Chương 6 (tt)

     ăn Bình vẫn bình tĩnh như thường. Đức tính cố hữu quý báu này đã làm tăng giá trị điệp viên Z.28 trong cơn hiểm nghèo. Phi cơ tròng trành nghiêng sang hữu, sang tả, chúc mũi xuống, lộn đầu lên như người say rượu.
Nửa phút trước, linh tính đã báo cho Văn Bình biết. Chàng đánh hơi thấy tai nạn sắp sửa xảy ra. Và trên thực tế, một tai nạn ghê gớm sắp xảy ra trên không phận đìu hiu miền Bắc…
Qua lớp kính phòng phi hành, Văn Bình nhận thấy một chiếc phi cơ thon dài đang vút qua đầu chiếc Dakota. Phụ tá hoa tiêu hét lên :
-Phi cơ phản lực.
Dĩ nhìên … vì phi cơ không có cánh quạt. Một học sinh nhỏ tuổi cũng biết đó là phi cơ phản lực. Văn Bình hơi băn khoăn vì phi cơ không đeo ký hiệu ở đuôi và cánh như thường lệ. Dưới ánh trăng xuông, màu sơn đen của chiếc khu trục cơ hiện ra nổi bật. Đối diện loại chim sắt khổng lồ và dữ tợn này, chiếc Dakota thương mãi chỉ là con muỗi ốm yếu tầm thường…
Văn Bình muốn hỏi nữa, song lại nín lặng. Chắc phụ tá hoa tiêu cũng chẳng hơn gì chàng. Chàng muốn hỏi hắn phi cơ phản lực đang bay trên đầu chiếc Dakota là của ai ? Chàng không tin đó là phi cơ của du kích quân cộng sản, dầu đơn vị F-22 đang hoạt động mạnh mẽ ở miền Bắc. Tất nhiên phải là của chính phủ.
Vậy thì đại tá Karati…
Phi cơ phản lực đã quay trở lại. Nhưng lần này lại bay sát bên hông chiếc Dakota. Luồng gió mạnh do phi cơ phản lực gây ra trên từng cao làm chiếc Dakota loạng choạng. Chỉ riêng lối bay kèm bên này đủ xô chiếc Dakota cổ xưa và chở nặng chĩu này xuống giòng sông rộng lớn bên dưới. Nếu họ dùng đại liên nữa thì hết…
Văn Bình ra lệnh cho phụ tá hoa tiêu :
-Trúc mũi phi cơ xuống. Xuống thấp nhanh lên… Xuống thật thấp…
Chiếc ca nô hai tầng sáng rực ánh đèn của Inkagaung đã chạy biến vào sương mù, chỉ còn lại ánh đèn hậu đỏ rực. Văn Bình cảm thấy cô đơn và lạnh lẽo hơn bao giờ hết.
Chàng cất tiếng trong máy vi âm:
-Yêu cầu Vêra và Sophie chú ý… Buộc chặt giây lưng ghế lại.. một phản lực cơ lạ đang áp đảo chúng ta. Nếu cần, tôi sẽ hạ cánh.
Chiếc Dakota vẫn rung chuyển dữ dội. Văn Bình nhận thấy bàn tay phụ tá hoa tiêu run lẩy bẩy. Với phản ứng mất bình tĩnh này, hắn khó thể điều khiển phi cơ hạ cánh an toàn. Hắn hỏi Văn Bình, giọng ngắt quãng :
-Ông ơi… mình bay về đâu ?
Văn Bình đáp ngắn :
-Đi.
-Nhưng còn phản lực cơ ?
-Kệ nó.
-Nó bắn thì mình phải chết.
-Vậy anh nằm xuống sàn, trả cần lái cho tôi.
-Tôi van ông… chúng mình nên về là hơn.
-Về hả ? Anh liên lạc vô tuyến với họ. Nếu họ chấp thuận thì ta quay về. Nhưng tôi không tin…
Văn Bình đã có lý do xác đáng để không tin là phản lực lạ chỉ chắn đường, bắt chàng lộn về. Nhưng dầu sao chàng cũng để cho phụ tá hoa tiêu có cơ hội tìm lối thoát.
