Tủ sách Z.28
Chương 5
Người đàn ông bí mật đeo vòng

    
uả lựu đạn rơi trúng đầu giường sắt, nhảy lên như quả bóng tơ-nít trước khi nổ tung. Mảnh đạn văng tứ phía, tuy nhiên không gây thương tích cho đám quân nhân run rẩy bị Buru dồn cứng yào góc hầm. Nhờ thoát lẹ, Văn Bình cũng không bị hề hấn. Nhưng đại tá Liu lại không may mắn. Trong chớp mắt, nệm giường màu trắng ngà đã đỏ ngầu, máu chảy lênh láng. Phần trên đại tá Liu biến thành đống thịt nhầy nhụa. Nạn nhân tắt thở trước khi bị sức ép của vụ nổ hất tung xuống đất. Văn Bình chồm dậy thật nhanh. Chàng nghe tiếng chân người rồn rập trên miệng hầm. Nhưng đến khi chàng vọt lên cầu thang, ló đầu ra ngoài thì không còn nghe tiếng động này nữa. Chàng cũng chẳng nhìn thấy ai mặc dầu ánh trăng chiếu xuống rất rõ. Buru khập khiễng trèo lên theo. Chàng hỏi hắn:
 Bị thương?
Hắn lắc đầu, giọng lẩy bẩy:
 Không.
 Có ai bị thương không?
 Dường như ba, bốn người. Còn đại tá Liu...
 Chết banh xác. Bây giờ chúng mình quay về...
 Làng Dua?
 ừ, còn lối tắt nào nữa không?
 Trèo qụa núi thì đường gần hơn. Có trăng sáng, tôi có thể dẫn ông đi đường tắt được. Nhưng mình cũng phải xuống hầm cứu chữa cho bọn sĩ quan bị trúng miễng lựu đạn đã chứ?
 Phải lên đường ngay mới kịp. Sợ kỹ sư Anbe Doarê biệt tích, khó tìm lắm.
Trên nguyên tắc, Buru mù tịt về Doarê. Hắn chỉ là thiên lôi, chỉ đâu đánh đó, hắn chỉ có bổn phận hướng đạo từ biên giới đến căn cứ 4Q. Hắn đã thành bạn đường thân tín, chàng nhận thấy không nên giấu hắn nữa. Chàng tưởng hắn ngạc nhiên, không dè chàng vừa nói hắn đã đáp leo lẻo:
 Nếu quả thật kỹ sư Doarê đến làng Dua thì phải nghỉ đêm tại trạm gác.
 Tại sao anh biết?
 Bọn sĩ quan kháo với nhau. Họ nói là trạm gác liên lạc căn cứ 4Q được đặt tại làng Dua.
Văn Bình bất thần bước tréo sang bên. Chàng lại nghe tiếng chân người. Sau lưng chàng, một đống sắt vụn đứng lù lù. Tiếng chân người từ sau đống sắt phát ra. Chàng quát:
-Ai?
Im lặng. Buru rút súng chờ. Một phút nặng nề trôi qua. Tiếng động khả nghi nín bặt. Văn Bình ra hiệu cho Buru:
 Kệ nó. Thôi chúng mình đi.
Nửa giờ sau, hai người về đến làng Dua. Quả như Buru nói, đường xuyên núi gần hơn nhiều, nhưng trèo qua những tảng đá lớn và trơn trượt là chuyện hết sức vất vả, nếu trời tối như hồi nãy thì rất dễ lọt xuống vực thẳm. Nơi Fêlin và hai cô gái nghỉ lại cũng là làng Dua, nhưng là một xóm ở phía Nam, quang cảnh tiêu điều, hầu hết nhà cửa đều bị địa chấn phá nát. Lần này, con đường tắt dẫn hai người đến xóm Bắc, ở vắt vẻo trên cao, giữa những rặng thông cao vút, và những ngôi nhà xây gạch đã khá kiên cố, lại không nằm ở trong trung tâm tàn phá của trận động đất hung hãn.
Văn Bình yên lòng khi nhìn thấy những đốm lửa le lói. Cuối xóm Bắc, trạm liên lạc của căn cứ 4Q được xây trên một mô đá lớn, cao lêu nghêu như nhà ba tầng. Vì một ngẫu nhiên kỳ lạ, những ngôi nhà thấp chung quanh đều ngã rụm, trong khi trạm liên lạc vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cột cờ bằng gỗ trước vọng gác mảnh khảnh tưởng như gíó thổi nhẹ là gẫy vẫn còn trơ trơ, và ở đầu mút là lá cờ Qui-tô bay phất phới một cách kiêu căng và thách thức.
Văn Bình xô cánh cửa khép hờ. Bên trong không có ai. Quân số trong trạm liên lạc gồm nửa tiểu đội, đặt dưới quyền chỉ huy của một trung sĩ. Văn Bình cất tiếng kêu nhưng không có ai trả lời. Chàng dạo quanh một vòng rồi bảo Buru
 Bọn lính chạy hết rồi. Nếu có, kỹ sư Doarê phải nghỉ ở đây. Hay là....
Buru nói:
 Có lẽ trạm gác ở trên mỏm đá cao nên họ sợ. Tôi chắc họ rút xuống nhà xã trưởng, vì ở dưới thấp an toàn hơn.
Buru luồn qua một bụi cây um tùm, dẫn Văn Bình xuống con đường dốc thoai thoải. Chàng nghe nước sông chảy rì rầm. Đâu đây có tiếng người. Chàng đứng lại, tìm phương hướng âm thanh. Buru reo mừng như đứa trẻ được đồ chơi mới:
 Đây rồi, ông ơi!
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 6"/>
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 6"/>
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 6"/>
UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 6"/>
UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 6"/>
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 6"/>
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 6"/>
UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 6"/>
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Subtle Emphasis"/>
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Intense Emphasis"/>
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Subtle Reference"/>
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Intense Reference"/>
UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Book Title"/>
hưng chàng chỉ rảo bước được một quãng ngắn là phải dừng lại. Ngoại trừ Buru nhanh nhẹn như con nhái bén, hai cô gái và gã đàn ông bị thương nơi chân mặc đồ "linh mục" không theo kịp chàng, cả bọn hoảng sợ gọi chàng ơi ới. Con đường trước mặt khá nhẳn nhụi đã bị phủ kín đất đá, chiếc Vônvaghen bị chôn trong nấm mồ cao lêu nghêu, chàng phải rẽ tránh một thân cổ thụ đồ sộ đổ ngang, ngay sau đó là một tảng núi lớn bằng tòa nhà ba tầng nằm chềnh ềnh. Trời lại mỗi lúc một tối. Những ngôi sao cần thiết cho người đi rừng cũng trốn đâu mất. Màn sương buông tỏa dầy đặc càng làm trời thêm tối hơn.
Bỗng Buru la thất thanh:
-Ông ơi!
Bàn tay hắn chạm vào cổ chàng. Tưởng thịt ướp nước đá cũng chỉ lạnh đến thế là cùng. Ngón tay hắn cứng đét như không có khớp xương. Giọng hắn run run:
-Nghĩa địa, nghĩa địa ông ơi!
