Dịch giả: Mai Sơn
Chương 3
MỘT GIA ĐÌNH QUYỀN QUÍ

     àng tìm hiểu về những năm thiếu thời của bà Nhu, ánh hào quang của quá khứ gia đình bà càng kém vẻ lộng lẫy. Những gương mặt tươi cười của đôi vợ chồng già nua trong bức hình trên một tờ báo ở Washington năm 1986 thật khó lòng hòa hợp với bức chân dung u ám của ông bà Chương vốn đã xuất hiện. Những mảnh ghép hồi ức “khốn khổ” về thời thơ ấu của bà Nhu gắn lại đúng chỗ khi tôi hiểu rằng không ai, tất nhiên ngoài song thân của bà, từng mảy may nghĩ đến việc một ngày nào đó bé gái nhỏ xíu này, chào đời trong một bệnh viện Hà Nội vào ngày 22 tháng 8 năm 1924, rốt cuộc sẽ trở thành một cái gì đó quan trọng.
Một ca sinh nở truyền thống sẽ diễn ra tại nhà với một bà mụ, người sẽ nói rằng sinh linh này không sẵn lòng để chào đời vì lẽ đứa bé nằm ngôi ngược, vì vậy mà không chịu trượt xuống ống sinh. Bà sẽ phản đối kẹp forcep, những dụng cụ nhỏ bé và khoa học hiện đại, như là sự can thiệp vào thiên ý. Một bà mụ sẽ bỏ mặc cho đứa bé, xanh xao yếu ớt, câm nín, và bất động, quay trở về bất luận giao lộ nào nằm đâu đó giữa thiên đường và trần thế dành cho những linh hồn chưa được đầu thai lang thang phiêu dạt.
Nhưng không có bà mụ nào trong ngày hôm đó cả. Đứa bé sẽ là một bé trai. Người mẹ chắc chắn điều đó đến độ bà đã thu xếp việc sinh nở trong bệnh viện. Bà đã trải qua nỗi khủng khiếp của cơn đau đẻ kéo dài, biết rằng điều đó xứng đáng - vì một đứa con trai.
Vị bác sĩ người Pháp có lẽ đã lo sợ sẽ bị khiển trách nếu có điều gì bất thường xảy ra. Đó là lần đầu tiên ông đỡ đẻ một em bé Việt kể từ khi ông đặt chân đến Đông Dương, nhưng đây là một ca đặc biệt.
Người thiếu phụ đầm đìa mồ hôi và máu đang nằm trên bàn là bà Chương, công chúa Nam Trân, một thành viên của hoàng gia.
Nhan sắc tuyệt mỹ của người con gái mười bốn tuổi này thật là hiếm hoi đến độ về sau nhờ đó bà đã giành được một tấm huân chương phong tặng bởi những người Pháp say mê bà, những người đã đặt cho bà biệt danh “Viên ngọc trai Á châu”.(1) Mặc dù được dạy về nghệ thuật nội trợ, cũng như ca hát và thêu thùa, bà không bao giờ cần động đến dù chỉ một ngón tay mảnh dẻ, ngoại trừ để rung chuông gọi người hầu. Nhiệm vụ quan trọng nhất của bà với tư cách người vợ là sinh cho chồng một đứa con trai thừa tự.
Chồng bà xuất thân từ một gia đình địa chủ quyền thế. Là con trai cả của một thống đốc tỉnh ở Bắc Kỳ thuộc Pháp, ông Chương đã được ban cho mọi điều tốt đẹp nhất trần đời, từ một nền giáo dục Tây phương cho đến một cô dâu thuộc dòng dõi hoàng tộc.(2) Dòng họ Trần của ông vốn có quan hệ họ hàng với nhà vua, thành ra ông Chương cũng là một người bà con xa với vợ ông.
Vị bác sĩ người Pháp hẳn đã cảm thấy áp lực ghê gớm để cứu lấy cái hình hài tái nhợt cuối cùng đã lộ diện giữa một lớp màng nhầy nhụa huyết dịch. Đây là cơ hội để vị bác sĩ chứng tỏ bản thân - và sự vượt trội của nền y học Tây phương. Ông nắm chặt hai mắt cá chân của đứa bé và đét liên hồi vào cặp mông bé xíu cho đến khi những tiếng khóc đầu tiên bật ra.
