Lãng tử quên buồn
Nguyễn Trí Thông

     ã là một tên lãng tử. Gã có vóc người thon thả, đuôi rất dài và mượt, phần lông phía trước ức kéo dài đến hết bụng đượm một màu lửa chín. Trông gã phong như thế, đẹp mã như thế, vậy mà thằng Khoa chỉ bỏ ra có ba chục ngàn là đã có thể thong dong xách gã từ tiệm bán chim đem về nhà. Gã thấy chua chát quá. Dù gì gã cũng là một tên chích chòe lửa, đâu phải là hạng chim sâu, chim sẻ hay lũ yến phụng bá vơ...
Mà cũng đành phải chịu thôi, vì gã là thứ chim bổi. Mà dân chơi chim thường không ưa chim bổi là mấy, vì chim bổi là những con đã lớn khôn, khó thuần dưỡng lại hay nhát người, thà bỏ cả trăm ngàn ra mua con chim non về nuôi từ nhỏ rồi tập cho nó hót còn sướng hơn. Nhưng thằng Khoa còn đang đi học tiền bạc không có bao nhiêu, lại chơi chim theo kiểu amateur. Và thế là gã theo Khoa về...

 

Gã tự cho mình không phải là một tên chết nhát, nhưng quả thật gã không chịu nổi mùi người. Mỗi lần thằng Khoa mở cửa lồng bỏ sâu vào cóng thì gã kinh sợ, nhảy tán loạn cái đuôi dài và mượt tưa ra, xơ xác, trông thật thảm hại. Thằng Khoa xót ruột vội phủ áo lồng xuống kín mít, đem treo ở một góc yên vắng.
Bóng tối ngập đẫm làm gã bình tâm trở lại. Gã bồi hồi nhớ lại những ngày đã qua. Chao ôi, cái thời tung hoành oai liệt. Tất cả chỉ vì một chút háo thắng của kẻ thanh niên mới lớn. Tiếng chim mồi. Gã hung hăng lao vào. Tấm lưới trùm lên. Và bầu trời, bầu trời xanh mênh mông và cao vời vợi thoắt cái co rút lại thành một khoảng không chật hẹp, rúm ró, tù túng trong bảy mươi hai nan tre vô cảm. Nghĩ đến đó gã muốn ứa nước mắt. Rồi giờ đây đôi cánh chắc khỏe của gã sẽ không còn dịp sử dụng đến nữa. Gã bần thần, người cứ như rũ ra, nhũn ra, mặc những con sâu qui béo ngậy đang lúc nhúc trong cóng thức ăn. Gã không thiết ăn uống.
Cứ thế đã được ba ngày, ba ngày gã sống trong bóng tối. Cóng thức ăn rồi cũng cạn, vì gã đói, và gã không muốn chết đói. Đời trai trẻ của gã không thể kết thúc thảm hại như vậy.

 

Thằng Khoa bắt đầu mở he hé áo lồng cho gã tập làm quen với cảnh trí bên ngoài. Ánh mặt trời ban đầu làm gã hơi khó chịu, hơi xốn xốn, nhưng sau quen dần lại thấy dễ chịu hơn trong bóng tối ẩm thấp. Tuy nhiên cái mùi người vẫn làm cho gã không thể chịu đựng nỗi. Mỗi khi thằng Khoa đổ sâu vào cóng thức ăn, gã vẫn cứ nhảy loạn xạ lên, và cái đuôi hàng hiệu của gã lại tưa ra, xơ xác.
Gã bắt đầu quan sát bên ngoài, thấy một cái lồng yến phụng, chếch phía trên cao hơn là một cái lồng chích chòe than. Thằng yến phụng thì gã coi như đồ bỏ, không đáng ngó tới. Giống chim xanh xanh vàng vàng lòe loẹt ấy chẳng biết làm gì ngoài việc nhai hạt kê, lâu lâu lại choe chóe lên thật chói tai. Nó không biết hót, thằng Khoa nuôi nó có lẽ chỉ để nhìn cho đỡ chán mắt. Gã nghĩ vậy. Còn thằng chích chòe than, thằng này mới thực sự làm cho gã bận tâm. Coi kìa, cái thằng được nuôi dưỡng tốt, béo múp míp ra, bộ lông nõn nà mướt rượt. Trong lồng của nó có đến hai cóng đựng thức ăn, một đựng sâu qui và một đựng bột đậu phộng giã nhuyễn trộn lòng đỏ trứng gà. Món bột nhân tạo đó thì gã chớ hề đụng tới. Gã chỉ ăn sâu qui, mặc dù món sâu nuôi này chẳng làm gã thích thú gì mấy. Vậy mà thằng chích chòe than, cái thằng phàm phu tục tử ấy nó xơi tất, không từ thứ gì, lại còn ăn rất ngon lành, rất sung nữa chứ. Nhưng nếu chỉ như thế thì gã đã không khinh nó đến như vậy, bởi vì một bữa nọ, gã thấy thằng Khoa mở cửa lồng của nó, đưa tay vào và huýt sáo vài tiếng, tức thì cái thằng đốn mạt ấy nhảy tót lên tay cậu chủ, lại còn giả vờ mổ yêu nữa, trông thật bợ đỡ, thật giả dối. Ôi, cái thằng đã bén mùi người.