Văn Bình bật cười. Theo tay hắn chỉ, chàng chỉ thấy lờ mờ những hòn đá cao như đụn rạ sừng sững bên phải. Bên trái là con sông, con sông ngoằn ngoèo sóng cuộn rì rầm. Leo lét một luồng sáng xanh từ những hòn đá đen sì bốc lên, Buru lại la:
-Ma... ma ăn thịt người, ông ơi!
Hai cô gái đều đi nép vào bên chàng, cả hai đều thở hổn hển. Nếu họ ở trong căn phòng gắn máy điều hòa khí hậu, kê giường nệm êm lưng thì tiếng thở hổn hển này là biểu hiệu của khoái lạc thần tiên, nhưng trong cảnh hoang liêu này, tiếng thở hồn hển của hai cô gái căng cứng và hấp dẫn lại làm gai ốc mọc đầy lưng Văn Bình. Chàng hỏi Buru:
-Bên tay phải là nghĩa trang nhân-thảo phải không?
Buru đáp không ra hơi:
-Phải. Người mọi xếp xác chết thành đống chung quanh nền đá rồi mặc cho quạ mổ: lâu ngày, ma lớn, ma nhỏ, ma đực, ma cái, ma trẻ, ma già, kéo nhau về đấy hàng đoàn, ai đi qua không cúng kiến bị nó bóp cổ sặc máu tươi mà chết.
-Cúng kiến bằng gì?
-Rượu têquila và một con heo nướng chín.
-Bọn ma uống hết rượu và ăn hết con heo thui?
-Dĩ nhiên.
Nghe tiếng cười ngạo nghễ của Văn Bình, Buru vội bịt miệng chàng, giọng van vỉ:
-Ông đừng cười. Ma nhân-thảo nghe được thì khốn. Tai ma thính lắm. Có lần một người da trắng tìm mỏ dầu đi qua đây nói xấu bị ma nghe được, ma làm cho một trận thất điên bát đảo, suýt nữa phải về chầu ông bà.
Văn Bình định cười trên Buru nhưng một tiếng rú khủng khiếp đã vang lên:
-Chết tôi rồi!
Đó là tiếng rú của Fêlin. Văn Bình mở đèn bấm và nhìn thấy Fệlin đang vùng vẫy dưới một cái hố khá sâu. Hắn bước khập khễnh lại thiếu thận trọng nên bị hụt chân ngã xuống hố. Văn Bình chiếu đèn vào khuôn mặt nhợt nhạt vì mất máu của hắn:
-Ông bị đau lắm không?
Miệng hắn méo xệch:
-Không khéo tôi bị gãy thêm chân nữa.
Văn Bình ra lệnh:
-Ông ngồi xuống thử xem.
Hắn mới thụp nhẹ đã mất thăng bằng và ngã chồng kềnh. Mình mấy hắn ướt nhèm vì đáy vực toàn nước. Côcô níu cánh tay Văn Bình, giọng lo sợ:
-Cha tôi gẫy cả hai chân rồi.
Fêlin nằm mọp luôn trong vũng nước lầy lội, không sao nhỏm dậy được nữa. Văn Bình phải ép sát mặt đất, thòng tay xuống cho hắn nắm. vất vả lắm chàng mới kéo được hắn lên khỏi hố. Hắn ngã vào vòng tay Văn Bình, miệng rên khừ khừ.
Một cơn gió lạnh thốc qua mang theo mùi hôi thối thịt rữa của nghĩa trang nhân-thảo. Những lùm sáng ma trơi xa xa bỗng lập lòe, lập lòa muốn tắt. Côcô nhìn Văn Bình, vẻ mặt tuyệt vọng:
-Làm sao bây giờ, hả ông? Cha tôi không thể đi được nữa.
Buru đề nghị:
-Theo tôi, ông Fêlin nên nằm dưới gốc cây, chờ đến sáng mai, chúng tôi đến căn cứ 4Q sẽ cho người đến cứu.
Biết thân phận, Fêlin nín lặng. Cách đây 10 phút, hắn đã chĩa súng bóp cò không chút ngần ngại. Nếu cơn động đất quái ác xảy ra chậm một vài giây đồng hồ thì mọi người đã chết. Họ tha chết cho hắn đã là nhân đạo lắm rồi, hắn đâu dám nghĩ đến chuyện họ đặt hắn lên cáng khiêng theo. Vì vậy, hắn chảy nước mắt ròng ròng khi nghe Văn Bình nói:
-Không được. Mình không thể bỏ mặc ông ta ở đây. Biết bao nguy hiểm có thể xảy ra, nào thú dữ, nào bọn mọi ăn thịt người, đó là chưa kể đến động đất.
-Nhưng tôi đã mệt lả.
Văn Bình không đáp, cúi xuống vác Fêlin lên vai. Chàng trèo qua phiến đá, sắc mặt ung dung như thể Fêlin là cái gối chứa bông gòn. Một tia chớp lóe ngang vòm trời đen sạm, Văn Bình chạm luồng nhỡn tuyến đầy ý nghĩa của Côcô. Chàng thấy má nàng ướt mèm. Không rõ ướt vì sương, vì bọt nước từ dưới sông bắn lên tung tóe, hay là ướt vì nước mắt nữa.
Đã vác Fêlin trên vai, Văn Bình còn phải chìa tay cho hai cô gái nắm. Lần lượt, chàng nhấc Côcô và Ritạ qua khỏi tảng đá sang bên kia đường. Buru lóp ngóp bò theo, hắn lo thân hắn chưa xong, chàng không dám nhờ hắn giúp đỡ nữa. Ấy thế mà trung ương tình báo My khoe khoang rùm beng là chàng sẽ gặp một ngươi dẫn đường cừ khôi, nhắm mắt cũng dư sức đưa chàng đến cửa căn cứ 4Q. Không khéo lát nữa đây Buru sụp chân bong cả hai mắt cá, chàng phải vác luôn hắn lên vai cũng nên....
Hắn thở hồng hộc, chàng đập vai hắn hỏi:
-Rẽ trái hay phải?
Con đường tách làm hai nhánh nhỏ. Mặt nước như có lân tinh phản chiếu nên chàng bắt đầu nhìn thấy phần nào cảnh vật. Buru hít hà rồi đáp:
-May quá. Yêu cầu ông quẹo sang bên phải.
-Tại sao anh lại nói "may quá"? sắp đến vòng ngoài căn cứ 4Q rồi hả?
-Chưa. Nhưng sắp đến làng Dua.
-Làng Dua của nhân viên phục vụ trong căn cứ?
-Không. Làng này của dân mọi bản xứ.
-Ăn thịt người?
-Bọn mọi này hiền hơn. Cách làng Dua một cây số mới là căn cứ 4Q.