Tiếng khóc ấy là lời chào đầu tiên của đứa bé sơ sinh với thế giới.(3)
Đó là một bé gái.
Một người mẹ trẻ mười bốn tuổi như bà Chương đã làm gì với đứa con mới đẻ, một nhúm thịt với gương mặt đỏ hỏn, đang khóc toáng lên trong tay mình? Khi vừa mới chào đời, chẳng có mấy lý do để người ta tin rằng số phận của bà sẽ khác với hàng bao thế kỷ phụ nữ đi trước bà. Trong truyền thống Khổng giáo Á Đông, con trai được chờ đợi sẽ chăm sóc cha mẹ khi già yếu, và chỉ có con trai mới là quan trọng trong tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Tục ngữ Việt Nam truyền thống đã thâu tóm nỗi thất vọng của việc sinh con gái: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, hay “Một trăm con gái không bằng hòn dái con trai”.(4) Vào ngày cưới, người đàn ông đưa về gia đình một vật sở hữu quý giá hơn tất thảy: một cô con dâu, người sẽ chỉ được giải thoát khỏi vai trò người hầu thật sự của gia đình chồng, đặc biệt là mẹ anh ta, chỉ đến khi cô có con trai. Vòng luẩn quẩn cứ thế tiếp diễn.
Bà Chương vốn đã sinh một đứa con gái rồi. Con đầu lòng của bà, Lệ Chi, chào đời không đầy hai năm trước đó, và bà Chương đã tự thuyết phục bản thân rằng đứa thứ hai này sẽ là con trai. Bà tin chắc điều đó đến mức đã mua về nhiều đồ chơi và quần áo của con trai.
Đứa con gái thứ hai này chỉ làm trì hoãn ngày tự do của bà Chương mà thôi, cho đến khi sinh được con trai, bà là người thấp cổ bé họng nhất trong nấc thang thứ bậc của gia đình chồng. Hơn thế nữa, mẹ chồng bà đã đưa ra một vài lời đe dọa đáng ngại. Bà muốn con trai bà, ông Chương, lấy vợ lẽ nếu đứa thứ hai này không phải con trai. Ông Chương, suy cho cùng, là con trai trưởng của nhà họ Trần danh giá - ông nên tận dụng mọi cơ hội để truyền thừa sự vĩ đại của gia đình bằng huyết nhục của chính mình. Tục đa thê đã là một phần của truyền thống văn hóa ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Một người phụ nữ chỉ biết sinh con gái, dù có là đứa con dâu trung thành hay không, cũng chẳng có mấy giá trị. Những thất bại nên được xóa sạch càng nhanh càng tốt.
Đó là một viễn cảnh buồn thảm đối với một phụ nữ mười bốn tuổi như bà Chương. Nếu chồng bà lấy vợ hai, và nếu người đó thành công ở nơi bà đã thất bại, là sinh cho gia đình chồng một đứa con trai, bà Chương và các con gái bà sẽ phải lấm la lấm lét sống phần đời còn lại trong sự phục tùng người khác. Chẳng bao lâu sau bà đã hạ quyết tâm rằng bà sẽ phải làm việc này thêm một lần - và lại một lần nữa - cho đến khi bà có con trai mà bà chờ đợi. Và đứa con trai người ta chờ đợi nơi bà.
Đứa con gái mới sinh được đặt tên là Lệ Xuân. Mặc dù bấy giờ không phải mùa xuân. Tháng Tám ở Hà Nội thường là thời gian bắt đầu vào thu, và năm đó cũng không là ngoại lệ. Có vẻ như những ngày đầu mùa thu đã thổi chút se lạnh vào thành phố, mang lại một không khí tươi mát sau những ngày hè dài oi bức. Những nhành liễu rủ chạm khẽ mặt hồ, mời gọi làn gió nhẹ khiêu vũ bổng bềnh trong những tán lá, và cư dân thành phố đổ ra ngoài trời thoáng đãng để tận hưởng mùa ôn hòa ngắn ngủi trước khi những cơn gió lạnh từ Trung Quốc tràn qua.