Phụ tá hoa tiêu líu lưỡi trong ống nói vô tuyến :
-Alô, alô… đây là phi cơ vận tải thương mãi cất cánh ở sân bay Pegu có giấy phép của đài kiểm soát… Chúng tôi chở hàng hóa lên Nambum. Xin cho biết quý vị là ai ? Alô… xin cho biết quý vị là ai ?
Như Văn Bình tiên đoán, phi cơ phản lực giả điếc không trả lời. phụ tá hoa tiêu Dakota nhắc lại :
-Alô, alô… xin cho biết quý vị là ai ? Vì phi cơ của chúng tôi sắp sửa mất thăng bằng… có thể gặp tai nạn… Alô, alô…
Sau cùng, phản lực cơ trả lời. Nhưng không phải trả lời đúng như phụ tá hoa tiêu Dakota mong muốn mà là trả lời bằng sức mạnh tàn bạo. Trong chớp mắt, phản lực cơ đã hùng hổ bay tới, tiếng gió xé không khí làm Văn Bình điếc tai. Kèm theo tiếng gió là tiếng nổ chát chúa của đại liên 20 ở mũi phi cơ.
Không biết tràng đạn đầu tiên này được bắn trúng hay sai mục phiêu, tuy nhiên phi cơ Dakota đã nghiêng hẳn một bên và đâm đầu xuống đất.
Qua ô cửa kính phi cơ, Văn Bình chỉ nhìn thấy thấp thoáng giòng sông phía dưới, ánh trăng đã không có, ánh đèn cũng không, chiếc Dakota rớt giữa  rừng già, núi non lởm chởm thì mọi người cầm chắc cái chết. Chỉ còn lối thoát duy nhất : cố giữ cho phi cơ khỏi rơi để tùy cơ đáp xuống một bãi trống.
Tuy nhiên, chiếc Dakota chỉ có hy vọng giữ mức thăng bằng nếu phi cơ phản lực không tiếp tục xạ kích nữa. Trong một phút đồng hồ, tứ bề chìm vào yên lặng, âm thanh rầm rầm của phản lực cơ mỗi lúc một nhỏ dần. Tuy là một phút mà Văn Bình cảm thấy dài lê thê hàng giờ.
Nhưng tiếng động cơ xé nhĩ tai đã trở lại, xoắn sâu vào óc Văn Bình. Nghĩa là họ quyết tâm bắn hạ chiếc Dakota. Họ là ai ? Văn Bình chỉ phớt câu hỏi mà không trả lời. Dầu là ai nữa thì tính mạng của chàng và của hai người đàn bà đẹp chỉ như sợi chỉ mảnh treo chuông.
Tiếng đại liên lại rít lên.
Văn Bình nghe một tiếng kêu khác thường trong động cơ máy bay Dakota. Tiếng kêu này làm chàng rợn tóc gáy. Phụ tá hoa tiêu quay lại phía chàng, giọng đấy kinh hãi :
-Đạn trúng vào máy rồi…
Tức là phi cơ phải rơi. Trừ phi…
Lửa da cam bắt đầu phụt cháy một bên cánh. Văn Bình thét lớn:
-Tắt máy bên hữu.
Phụ tá hoa tiêu vội vàng cúp xăng. Phi cơ nghiêng hẳn về bên tả rồi chòng chành mạnh mẽ như chiếc thuyền nan dật dờ trên sóng dữ. Động cơ bên hữu ngưng chạy, động cơ bên tả không đủ sức kéo đỡ sức nặng của máy bay chở đầy hàng hóa.
Phụ tá hoa tiêu nghiến răng:
-Chết đến nơi rồi…
Văn Bình quát vào tai hắn:
-Có nơi nào đáp xuống được không?
-Bên kia sông có một cánh đồng lúa, nhưng…
-Trời tối không thấy gì phải không?
-Không phải vì trời tối. Tôi lái đường này cả trăm lần, nhắm mắt tôi cũng không thể lạc. Sở dĩ tôi lo ngại vì cánh đồng lúa này lọt thỏm trong rừng … trong rừng gỗ tếch. Chạm phải đỉnh cây thì mất mạng…
-Anh hạ cánh nổi không?
-Không nổi cũng phải nổi vì ngồi trên phi cơ cũng chết. Thà xuống ở đây còn hơn vì phía trên độ 5 cây số nữa toàn núi là núi.