Văn Bình trượt chân, suýt té nhào. Nhờ chàng kịp thời xuống tấn, nếu không Fêlin đã bị dộng đầu xuống đất. Chàng vừa lấy lại quân bình thì Rita kêu "ối". Rồi bõm một tiếng. Nàng lăn xuống ruộng nước bên đường. Họa vô đơn chí, hai người trong đoàn bị thương người trước người sau trong khoảng một phút đồng hồ ngắn ngủi. Khi được kéo lên, nàng ướt như chuột lột, cái áo vét chàng cho nàng mượn tạm để che thân thể lõa lồ sau trận địa chấn đã nặng chình chịch như đeo chì. Tuy vậy, nàng không dám cởi ra, và cứ mặc nguyên trên người hì hục vắt nước. Cũng may, xương cốt nàng không bị suy xuyển. Chứ nếu nàng khập khễnh thì thật rầy rà....
Giá nàng nặng gấp đôi, Văn Bình cũng đặt lên vai nhẹ bỡn, nhưng còn Côcô? Bệnh ghen của đàn bà đẹp là điều chàng sợ nhất. Chàng thở phào khoan khoái khi nghe Rita đáp:
-Cám ơn anh. Em không hề gì.
Chết rồi, Rita vừa xưng em ngọt xớt... Chàng đang bối rối thì nàng hắt hơi luôn một dây dài. Nghĩa là nàng bị nhiễm lạnh. Chàng cầu Trời kkhấn Phật cho mau đến làng Dua.
Chướng ngại vật mỗi lúc một bớt dần, đường đi đã trở lại bằng phẳng. Nhưng khối thịt của Fêlin trên vai Văn Bình lại mỗi lúc một đè nặng, thêm vào đó là sức níu kéo của hai cô gái. cả hai đều mệt nhoài song vẫn chưa đến nỗi phải đeo chặt lấy chàng. Chàng có cảm tưởng là họ cố tình. Bắp thịt cánh tay chàng dường như bị tê bại. Nhưng chàng không dám phàn nàn.
Tiếng reo của Buru làm chàng tỉnh người. Hắn vỗ tay đôm đốp:
-A ha, làng Dua kia rồi....
Cái được mệnh danh một cách trịnh trọng là làng Dua chỉ gồm một dãy nhà lốc mái trên đống đá gạch và cây cối đổ nát. Mọi người hì hục trèo hết một con dốc cao, men theo lối đi nhỏ trơn trượt giữa hai vách núi thẳng tắp, trước khi đổ xuống một thung lũng chậu thau. Những đốm lửa ma trơi vẫn cháy bập bùng tạo cho cảnh tranh tối, tranh sáng một sắc thái rùng rợn. Đột nhiên, Văn Bình nghe tiếng chó tru thảm thiết. Đó không phải là tiếng chó sói chạy rông tìm mồi ban đêm mà là tiếng chó nhà. Không phải một con mà là nhiều con chó cùng tru lên một lượt. Có lẽ đàn chó may mắn thoát chết trong cơn động đất. Ban đêm, bụng đói, chúng đang kêu cứu bên xác chủ.
Rita rúc đầu vào nách chàng:
-Anh ơi, em sợ quá.
Văn Bình không đáp, ra hiệu cho mọi người trèo lên bực thềm một ngôi nhà xây bằng đá. Trong làng bị tàn phá, chỉ trừ căn nhà trơ trọi này đứng vững. Tiếng chó tru từ sau nhà vẳng lại, rền rĩ như tiếng gọi âm hồn.
Văn Bình đặt Fêlin nằm dài trên nền đất lạnh buốt. Bên ngoài, trời còn mờ mờ, có thể nhìn thấy cảnh vật phần nào, nhưng bên trong hoàn toàn đen kịt. Chàng luồn tay vào túi lấy quẹt máy. Cùi tay chàng đụng bộ ngực căng phồng của Rita. Nàng cũng đang ngồi xuống. Chàng quên bẵng hoàn cảnh khó khăn, quay mặt lại hôn nàng. Trời tối, thoạt đầu, chàng hôn lầm vào má, nhưng sau đó tự nàng kéo miệng nàng sát miệng chàng.
Chàng vội buông nàng ra vì Buru vừa bật diêm kêu soạt một tiếng. Lửa lóe cháy trong căn nhà âm u. Dưới tia sáng vàng vọt, Văn Bình nhận thấy căn nhà trống trơn, ngoại trừ cái bếp lửa ở chính giữa, với hai khúc cây lớn châu đầu vào nhau, tro than đã tàn lạnh, Fêlin rên khừ khừ, thỉnh thoảng lại kêu đau. Rita tiếp tục nhảy mũi. Nàng đang dựa lưng vào khúc gỗ bỗng nằm nghiêng. Chàng rờ trán nàng, trước đó một phút, chàng hôn nàng, cảm thấy hơi nóng bỏng da thịt, tưởng lầm là hơi nóng thèm muốn, chàng không ngờ nàng bị cảm nặng.
Buru cúi đầu hỏi nàng:
-Cô bị sốt ư?
Rita đáp bằng giọng khó khăn:
-Vâng.
Que diêm đã tắt ngúm, bóng tối dầy đặc lại bao trùm mọi vật. Văn Bình nói với Côcô:
-Ba cô bị gẫy hai chân, chỉ có y sĩ chuyên khoa mới bó xương được. Cô Rita cũng bị sốt nặng. Vì vậy, tôi quyết định để cô ngồi chờ ở đây, tôi sẽ đến căn cứ 4Q ngay bây giờ. Nếu không gặp trở ngại dọc đường, tôi sẽ trở lại đây trước nửa đêm với y sĩ của căn cứ.
Côcô đáp, giọng lo lắng:
-Đường đi từ làng Dua đến căn cứ rất nguy hiểm. Đêm tối, ông gặp quảng nào bị núi xạt thì mất mạng như chơi. Ông nên nghỉ lại đây, sáng sớm hãy đi tiện hơn.
-Nhưng còn ông Fêlin?
Chàng định nói thêm "và cô Rita" nhưng vội lặng yên. Chàng hiểu tâm tính phụ nữ hơn ai hết. Côcô thở dài:
-Em chỉ biết tin nhờ vào Chúa, vả lại, ba em chờ một đêm cũng chẳng sao. Em đã học qua lớp điều dưỡng viên, em có thể băng bó tạm thời cho ba em.
Ngừng một phút, nàng nói, giọng tha thiết làm Văn Bình mủi lòng:
-Ông đi rồi, ai giúp em chống lại bọn mọi ăn thịt người và thú dữ?
Suýt nữa, nếu không nhớ đến ông Hoàng ở Sài Gòn giờ này đang thức bên máy truyền tin, nhớ đến tủ sắt đựng tiền rỗng tuếch của sở, chàng đã nghe lợi nàng mà ở lại đến sáng hôm sau. Nàng lo sợ rất có lý: bọn mọi bị trận địa chấn đuổi ra khỏi núi có thể đổ xô xuống làng Dua, đàn chó nhà ngoan ngoãn có thể biến thành cọp dữ nhá xương người ngấu nghiến vì quá đói khát, vì tinh thần bị khủng hoảng cực độ. Lẽ ra chàng phải mang nàng đi theo, hoặc ở lại với nàng. Nàng có những đường cong ngon lành và thơm tho, ở lại một đêm với nàng dưới trời lạnh rét không phải là không thú vị.
Nhưng...