 

Lâu lâu thằng Khoa lại hé áo lồng của gã thêm một tí. Cứ thế hơn một tháng nó đã có thể vén hết áo lồng lên và gã cũng thôi không nhảy tán loạn nữa. Bây giờ thằng chích chòe than mới nhận ra sự hiện diện của gã. Nó lích chích một tràng cao chói vói rồi chòe một tiếng dài thị uy. Gã vốn đã không ưa thằng này, giờ nó lại gây hấn trước, gã cũng không ngại gì dạy cho nó một bài học. Gã ưỡn ngực cất một tràn véo von. Giống chích chòe lửa của gã giọng hót không cao vót như chích chòe than, nhưng chất uy lực thì không hề thua kém, huống gì gã lại là một tên lãng tử rừng. Thằng nhóc than liền im bặt, không dám hó hé nữa. Gã muốn cười phá lên. Thì ra thằng này còn yếu lửa, nó vốn là chim nhà nuôi từ nhỏ, giọng hót của nó chẳng qua học từ băng cassette mà ra. Cái thằng... thật chẳng ra gì!
Riêng thằng Khoa thì vui lắm. Nó không ngờ con chim bổi nuôi chỉ hơn một tháng đã chịu hót, vậy là “vớ bở” rồi...

 

Gã bắt đầu dạn dĩ dần. Mùi người không còn làm gã kinh tởm nữa, nhưng như thế không có nghĩa là gã không cảm thấy khó chịu. Gã đã chịu ăn, chịu uống, chịu tắm táp song tuyệt nhiên không hề đụng tới món đậu phộng trộn lòng trứng cũng như để cho thằng Khoa xáp lại gần. Không ai biết được rằng gã đang có một thú vui thầm kín, đó là tìm cách dập cho thằng chích chòe than kia hết lửa luôn. Và càng không ai biết được rằng, cái ước vọng một ngày lại được tung bay vẫn âm ỉ trong lòng gã. Đã nói rồi, gã không phải là kẻ tầm thường. Gã là một tên lãng tử, một tên lãng tử ngông đời...

 