-Cố gắng lên.
Phụ tá hoa tiêu nín thinh, mắt dán vào dãy đồng hồ điều khiển trước mặt. Trên đầu chiếc Dakota, con chim sắt hung dữ vẫn khạc lửa. Song Văn Bình không quan tâm tới những viên đạn đại liên reo rắc thần Chết nữa, vì lù lù trước mũi chiếc Dakota là một ngọn núi nhọn hoắt. Văn Bình la lên:
-Núi, núi, vọt nhanh kẻo đụng.
Phụ tá hoa tiêu phản ứng nhanh như điện xẹt. Có lẽ vì sống quen trong rừng rậm nên tay chân hắn thoăn thoắt như con beo. Văn Bình vừa nói dứt lời thì mũi chiếc Dakota đã nghếch lên, thoát khỏi vách núi đen sì trong gang tấc.
Văn Bình hỏi:
-Còn gặp núi nữa không?
Phụ tá hoa tiêu đáp:
-Không.
-Sông Irrawaddy đâu? Tôi chẳng thấy đâu cả.
-Vì chúng ta đã vượt qua sông, bay về hướng Đông. Bây giờ là rừng. Sắp đến ruộng lúa. Gần ruộng lúa là đồi thấp trồng nhiều nha phiến.
Văn Bình liếc nhìn hai người đàn bà ngồi đăm chiêu bên cạnh một kiện hàng lớn. Từ nãy đến giờ họ không hề trò chuyện với nhau. Thậm chí sau khi biết phi cơ bị xạ kích, họ cũng lầm lì không thốt một lời. Văn Bình cảm thấy thương hại lạ lùng. Cho đến giờ phút cực kỳ nguy hiểm này mà đàn bà vẫn nghĩ đến ghen tuông. Có lẽ trong thâm tâm người này đang cầu nguyện cho người kia chết để thảnh thơi tận hưởng ái tình.
Chiếc Dakota cứ xuống thấp thêm nữa.
Văn Bình vẫn còn nghe âm thanh của phản lực cơ đang lượn vòng trên cao. Nhưng một phút sau, nó đã bay mất dạng về hướng Nam. Văn Bình hỏi lại:
-Độ mấy phút nữa thì tới?
Phụ tá hoa tiêu đáp:
-Tới rồi.
Ngó xuống, Văn Bình chỉ thấy phong cảnh lờ mờ. Mặt đất dường như đang vươn lên chạy về phía phi cơ. Tuy quen thuộc với đời sống phi hành, chàng cũng hơi chóng mặt. Kể ra chàng không phải là hoa tiêu tầm thường: chàng đã thu lượm khá nhiều huy chương quân sự trong những ngày lái khu trục cơ sống mái với địch trên không phận, hoặc điều khiển vận tải cơ vượt qua hàng rào cao xạ kinh khủng của địch. Trở về đời sống dân sự, chàng từng làm hoa tiêu thương mãi và được liệt vào hạng xuất sắc.
Nhưng trăm hay không bằng tay quen, về kỹ thuật chàng đáng bậc thầy của viên phụ tá hoa tiêu, song về kinh nghiệm bản xứ, chàng chưa đáng là môn sinh của hắn. Hắn điều khiển con chim sắt bị thương nặng một cách thoải mái như người lái xe hơi dạo mát trên xa lộ vắng vẻ và thẳng tắp. Cử chỉ của hắn luôn luôn từ tốn, ăn khớp với nhau, không chi tiết nào thừa hoặc thiếu.
-Lạ thật, tôi chẳng thấy gì hết.
-Vâng, vì ông không quen. Ông có thấy vệt trắng dài ở trước mặt không?
-Thấy, dường như là nhà lợp tôn.
-Đúng. Thường lệ nhà sàn ở đây đều làm bằng gỗ vì gỗ vừa tốt lại vừa dễ kiếm. Nhưng để làm đích cho phi cơ, một số nhà sàn còn được lợp tôn. Có nơi còn dùng sơn lân tinh nữa.