Sợ bàn bạc thêm nữa chàng sẽ dùng dằng và mềm lòng trước những giọt nước mắt nóng hổi sắp sửa lăn trên gò má Côcô, chàng bèn khoát tay gọi Buru. Hắn đã chồm dậy từ nãy:
-Ông gọi tôi?
-ừ. Khẩu súng săn đâu?
-Đây. Nhưng trời tối lắm, ông ạ.
-Tối cũng phải đi.
-Cô Côcô nói đ&Buru nói Ồm Ồm, viên y sĩ quay lại. Trông sau lưng, y có vẻ già. Văn Bình đoán phỏng từ 50 tuồi xấp lên, căn cứ vào đôi vai rụt những những sợi tóc bạc lởm chởm, óng ánh dưới ánh trăng từ ngoài chiếu vào. Khi y sĩ quay lại, Văn Bình hơi sững sốt vì hắn không già chút nào. Hắn trạc 27, 28 tuổi là cùng, đôi môi thâm sì tố cáo hắn là đệ tử của ả Phù Dung, hoặc có tâm địa nham hiểm. Tóc hắn bạc có lẽ vì xấu máu. Hắn nhìn Văn Bình bằng cặp mắt lờ đờ, dường như hắn nhìn mà không thấy; bằng chứng là y đứng im như phỗng sành, chẳng nói chẳng rằng, đôi kiếng cận dày cộm, gọng mạ kền trễ xuống nửa sống mũi.
Buru nhanh nhẩu:
 Chào bác sĩ.
Viên y sĩ phớt tỉnh trước lời chào hỏi đậm đà của Buru. Trên tấm ván gỗ mục gần đó, một thiếu phụ da đã nhăn nheo như quả táo tầu khô đang rên khừ khừ. Y sĩ đút đầu ống nghẹ vào lỗ tai rồi cúi xuống, nghe tim. Mặt hắn vẫn phẳng lì như tảng đá cẩm thạch. Thiếu phụ cựa mình nhè nhẹ, tay bắt chuồn chuồn, miệng lắp bắp:
 Chết tôi mất, trời ơi!
Y sĩ nhấc ống nghe, dáng điệu trầm ngâm. Một phút sau, hắn lắc đầu, quay sang bên để khám người khác. Đột nhiên, Văn Bình nổi da gà, thiếu phụ nằm trên ván gỗ vừa cựa mình, cố gắng chống tay ngồi dậy, nhưng đã ngã rụp, ót dộng vào mặt ván kêu cộp một tiếng khô khan. Văn Bình bước lại gần, thiếu phụ ngửa mặt nhìn lên, hai mắt đầy tròng trắng đục lờ, miệng hơi mở ra, nhe nửa hàm răng đen sì, nứt nẻ và khập khểnh.
Thiếu phụ đã chết. Buru vội la:
 Bà này đã chết rồi, ông bác sĩ ơi!
Viên y sĩ ngó Buru bằng luồng nhỡn tuyến trách móc:
 Ông muốn gì?
 Thưa bác sĩ, bà này vừa chết.
 Phải, bà này vừa chết.
 Bác sĩ cũng biết là bà ta sẽ chết.
 Dĩ nhiên, từ hai hôm nay, gần năm chục người bị thương cũng chết như bà ta. ông cần gặp tôi phải không
 Phải.
 Tôi đang bận khám bệnh. Phiền ông chờ đến khi tôi xong việc.
Y sĩ ngừng một giây rồi tiếp:
 Sáng mai ông trở lại, tiện hơn. Vì có lẽ tôi khám bệnh đến sáng mai mới xong nổi.
 Thưa... chúng tôi có công việc cần, rất cần...
 Hừ.... ở đây, ai cũng có công việc rất cần như ông. cần nhất là chữa bệnh nhân hấp hối.
 Tôi xin bác sĩ giành cho một phút. Chỉ một phút ngắn ngủi thôi.
Buru lại bắt đầu ba hoa. Nhưng viên y sĩ đã khoát tay, mặt hơi nhăn:
 Muốn gì, ông nói ngay đi.
 Bác sĩ cho phép không?
Viên y sĩ thở dài:
 Tôi chưa gặp ai nhiều lời như ông. Thôi chào ông.
Văn Bình chặn viên y sĩ lại:
 Xin bác sĩ tha lỗi. Trong số nạn nhân điều trị ở đây, có ai tên là Doarê không?
Viên y sĩ vỗ trán, ra vẻ suy nghĩ:
 Kỹ sư Anbe Doarê làm việc tại căn cứ 4Q. Có, ông ta hiện ở đây. Bị thương.
 Nặng?
 Không. Chỉ bị bất tỉnh sau khi hụt chân ngã xuống hốc núi. Xương ống chân trái bị gẫy, thân thể chỉ bị xây xát xoàng. May gặp dân tị nạn trông thấy, khiêng về làng Dua.
 Doarê đã tỉnh lại chưa?
 Rồi.
 Tôi muốn gặp Doarê.
 Điều này không lên quan đến tôi. Tôi chỉ là y sĩ có nhiệm vụ chữa bệnh. Doa rê ở vào tình trạng đặc biệt, ông ta yêu cầu lực lượng an ninh 4Q biệt phái ở đây canh phòng cẩn mật. Nếu ông muốn gặp ông ta, xin ông giao thiệp với người gác.
 Doarê nằm ở đâu?
Viên y sĩ rút cặp kiếng cận thị ra lau vào vạt áo bờ-lu, lau xong, hắn chỉ tòa nhà gạch xiêu vẹo bên trái, cách chỗ hắn đứng gần trăm thước. Một phần tòa nhà đã tốc mái, không rõ vì địa chấn hay vì thời gian. Có lẽ đây là một trong những di tích của nền văn minh bản xứ. Theo lịch sử, cách đây cả ngàn năm, vùng Nam-mỹ, đặc biệt là ven biển Thái-Bình-Dương, là trung tâm của một nền văn minh đáng kể. Hầu hết những tác phẩm kiến trúc và mỹ thuật của thời đại nàỵ đã chìm sâu đáy biển hoặc nằm lấp trong lòng đất. Thỉnh thoảng trong rừng già, trên đỉnh núi cao, các nhà khảo cổ mới tìm thấy những mộ phần hoặc dinh thự xưa.
Viên y sĩ lại đeo ống nghe vào tai. Trước đó, hắn dặn Văn Bình:
 Kỹ sư Doarê nằm dưỡng bệnh trong phòng riêng, ông đi thẳng vào trong, rẽ tay trái đến căn phòng ở cuối hành lang, phía ngoài có người gác.
Văn Bình rảo bước về tòa nhà cổ. Nhờ ngọn gió từ đỉnh núi thốc xuống và hơi mát dưới sông dâng lên, mùi hôi thối và tanh tưởi đã bay tản. Buru phồng ngực:
 Ông bác sĩ tài thật. Tôi chỉ đứng lát nữa là ngạt thở mà chết.
Văn Bình không đáp. Chàng còn băn khoăn vì cái sân rộng đã tối, bên trong tòa nhà cổ còn tối hơn. Một cây đèn dầu sơ sài được đặt trên cái đôn sành mảnh khảnh cứ lập lòe dọa tắt. Nếu nhân viên địch núp đâu đây giở trò bắn lén, chàng khó có hy vọng tránh thoát. Khu nhà rộng mông mênh, chung quanh lại có nhiều bụi rậm và mỏm đá cao, địa hình này rất thuận tiện cho đối phương bắn sẻ.