Bé Lệ Xuân và mẹ không được hưởng một phút giây nào của niềm hạnh phúc ấy. Truyền thống Việt Nam bắt trẻ sơ sinh và người mẹ phải gần như nằm liệt giường trong một căn phòng tối tăm, ít nhất ba tháng sau khi sinh. Căn phòng chẳng khác nào một cái kén dành cho người mẹ và em bé. Ngay cả những thói quen tắm táp cũng bị hạn chế. Phong tục này xuất phát từ những mối ưu tư thực tế liên quan đến những rủi ro tử vong của trẻ sơ sinh trong vùng châu thổ nhiệt đới, nhưng trên thực tế cái khung cảnh u ám sau khi sinh ắt hẳn khiến người ta ngộp thở. Ngoại trừ thầy lang và thầy bói là những nhân vật không thể thiếu, những vị khách thăm bà Chương được hạn chế trong số những thành viên thân thuộc nhất của gia đình.
Thầy tử vi của gia đình là một trong những người nhìn mặt em bé đầu tiên. Công việc của ông ta là đoán quyết vận mạng của bé bằng cách đối chiếu ngày sinh, mùa hoàng đạo, giờ sinh với vị trí của mặt trời và mặt trăng và không quên tính cả những ngôi sao chổi đang lướt qua. Một khả năng rất lớn là nhằm cổ vũ tinh thần của người mẹ đáng thương bị phong kín trong căn phòng tối ba tháng trời, cùng đứa con gái nhỏ mà bà không hề mong muốn, ông thầy đã thốt lên về số phận của đứa trẻ: “Thật là ngoài sức tưởng tượng!” Đứa bé, ông nói với bà Chương đang run lẩy bẩy, sẽ leo lên đến những đỉnh cao vời vợi. “Ngôi sao chiếu mệnh của nó không thể nào tốt hơn!” Bé gái sẽ lớn lên trong niềm tin vào vận mệnh của mình đồng thời với lời tiên tri xán lạn đã khiến mẹ cô ghen tỵ một cách sâu xa. Kết quả là một cuộc đời với những mối quan hệ mẹ con đầy căng thẳng và sự ngờ vực bất tận.
Bà Chương theo lời kể của mọi người là một thiếu phụ trẻ đẹp mê hồn đến từ kinh đô Huế ở miền Trung Việt Nam. Hoàng đế Đồng Khánh, người trị vì trong thời gian ngắn ngủi từ 1885 đến 1889, là ông ngoại của bà. Một loạt những người anh em họ của bà đã thay nhau kế vị ngai vàng kể từ đó. Là một thành viên của hoàng tộc mở rộng, bà được coi là một công chúa, và bà là hiện thân của sự duyên dáng truyền thống với một ngoại lệ: khi mỉm cười, răng bà trắng sáng như ngọc trai. Bà đã chống lại hủ tục nhuộm đen răng bằng vôi. Với những trưởng lão trong gia tộc, nụ cười trắng tinh của bà trông gớm ghiếc, như thể một chiếc miệng đầy xương. Những chiếc răng trắng và dài thuộc về những kẻ man rợ và dã thú; nhuộm đen chúng để né tránh những nỗi sợ hãi rằng một linh hồn tà ma đã lẩn lút đâu đó trong con người. Một cái miệng với hàm răng đen bóng là biểu hiện truyền thống của sự tao nhã và cái đẹp.
Nhưng với ông Chương, nụ cười trắng s&aacui - về gia đình tôi, tôn giáo tôi, và hiểu biết về kinh thánh của tôi. Không có câu trả lời nào của tôi có vẻ khiến bà hoàn toàn hài lòng.