Giọng nói của phụ tá hoa tiêu bỗng rắn rỏi hản lên:
-Yêu cầu hành khách chú ý… Yêu cầu hành khách chú ý… Tôi sửa soạn đáp xuống. Hy vọng là không gặp tai nạn… Yêu cầu buộc giây lưng ghế thật chặt… Yêu cầu lấy mền dầy độn sau gáy, xương sống, hai bên hông, đề phòng bị xóc mạnh…
Ngoại trừ Vêra và Sophie; hành khách không có ai. Có lẽ vì thói quen nên phụ tá hoa tiêu loan báo bằng giọng trịnh trọng.
Một phút nặng nề trôi qua. Phụ tá hoa tiêu nghiêm nét mặt:
-Phi cơ đáp xuống.
Hắn kéo cho mũi máy bay ngóc lên để hãm bớt vận tốc còn lại. Trong khoảnh khắc, Văn Bình có cảm giác là chiếc Dakota thương mãi đứng dừng lại, treo lơ lửng giữa không gian bao la. Máy bên tả câm lặng, cánh quạt ngưng quay, mọi người đều nín thở.
Rồi phi cơ đáp xuống bằng bụng.
Rầm rầm…
Nhiều âm thanh khác nhau cùng nổi lên, âm thanh của kim khí va chạm và gẫy nát. Phi cơ chạm đất, nhưng chưa chịu nằm ép xuống một cách ngoan ngoãn theo lệnh hoa tiêu. Như để trả thù hoa tiêu đã thống trị nó bằng kỷ luật tuyệt đối sau nhiều năm tháng, chiếc Dakota rùng mình như muốn chồm dậy bay lên trời.
Song nó chỉ vươn vai được nửa chừng rồi nằm vật xuống. Rầm rầm… rầm rầm… Đuôi phi cơ bị đứt khỏi thân, văng ra xa. Một bên cánh cũng gãy làm đôi, mỗi mảnh bay một nơi, cách phi cơ gần trăm thước.
Tuy đã chuẩn bị trước, Văn Bình vẫn bị hất về phía trước, rồi giật về đằng sau. Toàn thân chàng đau điếng, xương sống như bị đứt rời ra từng khúc. Dường như chàng bị một loạt nhiều cú atémi vào xương sống vậy.
Song chàng vẫn tỉnh.
Chàng vẫn thấy rõ việc xảy ra chung quanh. Và nghe được tiếng kêu cứu thất thanh của hai người đàn bà cô quạnh và sợ hãi cùng độ.
Rồi tất cả chìm vào im lặng. Một sự im lặng rùng rợn và lạnh ngắt…
Văn Bình mím môi tháo khóa giây lưng ghế. Chàng vận toàn lực mà cái khóa đồng ngày thường trơn tru vẫn dính cứng. Chàng chưa rút được một chân ra khỏi đống hàng hóa và sắt nhọn đè lên. Đèn trong phi cơ tắt ngúm, tứ phía tối om.
Vì tứ phía tối om nên Văn Bình biết là hỏa hoạn không xảy ra. Lệ thường, phi cơ đáp xuống bằng bụng dễ bị cháy. Chắc vì gần cạn xăng. Và cũng vì bãi đáp toàn bùn là bùn.
Văn Bình thu hết chân khí vào bụng. Chàng phình bụng theo nội công Trung Hoa, đồng thời dứt giây lưng ghế. Xong xuôi, chàng xô cái thùng sắt nặng chĩu sang bên để rút chân.
Chàng cất tiếng:
-Không ai bị thương cả chứ?
Chàng không dám kêu rõ tên Vêra hoặc Sophie vì nếu kêu rõ thì tên người đẹp nào sẽ đứng trước? Tốt hơn chàng nói trống không.
Trong bóng tối, Sophie đáp nho nhỏ:
-Không.
Tiếp theo là tiếng “không” của Vêra. Văn Bình hơi ngạc nhiên vì không nghe tiếng cười tụ tin gần như ngạo nghễ của phụ tá hoa tiêu. Kể ra hắn ngạo nghễ cũng không quá đáng. Các công ty hàng không trên thế giới sẵn sàng ký cả chục ngàn đô la mỗi tháng cho những phi công – con số phi công xuất sắc này rất ít - có thể hạ cánh cấp cứu trong rừng khuya mù mịt, không đèn báo hiệu, một động cơ tắt ngúm, động cơ còn lại hấp hối, mà vẫn êm như đáp xuống phi đạo bằng nhung.