Hai người vừa rẽ trái vào hành lang sâu hun hút thì cây đèn ngoài hiên bỗng tắt phụt. Buru cất tiếng:
 Lạ thật!
Văn Bình ép mình sát tường:
 Anh cứ chờ ở đây, để tôi đi lấy đèn.
Tuy nói vậy, chàng vẫn không nhúc nhích. Sau khi thăm dò động tĩnh, không nghe thấy tiếng động khả nghi, chàng mới men theo chân tường ra ngoài. Chàng quẹt diêm, châm ngọn đèn dầụ ở góc, đoạn bưng lộn vào hành lang. Ánh đèn đỏ quạch không đủ xua đuổi màu da trắng bệch của Buru. Chàng thấy rõ hàm răng hắn đánh cầm cập, và chân hắn không đứng vững.
Chàng đưa cây đèn dầu cho hắn:
 Anh cầm đèn, còn để mọi việc cho tôi.
Ngọn đèn lập lòe. Văn Bình bước nhanh lại căn phòng mở hé. Nhưng khi gần đến nơi, chàng vội ngừng lại. Chàng biết là chuyện chẳng lành đã xảy ra. Viên y sĩ nói là cửa phòng của kỹ sư Doarê có lính võ trang canh gác, nhưng chàng chẳng thấy ai, không lẽ tên lính sợ ma lẻn vào phòng với Doarê?
Văn Bình lên tiếng:
 Có ai trong phòng không?
Không có tiếng trả lời. Văn Bình co chân đạp cánh cửa. Cánh cửa đã long bản lề chỉ chờ chàng đụng vào là đổ văng xuống đất, những mảnh gỗ vụn bay tứ tán. Ngoài âm thanh do cánh cửa rớt xuống gây ra, chàng không còn nghe được gì nữa. Chàng lại gọi:
 Doarê? Doarê có ở trong phòng không?
Chàng rút súng cầm tay xồng xộc chạy vào. Trong phòng có hai cái giường sắt nhỏ, lọại giường sắt bệnh viện mà chàng đã thấy tại căn cứ 4Q. Giường bên trong có người nằm, còn giường bên ngoài trống không. Giường không có nệm cao-su cũng như khăn trải, bệnh nhân phải nằm trên cái chiếu rách nát.
Theo thường lệ, bệnh nhân nằm ngửa. Nhưng bệnh nhân này lại nằm sấp, chân co chân duỗi. Buru hỏi dồn:
 Đúng kỹ sư Anbe Doarê không?
Văn Bình gật đầu. Chàng vừa lật ngửa người nằm trên giường để xem xét. Đúng bệnh nhân là kỹ sư Doarê như đại tá Pít đã mô tả tường tận. Bệnh nhân đeo mục kỉnh gọng đồi mồi nạm vàng tây. Doarê vốn thích đồi mồi, có lẽ vì hắn là người Á đông sinh trưởng ở vùng ven biển, những ngày thơ ấu đùa nghịch với đồi mồi nên hình ảnh của vỏ đồi mồi đã nhập vào cơ thể hắn biến thành một phần cuộc đời.
Văn Bình vạch tai bệnh nhân: dưới vành tai trái có cục bướu nhỏ bằng hột bắp, màu trắng. Cục bướu này hoàn toàn bằng xươn sụn, khi chào đời Doarê đã có. Hai chi tiết này đủ chứng tỏ bệnh nhân là Doa rê bằng xương bằng thịt. Tuy nhiên, chàng vượt núi, băng rừng đến Equatơ không phải để nhìn kỹ sư Anbe Doarê nằm sóng sượt trên cái giường sắt lạnh lẽo. Chàng phải tiếp xúc với hắn. Và hắn phải giao tận tay chàng một cuộn băng nhựa tài liệu tối mật để chàng mang về Hoa-thịnh-đốn cho ông tổng giám đốc Sì-mít.
Công lao của chàng, công lao của đại tá Pít, công lao của ông Sì-mít đã trở thành dã tràng xe cát. Vì Doarê đang nằm trước mặt chàng là Doarê đã chết.
Buru sững sờ:
 ô kìa, tại sao ông ta lại nhăn răng ra thế?
Văn Bình chép miệng:
 Vì ông ta đã chết.
Buru lẩm bẩm:
 Chết, chết, trời ơi, định gặp ai thì người ấy chết. Không khéo tôi cũng chết, ông ơi!
Văn Bình không thèm quan tâm đến lời than thân trách phận của Buru. Hắn chết được thì nhân loại đỡ khổ. Sự sống của kẻ vô tích sự, chỉ khọái ăn, khoái chơi như hắn chỉ tổ làm nặng trái đất. Chàng bình thản vuốt mắt Doarê cho nhắm lại; Doarê không lấy gì làm đẹp trai, song người Á đông như hắn khá hiếm, vì hắn có bề cao vừa vặn, bề ngang nẩy nở, nét mặt khả ái, và làn da trắng hồng khỏe mạnh cộng với cách phục sức chững chạc đủ làm phụ nữ say mê....
Tuy nhiên Doarê không chết về mỏi mệt hoặc thương tích dọc đường, ồng chân trái bị gẫy đã được bó bột trắng xóa: nơi sườn nọn có một vết khâu lớn. Doarê chết v&igrarave;... mai mốt trở về Côlômbi, anh sẽ nói phịa là chồng cô ả còn sống nhăn răng.
-Phịa sao được? Nàng khôn lanh như quỷ. Mỗi lần tôi đến căn cứ, nàng đều gửi thư tay cho thằng chồng, và thằng chồng coi trong thư mà trả lời.
Buru hụt chân, nếu Văn Bình không kéo lại hắn đã tụt xuống hố. Con đường đất đỏ toàn hố là hố. Văn Bình có cảm tưởng là mặt đường vừa bị hàng trăm chiếc xẻng máy khổng lồ múc đất lên để lộ những cái hố sâu hoắm đầy nước.
Buru vất vả lắm mới lấy lại được thăng bằng. Nhưng hắn đứng chưa vững thì có tiếng đạn nhảy vào nòng súng kêu "soạch" và tiếng hô:
-Đứng lại!
Một bóng đen từ mô đất lù lù bên đường tiến ra, khẩu tiểu liên trong tư thế ngang, nghĩa là không chĩa vào hai người. Văn Bình hỏi lớn:
-Anh là lính gác?
Bóng đen gật đầu:
-Phải. Tại sao chỉ có hai ông? Còn những người khác đâu?
Những câu hỏi dồn dập của tên lính gác không làm Văn Bình ngạc nhiên. Theo sự suy luận của chàng thì tên lính đinh ninh hai người chỉ là thành phần tiền sát, còn đại đơn vị đang lục tục kéo đến sau. Cơn động đất tiếp theo hỏa diệm sơn phun lửa đã gieo tang tóc trong căn cứ 4Q, binh sĩ và nhân viên kỹ thuật sống sót đã hoàn toàn bị cô lập với thế giới bên ngoài; màn sương dầy đặc không cho phép phi cơ hoạt động, họ đành chờ đợi công cuộc tiếp tế bằng đường bộ.