Tôi hiểu ra rằng tốt hơn nên để cho bà Nhu nói. Bà sẽ lưu lại lâu hơn trên điện thoại, và điều đó chắc hẳn sẽ đưa bà quay trở về quá khứ. Từ đó tôi có thể khơi ra những mảnh chuyện nhỏ về thời thơ ấu của bà và hỏi bà những gì bà còn nhớ về những thời kỳ khác nhau mà đời bà đã trải qua. Nhưng khi tôi đặt một câu hỏi mà bà Nhu thấy có vẻ quá thăm dò, bà liền chặn tôi lại. Đó có thể là một câu hỏi phù phiếm về cuộc sống trong cung điện ở Sài Gòn - chẳng hạn, tôi đã nghe đồn rằng bà có những cái nhà vệ sinh bằng vàng. Khi tôi hỏi bà về điều đó, bà gọi tôi là đứa trẻ ngớ ngẩn. Nếu tôi cố hỏi về chế độ đã nhốt những nhà sư Phật giáo và những sinh viên đại học trong những cái chuồng cọp dơ dáy nhục nhã, bà bảo tôi hãy thận trọng với những nguồn tin của mình. Những địch thủ chính trị của chế độ bà, bà nói với giọng thật sự tức giận, đã bị Cộng sản lừa bịp.
Tôi thố lộ với bà Nhu về việc tôi có thai sau khi hai vợ chồng tôi đã thông báo với gia đình nhưng trước khi chúng tôi chia sẻ tin này với nhiều bạn bè mình. Một cách gần như là bẽn lẽn, tôi kể với bà về sự trùng hợp đáng kinh ngạc – về việc bà đã gọi tôi vào ngay sáng hôm đó và chuyện mang thai với tôi khó khăn đến mức độ nào.
Bà Nhu ngập tràn cảm xúc. “Mais, c’est merveilleux” Tuu…yyêệt vời! Bà gần như hét lên lời tán thưởng. “Thật là đúng như tôi nghĩ”, bà Nhu ấp úng: “Nó xác nhận điều tôi đã hoài nghi!” Tôi hơi ngạc nhiên trước tất cả tình cảm mà bà đang thổ lộ với tôi; đó là một cách nói lời chúc mừng kỳ lạ, nhưng tôi còn có thể nói gì hơn là, “Merci”?
Tình thế thật lúng túng và còn hơn nữa không lâu sau đó. Bà Nhu nói những lời tiếp theo chầm chậm trong điện thoại, như thể bà đang chia sẻ một bí mật với tôi.
“Cô là một thiên thần. Cô đã được gửi đến để giúp tôi hoàn thành hồi ký của mình. Và nhờ đó mọi chuyện sẽ được tiết lộ”.
Tôi không ngây thơ. Tôi tiếp nhận những lời bà Nhu với một thái độ rất hoài nghi. Tôi nào phải thiên thần - nhưng còn hồi ký? Cuối cùng, bà đưa ra lời hứa về những chi tiết cá nhân - nơi bà gặp gỡ chồng lần đầu tiên, đám cưới diễn ra thế nào, và những trò chơi mà bà chơi đùa với con mình. Tôi hoàn toàn bị dụ hoặc bởi ý nghĩ này. Nếu bà thích nghĩ rằng tôi đã được Chúa gửi đến, có thể điều đó sẽ khích lệ bà cởi mở hơn với tôi.
Những quyển hồi ký thật là trêu ngươi, đặc biệt khi, như bà đã tự hào bảo tôi, chúng sẽ “soi sáng tất cả những bí ẩn”. Bà Nhu đã là chứng nhân sống động của việc nhào nặn lịch sử và những mưu toan chính trị ở những cấp cao nhất. Tôi hơi thích thú với ý nghĩ rằng bằng cách nào đó tôi đã được chọn, nếu không bởi Chúa, thì bởi bà Nhu vậy.
Tôi đã tự huyễn hoặc mình. Tôi thật không sao phân định được liệu tôi có thật sự thích nói chuyện với bà Nhu hay chỉ thích cái ý nghĩ sẽ nói chuyện với bà. Cảm giác này chỉ đơn giản là hồi hộp - như những đoạn đầu của một chuyện tình lãng mạn. Bà là người dẫn dắt, và tôi đi theo.