Dai Do, bà Bourdillion, và Dominique Matthieu. Xin gởi lời tri ân vô cùng đến nhiều nhà văn và ký giả đã viết về chiến tranh Việt Nam - và những người đã qua đời khi tôi đang viết quyển sách này, bao gồm Stanley Karnow và Malcolm Browne. Là một lính mới, tôi thấy mình may mắn được coi là thành viên của một nhóm mệnh danh là “Old Hacks”. Cảm ơn các bạn đã cho phép tôi tham gia vào những cuộc trò chuyện của các bạn.
Tôi nợ ơn nhiều vị quản thủ thư, chuyên viên lưu trữ văn thư, và những nhân viên đã làm cho cuộc nghiên cứu của tôi trở nên hữu ích hơn tại các cơ sở sau: Thư viện Tổng thống John F. Kennedy và thư viện Tổng thống Dwight D.Eisenhower, Học viện Hoover, Đại học Virginia, Đại học Syracuse, Đại học Tiểu bang Michigan, Thư viện Quốc hội, và Văn khố Quốc gia tại College Park ở Maryland. Xin gởi những lời cảm ơn đặc biệt đến Steve Denneye tại Đại học California, Berkeley, đã chụp và gởi rất nhiều tấm hình và Margaret Harman tại Thư viện Tổng thống LBJ đã định vị những bức ảnh chụp da hổ của bà Nhu. Cảm ơn các chuyên viên lưu trữ văn thư Pháp ở Trung tâm Văn khố Hải ngoại của Pháp ở Aix và Văn khố SHAT ở Vincennes.
Xin đặc biệt cảm ơn MalgorzataLabno và Jessica Martino vì đã đào sâu cuộc nghiên cứu và những bài viết. Và cảm ơn người bạn tài năng của tôi JessicaTampas đã chụp tấm hình tác giả cho tôi. Với Abby Lewis và Laura Phạm Lewis, cảm ơn các bạn đã biến thế giới trở thành một nơi dường như nhỏ bé hơn. Xin gởi lời cảm kích bao la đến Suzanne Santos, Marjorie Elliott, và Sue Kelly vì đã đọc bản thảo kỹ lưỡng và Ted Moore vì cách diễn đạt phù hợp.
Cảm ơn Katherine Sanford và song thân của cô, Peter và Susan Osnos, những người đã khuyến khích tôi trong những nỗ lực đầu tiên. Tôi vô cùng may mắn đã gặp được đại diện Lindsay Edgcombe ở Levine Greenberg LiteraryAssociates. Chị đã đưa tôi đến với một đội ngũ tuyệt vời tại Public Affairs, và tôi chân thành cảm ơn mọi người ở đó đã ra sức cho quyển sách này, nhất là Rachel King và Jen Kelland. Biên tập viên của tôi và là chủ bút của Public Affairs, Clive Priddle, xứng đáng với lời cảm tạ sâu sắc nhất của tôi với việc đã chăm chút từ đầu đến cuối quá trình và cải thiện từng trang viết.
Công việc nhiều năm nghiên cứu và viết lách của tôi sẽ không bao giờ hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ của bạn bè và gia đình tôi. Xin tri ân mọi người, đặc biệt là cha mẹ: mẹ tôi, Marie Catherine, và chồng bà, Richard; cha tôi, Gary, và vợ ông, Suzann; và bố mẹ chồng tôi, Carol và Tom. Tôi mang ơn họ, cùng với các em tôi, Tally và Tama, và gia đình họ, vì lòng kiên nhẫn và tình yêu dành cho tôi xuyên suốt dự án này. Tôi mắc nợ một lời cảm ơn đặc biệt đến đôi mắt tinh tường của mẹ; cảm ơn mẹ đã dành thời gian. Trên hết, tôi cảm ơn tình yêu và sự sáng tạo của các con tôi, Tommy và CC, và người chồng tuyệt vời của tôi, Tom; cảm ơn những người đã luôn tin tưởng và truyền cảm hứng cho tôi.