Văn Bình đáp:
-Những người khác sẽ đến sau.
Tên lính gác quăng súng xuống đất, ôm chầm lấy chàng hôn hít. Hàm râu quai nón của hắn chưa được ngửi mùi dao cạo từ nhiều ngày nay, những sợi cứng tua tủa đâm vào má Văn Bình, làm chàng nhật nhạt. Trước kia, mỗi khi quên cạo râu mà ôm Nguyên Hương hôn, chàng tỏ vẻ bất mãn vì nàng nhăn mặt kêu đau. Chàng thường bảo nàng bằng giọng hờn mát "em ghét anh nên chẳng có gì cũng la oai oái". Sợ chàng giận, Nguyên Hương phải nhoẻn miệng cười làm lành. Được nàng chiều chuộng, dần dần chàng trở thành "hư thân mất nết", có khi hai ba ngày không cạo, râu ria xồm xoàm vẫn nằng nặc đòi hôn. Mà chàng có chịu hôn hai, ba phút cho cam! Xoàng ra cũng 5 phút. Cái hôn trái khoáy của tên lính trong căn cứ 4Q bất giác khiến chàng nhớ đến Nguyên Hương, nữ thư ký trung thành của ông Hoàng không bao giờ lấy chồng, Quỳnh Loan, người vợ không bao giờ cưới cua chàng, và Văn Hoàng, đứa con trai duy nhất tập tểnh bước vào nghề ruột của cha, ngày đêm thách đố với tử thần.
Buru lôi giật tên lính ra, giọng dấm dẳng:
-Anh điên hả?
Tên lính giật mình, vội đứng nghiêm:
-Xin lỗi. Em xin lỗi đại úy. Mấy ngày nay, tinh thần em bị bấn loạn. Em mừng quá nên....
Buru trợn mắt chỉ Văn Bình:
-Mày phải gọi là đại tá mới đúng.
Tên lính bồng súng chào:
-Thưa đại tá....
Văn Bình vỗ vai hắn, ôn tồn:
-Số thương vong trong căn cứ là bao nhiêu?
Hắn đáp:
-Thưa, bị thương nặng hoặc chết gần hết.
-Nghĩa là bao nhiêu?
-Em không rõ.
-Còn mấy người sống sót?
-Em cũng không rõ. Ngay sau khi đất chuyển, những tảng đá lớn trên núi đồ xuống, em bị bất tỉnh. Khi em thức dậy thì căn cứ đã biến thành đống gạch vụn, đại tá Liu đang ngồi bên giường, mặt đầy bông băng, tay chân bị đứt gãy nhiều chỗ.
-Đại tá Liu, tư lệnh căn cứ?
-Thưa vâng. Đại tá Liu bị thương nặng nhưng may mắn là tạng phủ còn nguyên vẹn. Một số sĩ quan thân cận ông ta cũng còn sống. Động đất xảy ra ban đêm, đúng 21 giờ, nếu sớm hơn, hoặc chậm hơn vài giờ đồng hồ nữa thì chắc chắn toàn thể điều thiệt mạng. Vì, thưa ông, 21 giờ, đài truyền hình Qui-tô phát một chương trình rất hấp dẫn, mọi người ở trong căn cứ buồn teo nên tụ tập trước máy tiyi đặt trong câu lạc bộ ở tầng sát mặt đất. Tầng nầy được đồ bê-tông cốt sắt kiên cố, bom rớt xuống cũng không bị hề hấn... sở dĩ đại tá Liu bị thương là do mảnh vụn gạch đá và bàn ghế.
-Anh có biết....
Văn Bình chỉ nói 3 tiếng rồi nín bặt. Chàng định hỏi hắn có biết kỹ sư Anbe Doarê ra sao không song chàng cảm thấy hớ hênh dại dột.
Tên lính lập lại:
-Thưa, biết gì ạ?
Văn Bình lắc đầu:
-Không. Lát nữa, tôi hỏi đại tá Liu cũng được. Hiện đại tá ở đâu?
-Vâng, xin mời đại tá theo em.
Tên lính đi trước, chân cao chân thấp. Giờ đây, Văn Bình mới nhận thấy hắn bị thương nơi chân, một ống quần rách tòn ten để lộ bông băng trắng xóve; cổ họng bị chặn nghẹt, kẻ giết Doarê phải là võ sĩ nhu đạo am tường bí quyết atêmi vì người thường khó thể chẹn động mạch cổ đồng thời chẹn khí quản. Nạn nhân chết vì bị bóp cổ thường sưng húp mặt, da tím ngắt, lưỡi thè lè. Ngoại trừ các nạn nhân của giới võ sư về điểm huyệt pháp.
Văn Bình lục túi xác chết. Da Doarê còn nóng, chứng tỏ hắn vừa bị hạ sát. Hắn cũng không bị hung thủ lục lọi. Văn Bình đặt những món đồ tùy thân của Doarê lên khăn giường và qụan sát tỉ mỉ. Doarê không thể giấu tài liệu trong cái quẹt máy nhỏ xíu hoặc trong gói thuốc Camel đã hút đến điếu cuối cùng, vả lại, đại tá Pít đã nói rõ là bản phúc trình mật của Doarê được ghi bằng mật mã trong băng từ thạch.
Không thấy gì, chàng lật nệm, gối và cả khăn trải giường lên. Cũng không thấy gì. Doarê nằm sóng sượt, trên mình còn nguyên bộ vét-tông xám, cái quần đồng màu bó lưng, ống chân voi. Bộ âu phục rách nhiều chỗ nhưng vẫn còn mới toanh, và được cắt hợp thời trang trong năm.
Buru hỏi Văn Bình, giọng lo lắng:
 Giờ đây, ông tính sao?
Văn Bình chưa kịp trả lời thì Buru đã kêu "ối" một tiếng lớn rồi ngã chúi vào tường. Trước đó chàng đã nghe tiếng gió ào ào và đoán biết là bị đánh trộm. Nhờ phản ứng nhậm lẹ, chàng thụp xuống, nhưng chàng không có thời giờ báo tin cho Buru. Kẻ địch núp trong khuỷu hành lang chủ tâm đánh gục cả hai người bằng thế đòn độc, với cây gậy rắn phạt tréo từ trên xuống.
Địch thu gậy về, Văn Bình vội lăn tròn trên nền đất, đề phòng đợt tấn công tiếp. Nhưng chàng đã thận trọng hơi thừa vì địch đã quăng gậy và chạy biến trong bóng tối. Văn Bình chồm dậy, chàng toan phóng theo nhưng lại nằm nhoài vì nghe một âm thanh khô khan quen thuộc, giống như tiếng "bụp" của nút bấc khui rút khỏi cồ chai sâm-banh.
Địch vừa nổ súng, Văn Bình co chân đạp đồ ngọn đèn. Căn phòng chìm vào tối om, ánh trăng bên ngoài bị mây đen giăng kín nên Văn Bình không dám rượt đuổi kẻ bắn lén. vả lại, Buru dộng đầu vào tảng đá chỉ kêu được tiếng "ối" độc nhất rồi lặng thinh, chàng phải cứu chữa cho hắn.