Văn Bình không biết tên hắn nên chỉ gọi:
-Này, anh bạn!
“Anh bạn” không trả lời.
Văn Bình quờ quạng vào ghế ngồi của viên phụ tá hoa tiêu. Và chàng chợt hiểu vì sao hắn ngậm miệng.
Lẫn với bồ hôi ướt đầm trán và mặt là máu pha chất bầy nhầy. Thoáng chạm vào, Văn Bình biết là máu. Mùi máu tươi nong nóng, tanh tanh xông vào mũi chàng. Không hiểu sao khi ấy mùi máu tươi lại át cả mùi hàng hóa đổ vỡ trong ca bin phi cơ, mùi ẩm mốc của rừng già, và nhất là mùi ét xăng và dầu nhớt khét lẹt.
Chất bầy nhầy dính đầy ngón tay Văn Bình. Chàng lay đầu hắn. Hắn ngoẹo cổ và gục xuống cần lái. Thì ra phụ tá hoa tiêu đã chết.
Văn Bình chưa hiểu rõ nguyên nhân. Lúc phi cơ đáp xuống, hắn còn nói chuyện ồm oàm. Có lẽ hắn bị trúng đạn, mất quá nhiều máu song say sưa với việc hạ cánh nên quên bẵng. Sự rung chuyển dữ dội khi máy bay rơi trên đất có lẽ đã làm hắn ngất đi. Và hắn “đi“luôn, không thức dậy nữa.
Văn Bình loạng choạng đứng dậy. Chàng ghé sát mặt phụ tá hoa tiêu, hỏi lại lần nữa:
-Anh bị thương ở đâu?
Hắn vẫn không đáp. Văn Bình ghé tai vào ngực hắn. Tim hắn không đập nữa. Thế là hết. Tuy đã quen với cảnh chết chóc đột ngột và tàn nhẫn. Văn Bình vẫn cảm thấy nội tâm tê tái.
Tiếng Vêra vọng lại:
-Em đang bị kẹt, anh ơi!
Nếu không nhớ tới tai nạn phi cơ vừa xảy ra làm phụ tá hoa tiêu thiệt mạng thì Văn Bình đã bật cười. Dĩ nhiên là Vêra đang bị kẹt… Văn Bình cũng đang bị kẹt … Toàn thể đang bị kẹt …
Văn Bình phải vất vả lắm mới tháo được giây lưng ghế cho Vêra và dìu nàng ra cửa. Chàng không phải giúp đỡ Sophie, nàng đã tự lực thoát hiểm. Có lẽ vì nàng đã học được tính bình tĩnh trước nguy biến. Mặt khác, có lẽ nàng đã quen với tai nạn phi hành.
Văn Bình đỡ hai người đàn bà đẹp trèo ra ngoài. Cửa lớn đã bẹp dí. Phi cơ nằm nghiêng, đè lên một bên cánh gẫy nát, ngập lún dưới bùn. Gió mát bên ngoài làm Văn Bình dễ chịu. Vêra níu lấy tay chàng, trèo lên trước, rồi đến Sophie. Khi nhảy xuống đất, chàng phải mò đường trong bóng đêm tranh tối tranh sáng, tiến về phía mũi phi cơ, tương đối thấp hơn đuôi, rồi chuyền từng người một xuống cánh. Chàng lại phải đứng dưới đất, xoạc chân trên bùn và mủn lá, ngập đến nửa đầu gối, chìa vai ra làm ghế cho họ lần lượt ngồi lên và ngả vào tay chàng, nhẹ nhàng tuột xuống.
Chàng nhận thấy khi tuột xuống, Vêra cũng như Sophie - nhất là Sophie - đều tìm cách cọ mạnhvào ngực chàng. Sophie lầm lì không nói như Vêra song đùi nàng, tay nàng, ngực nàng lại nói nhiều hơn. Văn Bình nhắm mắt, nín thở, không dám nhìn cũng như không dám hít sợ những đường cong kích thích và mùi da thịt hăng hắc làm đầu óc quay cuồng.