Bình thường, một tuần Khoa lại đem chim đi tắm một lần. Mấy ngày nay, trời đột nhiên nóng bức quá, Khoa cưng chim, sợ chim nóng kiệt sức nên ngày nào cũng cho tắm. Thằng yến phụng thì xưa nay vẫn thế, không đời nào chịu nước. Còn gã và thằng than thì lại mê tắm táp lắm.
Mỗi lần cho chim tắm, Khoa áp lồng chim vào lồng tắm - vốn là một cái lồng khác bên trong có bơ đựng nước - rồi rút cửa lồng. Chim sẽ bay qua lặn ngụp đã đời rồi trở về lại lồng cũ.
Gã tính, chỉ có những lúc đó mới là cơ hội cho gã thoát thân. Và cái ngày mà gã mong đợi từ bao lâu nay cũng đã đến. Một lần, và chỉ một lần đó thôi, thằng Khoa sơ ý rút cửa lồng sớm mà chưa kịp áp vô lồng tắm, tức thì gã vụt bay ra. Thật khó có thể diễn tả cảm xúc của gã lúc đó. Thoắt cái gã đã vụt lên khỏi nóc nhà, mất hút trong tán cây xoài rậm rạp của nhà bên cạnh. Khoa tuyệt vọng chạy bổ lên gác nhưng gã đã không để lại tâm hơi.
Khoa ngồi phịch xuống, tiếc con chim chiến muốn trào nước mắt. Rồi chẳng biết nghĩ sao, nó đem cái lồng trống không máng lên một chạc cây trong tán xoài rậm rạp, châm thêm sâu tươi vào cóng thức ăn. Trời ạ, Khoa hy vọng gã sẽ trở về, sẽ chui vào lòng. Biết làm sao được, tình cảm mãnh liệt đôi khi làm cho con người ta có những hành động thật không thể hiểu nổi...
Vậy mà gã về, về thật. Thì ra sau khi bay lượn chán chê, tung tẩy hết mọi cảm xúc của sự tự do, gã bắt đầu hoang mang. Nơi đây là thành phố chứ không phải cánh rừng quen thuộc của gã. Nhìn đâu cũng chỉ thấy lô xô mái nhà, nhà ngói, nhà tầng, và những cột ăng-ten tua tủa trơ trọi. Gã không biết đi đâu, thế thì đành bay quanh quất nơi cây xoài xum xuê. Rồi thì gã bắt đầu đói. Ối chà, một lãng tử hiên ngang, không sợ trời, không sợ đất như gã thì ra cũng giống mọi hạng khác ở cái sự đói. Những miếng ăn không còn là vấn đề đơn giản nữa. Lũ sâu không dại gì bò ra ngời ngời để hiến thân cho gã. Quen thói ăn sẵn, giờ đây gã không tài nào tìm được chút gì cho vào bầu diều. Rồi gã trông thấy cái lồng quen thuộc, gã lượn qua lượn lại, thấy không động tĩnh gì, bèn tìm cửa lồng và chui vào, định bụng chén xong một bữa thì biến, mà có ngờ đâu thằng Khoa chỉ chờ có thế, nó giật sợi dây dài buộc với cửa lồng. Cái cửa đóng sập xuống.
Giờ thì gã chỉ muốn chết, vì cái niềm kiêu hãnh rất lớn trong gã, vì ánh mắt khinh khi của cái thằng nhãi than. Gã nhảy tán loạn, cứ nhằm thành lồng mà đâm vào, da đầu gã rách toác, máu tứa ra. Gã nghĩ, không còn mặt mũi nào mà sống nữa. Chẳng có nỗi nhục nào bằng của con chim đã sổ ra ngoài lại tìm cách tự chui vào lồng.
Thằng Khoa hoảng quá vội buông kín áo lồng. Gã đâm đầu đến toạc cả máu nên kiệt sức, ngất đi. Khi tỉnh lại, gã thấy chung quanh mình ngập tràn bóng tối, thứ bóng tối quen thuộc mà gã đã từng sống trong đó. Bóng tối làm cho gã bớt tủi, bớt nhục. Bóng tối đã làm mất đi cái nhìn dè bỉu của thằng nhãi than. Rồi gã bắt đầu rụng lông dần dần và thay lông mới, mọi sự cứ thế diễn ra âm thầm trong bóng tối. Thằng Khoa kiên trì không mở áo lồng trừ những lúc phải thay nước uống hoặc châm thêm sâu tươi.
Gã trở nên quen sống với bóng tối. Bóng tối đã làm gã bạc nhược. Gã đã dẹp bỏ cái tính sĩ diện cũng như niềm kiêu hãnh của một kẻ lãng tử không sợ trời, không sợ đất. Gã sinh tật thèm ăn, ăn rất hăng. Bộ lông mới thay càng thêm mướt mát.
Đến tháng thứ ba, thằng Khoa mở toang áo lồng. Gã đã trở nên hoàn toàn đổi khác, béo múp míp không kém gì thằng than. Gã cất tiếng hót líu lo, không phải hót để đè lửa thằng nhóc mà là rủ rê nó cùng hót. Thằng nhỏ cũng muốn cầu hòa bậc đàn anh. Thế là cả hai cứ líu ra líu ríu ra chiều tâm đắc.
Từ bữa đó, người ta thấy gã ngoan hẳn ra. Gã thôi không tẩy chay món bột đậu phộng trộn lòng đỏ trứng gà, vì nó cũng ngon không kém món sâu. Gã cũng thôi không tẩy chay cậu chủ. Nếu thích, cậu có thể đưa tay vào lồng, huýt sáo vài tiếng là gã sẽ đậu lên ngay, và còn mổ yêu cậu nữa...
Vì cái nỗi buồn lãng tử ấy gã đã quên mẹ nó rồi - dù rằng trên cái đầu đẹp mã của gã, một vết sẹo vẫn còn hằn sâu.