Cũng may, Buru chỉ bị xây sật nhẹ. Hắn khập khiễng vịn bờ tường đứng dậy. Thường ngày hắn đã có lối đi khập khiễng buồn cười, giờ đây hắn khập khiễng thêm: hoàn cảnh Văn Bình như chỉ mành treo chuông, chàng có thể trúng đạn bắn lén của địch bất cứ lúc nào, chẳng có gì là trào lộng vậy mà bàn chân cà nhót của Buru vẫn làm chàng buồn cười như bị thọc lét.
Hắn hỏi dồn:
 Ông tìm được hắn chưa?
Một tiếng "ối" nữa cất lên. Dĩ nhiên người kêu cứu không phải Buru. Tiếng kêu cứu từ ngoài sân rộng vọng vào. Vặn Bình chạy băng ra. Chàng bàng hoàng khi thấy viên y sĩ mặc bờ-lu trắng ôm ngực lảo đảo. Chàng chưa chạy đến nơi thì viên y sĩ đã ngã vật, ngực trái nhuộm đỏ máu đỏ lòm. Hung thủ đánh atêmi đã tài, bắn súng còn tài hơn nữa. Hắn chỉ cần một viên đạn là vĩnh viễn bịt được miệng viên y sĩ, nhân chứng duy nhất có thể cung cấp những tin tức quan trọng.
Kỹ sư Doarê chết. Viên y sĩ chữa cho Doarê cũng chết. Hai cái chết xảy ra trong vòng 5 phút đồng hồ ngắn ngủi. Nếu chàng né chậm một phần mười tích tắc đồng hồ, thì số người chết đã tăng thành 3.
Địch tấn công nhanh như điện xẹt nên chàng không có điều kiện nhận rõ mặt hắn. Chàng chỉ thấy thoáng qua một khối thịt tròn lẳn. Hắn đã giết Doarê cùng viên y sĩ và bắn hụt chàng, chắc chắn hắn còn lẩn quất đâu đây sửa soạn lảy cò lần nữa, lảy cò cho đến khi nào trúng đích.
"Bụp"... Văn Bình khỏi cần phải chờ lâu, chàng mới cúi xuống, nắm cườm tay viên y sĩ xem mạch thì địch núp sạu bức tường đổ bên trái đã chĩa súng bắn ra. Viên đạn vèo qua đầu chàng, đốt một mảng tóc khét lẹt. Hú vía, nếu nền đất ướt không làm chàng trượt chân mất thăng bằng thì viên đạn kinh khủng đã chui gọn vào mắt chàng. Với viên đạn 9 li trong mắt, óc chàng sẽ bị phá toang, chàng khó có hy vọng sống sót.
Như trái banh cao-su dội nẩy trên sàn quần vợt bê-tông, Văn Bình phi thân về sân vừa phát ra tia lửa da cam. Nhưng địch đã nhanh chân tháo chạy. Chàng ngã nhào vào bụi cây đầy gai nhọn lởm chởm, tay chân bị đâm lung tung, máu chảy ri rị song chàng không biết đau. Địch dẫn chân thình thịch cách chàng một quãng ngắn. Rồi chàng nghe "uỵch" một tiếng. Thiên bất dung gian, hung thủ tuột một chân xuống hố. Qua làn sương trắng lấp lánh ánh trăng xuông, Văn Bình thoáng nhìn thấy một bóng người lờ mờ đang cúi xuống, có lẽ để xoa nắn bàn chân bị bong gân.
Chàng lượm một hòn aacute; Liu.
-Ông nói lạ! Nếu ông không tuân lệnh, miễn cưỡng tôi phải sai lính nhốt lại.
Vừa nói hắn vừa rút súng lục đeo thắt lưng ra, chĩa vào ngực Văn Bình. Chàng cười nhạt và nghiêm giọng:
-Thiếu tá không đượn hỗn. Theo hệ thống quân giai, tôi ở trên thiếu tá hai cấp.
-Ông là đại tá?
-Phải, nhưng thiếu tá không có quyền hỏi. Tôi đã nói hồi nãy: chỉ có đại tá Liu mới có quyền. Đồng thời, tôi cũng xin thiếu tá cất cái đồ chơi trẻ con ấy đi, kẻo tôi nổi giận thiếu tá sẽ gẫy nốt cánh tay phải.
Viên thiếu tá xạm mặt. Hắn bị thương trên tay trái, chắc gẫy xương nên đeo hai miếng gỗ dẹp tòn ten. Hắn toan làm dữ nhưng luồng nhỡn tuyến oai nghiêm của Văn Bình như mũi dao giải phẩu làm toàn thân hắn đau nhói. Hắn suy nghĩ một vài giây đồng hồ rồi buông tay xuống. Văn Bình ném khẩu súng vào cái nệm cao-su bẩn thỉu kê sát tường, rồi quay mặt về phía y sĩ:
-Đại tá Liu nằm trên giường sắt phải không?
Y sĩ gật đầu. Văn Bình tiến lại. Y sĩ kéo ghế ngồi bên giường. Đại tá Liu trạc ngũ tuần, tóc bạc gần hết, vẻ mặt khắc khổ, dáng người mảnh khảnh, đống băng trắng quấn cổ che khuất gần hết 6 hàng huy chương chói lòa trên ngực.
Y sĩ nói nhỏ:
-Có người từ thủ đô đến yêu cầu được gặp đại tá. Đại tá không nên nói. Tôi để giấy bút trong tầm tay, đại tá có thể bút đàm. Tuy nhiên, vì sức khỏe của đại tá chưa hoàn toàn hồi phục, tôi chỉ thỏa thuận cho đại tá trò chuyện trong vòng 3 phút, 5 phút là tối đa.
Hắn chìa tay mời Văn Bình:
-Xin mời ông bắt đầu.
Văn Bình ra lệnh cho Buru:
-Anh hướng dẫn mọi người lại góc hầm. Tôi muốn bàn bạc riêng với đại tá Liu.
Viên thiếu tá nhăn mặt ra vẻ không bằng lòng. Buru hắn giọng:
-Thiếu tá không nên lộn xộn nữa thì hơn. Công tác chúng tôi có tính cách tối mật. Chúng tôi có toàn quyền bắn bỏ những người không tuân lệnh.
Toàn thể sĩ quan trong hầm đều cúi gầm mặt, lừ lừ đi ra góc hầm, kể cả viên thiếu tá bướng bỉnh. Buru vừa bịp một cách trắng trợn. Cũng như chàng, hắn không có quyền bắn ai. Ngay cả trên đất Mỹ, C.I.A. hét ra lửa mà nhân viên cao cấp C.I.A. vị tất dám đụng đến lông chân thiên hạ và chà đạp luật pháp, huống hồ đây là xứ Equatơ, một nước có đầy đủ chủ quyền. Nói cho đúng, Văn Bình có quyền giết người, nhưng đó là giết lén lút, giết không lưu lại dấu vết.