TÓM LƯỢC CÁC BIẾN CỐ LỊCH SỬ

1802: Hoàng đế Gia Long thống nhất một nhóm lãnh thổ gắn kết lỏng lẻo với nhau thành một quốc gia với tên gọi Việt Nam và chọn Huế làm kinh đô.
1859-1880: Pháp chiếm Việt Nam, Campuchia, và Lào - những quốc gia lúc bấy giờ được gọi là Đông Dương - làm thuộc địa.
1910: Ngô Đình Nhu chào đời ở ngoại ô thành phố Huế.
1924: Trần Lệ Xuân sinh ra ở Hà Nội.
1940: Chính quyền Vichy ra lệnh cho chính quyền thực dân ở Đông Dương cộng tác với người Nhật.
1943: Trần Lệ Xuân kết hôn với Ngô Đình Nhu và trở thành bà Nhu.
1945: Nhật đầu hàng, và Thế chiến thứ hai kết thúc. Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam là một quốc gia độc lập nhưng ngay lập tức gặp phải sự kháng cự của Pháp đang có ý định tái chiếm thuộc địa của họ.
1946-1954: Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, một cuộc chiến giành độc lập của Việt Minh, có tầm chiến lược quan trọng trong suốt Chiến tranh Triều Tiên và phân chia sự ủng hộ quốc tế theo các bên trong Chiến tranh Lạnh; Trung Hoa và Liên Xô ủng hộ Việt Minh, Hoa Kỳ ủng hộ Pháp.
1954: Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ. Hiệp định Genève chia Việt Nam thành hai quốc gia dọc theo vĩ tuyến mười bảy. Thủ đô của miền Bắc Cộng sản ở Hà Nội; thủ đô của miền Nam, Việt Nam Cộng hòa, ở Sài Gòn.
1954-1963: Ngô Đình Diệm đứng đầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa mới thành lập. Em dâu ông, bà Nhu, được ban cho địa vị và quyền lực của Đệ nhất Phu nhân Việt Nam Cộng hòa.
1960: Chính quyền Cộng sản ở Hà Nội thành lập Mặt trận Giải phóng Dân tộc, một lực lượng quân sự du kích chống ông Diệm, chống Mỹ ở Nam Việt Nam, mà về sau người Mỹ gọi là Việt Cộng.
1963: Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm và em trai Ngô Đình Nhu bị sát hại trong một cuộc đảo chính do Mỹ bật đèn xanh. Bà Nhu bắt đầu cuộc đời lưu vong.
1964: Biến cố Vịnh Bắc bộ xảy ra. Quốc hội Mỹ trao cho Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson quyền khai chiến, và sự can dự của quân đội Mỹ ở Việt Nam chính thức bắt đầu.
1973: Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam.
1975: Sài Gòn thất thủ vào tay người Cộng sản, và quốc gia Việt Nam được tái thống nhất.
1995: Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được bình thường hóa, và lệnh cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam được dỡ bỏ.
2011: Bà Nhu qua đời trong một bệnh viện ở Rome, Ý.

LỜI BẠT

của Peter Osnos, Nhà sáng lập và Biên tập viên độc lập
Chuyến đi đầu tiên của Monique Brinson Demery đến Việt Nam năm 1997 như một phần của chương trình du học của hai đại học Hobart và William Smith. Cô đã nhận được học bổng VASI của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ để theo học tiếng Việt tại Hà Nội, và năm 2003, cô nhận bằng Thạc sĩ về Đông Á học của Đại học Harvard. Những cuộc phỏng vấn khởi thủy của Demery với bà Nhu năm 2005 là lần đầu tiên cựu Đệ nhất Phu nhân Việt Nam Cộng hòa dành cho một người phương Tây trong gần hai mươi năm. Demery sống ở Chicago.
Public Affairs là một nhà xuất bản được thành lập năm 1997. Nó là hiện thân của những chuẩn mực, giá trị, và sự tinh tế của ba con người đã phụng sự như những vị cố vấn thông thái của vô số ký giả, nhà văn, biên tập viên, và tất cả mọi người trong giới sách vở, trong đó có tôi.
I.R Stone, chủ sở hữu I.E Stones Weekly, kết hợp sự tận tâm với Tu chính án thứ nhất và lòng nhiệt thành doanh nhân và kỹ năng tường thuật. Ông trở thành một trong những ký giả tự do vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ. Ở tuổi tám mươi, Izzy cho ra mắt tác phẩm The Trial of Socrates, vốn là một quyển sách best-seller toàn quốc. Ông đã viết quyển sách sau khi tự học tiếng Hy Lạp cổ.
Benjamin C. Bradlee trong gần ba mươi năm là tổng biên tập đầy uy tín của The Washington Post. Chính Ben là người đã mang lại cho Post một tầm vóc và sự can đảm để theo đuổi những vấn đề lịch sử như Watergate. Ông ủng hộ các phóng viên của mình với sự kiên định khiến họ dấn thần một cách không sợ hãi và chẳng phải ngẫu nhiên mà rất nhiều người trong số họ đã trở thành tác giả những quyển sách best-seller đầy thanh thế.
Robert L. Bernstein, giám đốc điều hành của Random House trong gần một phần tư thế kỷ, đã dẫn dắt một trong những nhà xuất bản hàng đầu quốc gia. Bản thân Bob có công cho ra đời nhiều quyển sách bất đồng quan điểm và tranh luận chính trị để thách đố những chính thể bạo ngược trên toàn cầu. Ông cũng là nhà sáng lập và chủ tịch lâu đời của Human Rights Watch, một trong những tổ chức bênh vực nhân quyền được kính trọng nhất trên thế giới.
Trong năm mươi năm, ngọn cờ của Public Affairs Press đã được giương cao bởi chủ nhân Morris B. Schnapper, người đã xuất bản Gandhi, Nasser, Toynbee, Truman, và khoảng 1.500 tác giả khác. Năm 1983, Schnapper đã được The Washington Post mệnh danh là “một kẻ châm chọc đáng gờm”. Di sản của ông sẽ còn tồn tại trong những quyển sách sắp ra mắt.
Peter Osnos, Nhà sáng lập và Biên tập viên độc lập

HẾT

 

Xem Tiếp: ----