Đại tá Liu ngước cặp mắt cận thị nặng nhìn Vặn Bình. Chàng dí chứng minh thư phái viên đặc biệt C.I.A. vào mũi hắn. Hắn đọc được những giòng chữ li ti trên tấm thẻ lát-tích tí hon này hay không, chàng không biết nổi, vì vẻ mặt hắn không hề thay đổi. Chàng có cảm tưởng Liu đang nửa mê nửa tỉnh, và bản tính quân nhân chuyên nghiệp kiêu hãnh bắt hắn tự coi là tỉnh. Chàng hỏi hắn:
-Đại tá đọc kỹ chưa?
Liu gật đầu. Chàng lại hỏi:
-Đại tá muốn về Qui-tô hay muốn điều trị tại đây?
Ngón tay dùng thay cho bút chì, Liu viết tháu trên nệm chữ Q. Văn Bình cười, thân mật:
-Yên tâm. Sáng tinh sương, thời tiết bớt dữ dằn, trực thăng tải thương sẽ đáp xuống chở đại tá.
Ngừng một chút, chàng hỏi:
-Tôi cần gặp kỷ sư Anbe Doarê. Gặp ngay bây giờ.
Cặp mắt đại tá Liu có vẻ ngạc nhiên. Hắn viết một chữ cộc lốc.
-Đi.
-Đi đâu?
-Khỏi đây.
-Bị thương?
-Không.
-Tại sao lại đi khỏi căn cứ?
-Không biết, vả lại, sau khi tai họa xảy ra, tôi ra lệnh cho toàn thể tự động di tản. Dầu tôi không ra lệnh, họ cũng bỏ đi, tôi bị thương nặng, họ vứt tôi một xó, không ai ngó ngàng tới, khi tôi tỉnh dậy, họ đã trốn gần hết, tôi ra lệnh chẳng ai thèm nghe.
-Bao nhiêu người bỏ đi?
-Không rõ. Vì còn rất nhiều người thiệt mạng, nằm kẹt dưới đống đá gạch, chưa dỡ lên được. Người bị thương cũng chưa kiểm điểm được. Hiện có 6 sĩ quan thân cận ở trong nhà hầm này với tôi.
-Nghĩa là còn lại 6 người?
-Phải.
-Doarê rời căn cứ hồi nào?
-Chập tối.
-Tối hôm nay?
-Vâng, tối hôm nay. Tại sao ông không quan tâm đến số phận của mọi người mà chỉ nghĩ đến riêng kỹ sư Doarê? Hắn là người dược rất ít cảm tình của đồng nghiệp trong căn cứ.
-Xin lỗi, tôi không thể trả lời, vì lẽ tôi cũng chưa quen Doarê. Lệnh trung ương giao cho chúng tôi tiếp xúc với Doarê.
-Đáng tiếc, ông đến hơi chậm.
-Doarê lên đường một mình hay với ai?
-Với một người bạn.
-Bạn nào?
-Không biết.
-Không biết, tại sao đại tá biết là bạn?
-Vì thấy họ đi với nhau.
-Tên là gì?
-Không biết.
-Cao hay thấp?
-Thấp. Rất thấp.
-Có dấu vết nào đặc biệt không?
-Không.
-Đeo đồng hồ?
-Văn Bình toan hỏi "hắn có đeo vòng sơ-men ở cổ tay không" song chàng vội hỏi trệch ra "đeo đồng hồ" vì một tiếng động lạ vừa lọt vào tai chàng. Chàng ngồi hơi nghiêng để có thể kiểm soát được toàn diện nhà hầm bằng mắt. Bọn sĩ quan bị Buru dồn vào góc vẫn im thin thít. Viên thiếu tá ba gai liếc trộm chàng, miệng lẩm bẩm như thể chửi thầm. Buru xoạc chân, dáng điệu sung mãn, khẩu súng còn quay múa trong tay. Chàng suýt phì cười, nếu phải lảy cò, không hiểu hắn phải dùng đến xạc-giơ thứ mấy mới bắn trúng mục phiêu.
Tiếng động lạ này rất nhỏ, chỉ phớt nhẹ như chiếc lá vàng rụng, song Văn Bình không thể nghe lầm. Nằm dài trên giường sắt loang lồ sơn và máu đen, đại tá Liu ho khò khè. Có lẽ đờm đang dâng lên, chặn ngang ngực viên sĩ quan ốm yếu ngũ tuần. Da mặt hắn đỏ gay, nhưng không phải là màu đỏ báo hiệu cho sức khỏe mà là màu đỏ báo hiệu cho một cuộc sống sắp sửa tàn lụi.
Ngón tay đại tá Liu ngó ngoáy trên khăn giường để bút đàm như trước nữa, Văn Bình nhận thấy tay hắn bắt đầu bắt chuồn chuồn, và hắn ngáp luôn mấy cái. Dưỡng khí thiếu hụt trong máu nên hắn phải ngáp. Nếu chàng không tiếp tục hỏi thêm, hắn sẽ ngáp liên tục trong một vài phút nữa rồi lịm luôn.
Nhưng trước hết, chàng phải vận dụng phép kuatsu để tạm kéo đại tá Liu ra khỏi nanh vuốt của Tử Thần. Chàng nín hơi, vận công vào đầu ngón tay trỏ, ấn mạnh vào yếu huyệt trên màng tang. Bệnh nhân hự một tiếng nhỏ, miệng đang quai ra để ngáp vội khép lại.
Chàng hỏi dồn:
-Người bạn cùng đi với kỹ sư Doarê có đeo cái gì nơi cườm tay không? Đại tá cố nhớ lại coi?
-Không nhớ.
-Chẳng hạn đeo đồng hồ vàng. Hoặc đeo một lô vòng sơ-men như đặc biệt...
-Vòng sơ-men? Có lẽ thế...
-Có lẽ hay đại tá đoán phỏng?
-Giờ đây tôi có thể nói chắc. Đúng rồi, người đàn ông này đeo vòng sơ-men đầy cổ tay, vòng nhỏ bằng bạch kim bóng loáng.
-Họ đi thẳng về thủ đô?
-Không.
Đại tá Liu lại thở khò khè. Phút cuối cùng sắp đến, Văn Bình thúc dục:
-Hay là họ về làng Dua?
Mắt đại tá Liu vụt sáng lên. Trên miệng hắn nở một nụ cười thỏa mãn. Nhưng hắn chưa ki.p phản ứng thì Văn Bình nghe độp một tiếng. Một vật cứng từ miệng hầm rớt xuống. Không phải tình cờ rớt xuống vì nó xiên góc 45 độ. Người đứng bên trên đã chủ tâm ném vào cái giường ở góc hầm, nơi có đại tá Liu và Văn Bình.
Chàng chưa biết vật cứng này là gì nhưng linh tính và bản năng nghề nghiệp đã xẹt nhanh như luồng điện trong óc bắt chàng phóng mình nằm nhoài ra đất.
Oác oác, ầm ầm....
Vật cứng này là trái lựu đạn. Căn hầm đóng kín, chỉ chừa một cửa mở bên trên nên tiếng lựu đạn nồ kêu ầm như tiếng bom. Nhiều tiếng la hét cùng cất lên một lượt.


© 2006 - 2024 eTruyen.com