Không phải vì tai nạn khủng khiếp đã giết chết tình cảm sôi đọng trong lòng chàng vì thật ra trong những hoàn cảnh cô đơn và lạnh lẽo như thế này, chàng cảm thấy thèm yêu đương, thèm ôm ấp đàn bà đẹp hơn bao giờ hết. Nhưng sự ham muốn mãnh liệt của chàng đã vội vàng dịu xuống như hồi nào ở Hòa Bình, trong mật khu của 10 chị em họ Dương.
Bất giác Văn Bình lại nhớ tới cô em út, má lúm đồng tiền, chuyên môn cưỡi ngựa không cần yên cương, nhiều khi nổi hứng lại đúng một chân trên lưng ngựa hoặc nằm lòn dưới bụng ngựa giống như trong phim cao bồi Viễn Tây.
Nếu cần người yêu để trò chuyện thì chàng chọn cô chị cả. Nhưng nếu cần người yêu để ôm ấp đêm đông lạnh lùng thì chàng chọn cô út vì nàng có thân hình cân đối nhất, kiều diễm nhất trong bọn. Chiều hôm ấy, định mạng (không biết định mạng hữu duyên hay vô phước) run rủi cho chàng gặp nàng ngoài bìa rừng.
Đó là một khu rừng lim, thân cây cao ngất, hai người ôm không xuể. Xen vào giữa những cây lim bề thế, ngạo nghễ là nhiều bụi hoa mẫu đơn, hoa đỏ, lớn bằng cái bát chiết yêu. Khi ấy đang mùa mẫu đơn nở. Chàng đang mê mải với bụi mẫu đơn vừa nở tròn trành trạnh thì hai bàn tay xinh nhỏ từ sau lưng luồn tới bịt mắt chàng lại.
Lệ thường chàng rất thính tai, không hiểu sao chàng lại không nghe tiếng chân của cô út. Có lẽ vì hoa mẫu đơn tuyệt đẹp đã thu hồn chàng. Nhưng phần nào có lẽ vì nàng quen đi trong rừng gót chân nhẹ nhàng như lá rụng.
Nàng thỏ thẻ hỏi chàng:
-Đố anh, em là ai ?
Nàng không đố, chàng cũng biết vì chàng đã thuộc giọng nói của 10 chị em. Cô út giọng nói dễ nhận ra nhất. Giọng nói của nàng pha vẻ làm nũng đáng đánh đòn của con nhà giàu. Giọng nói không hề có trong số các chị em còn lại.
Chàng bèn cười rộ l ên :
-Chịu.
-Hừ, anh nói dối. Em cho anh một phút, đúng một phút. Nếu anh còn tiếp tục giả vờ, em sẽ trừng phạt.
-Trừng phạt ?
- Phải. Em sẽ ra lệnh cho con ngựa bạch của em quần thảo với anh một hiệp.
Tuy nàng nói đùa, Văn Bình cũng sợ toát bồ hôi. Trong mật khu, có hàng chục con ngựa, con nào cũng được coi là ngựa quý. Song quý nhất là con ngựa bạch của cô út. Nó là kỳ quan trong nòi ngựa rừng, cân nặng trên dưới một tấn. Văn Bình đã cao mà đứng chứ tới lưng nó, và bề dài từ đuôi tới mõm gần bằng chiếc Peugeot 404. Theo lời cô út thuật lại thì nó thuộc giống ngựa đặc biệt ở vùng rừng rậm trung bộ Mỹ châu (2). Gia đình họ Dương rất mê ngựa, giống nào đắt tiền nhất cũng cầy cục mua về cho bằng được. Con ngựa của cô út là giống Percheron, giống ngựa lớn nhất thế giới.
Đặc điểm của nó là rất hiền và cũng rất dữ. Đối với nữ chủ nhân, nó hiền như con mèo. Mỗi khi nàng muốn cưỡi thì nó quỳ xuống cho nàng trèo lên. Nhưng đối với người lạ thì nó lại dữ như cọp gấm. Riêng cái đuôi của nó cũng đủ quật ngã những võ sĩ ngoại công tuyệt vời. Nó nghe được tiếng người và hơn một lần đã dùng sức mạnh để bảo vệ chủ nhân. Một đêm kia, cô út chở võ khí từ đồng bằng về chiến khu, dọc đường lọt vào ổ phục kích của bộ đội chính quy cộng sản. Con ngựa bạch hí lên một tiếng kinh thiên động địa làm lá cây rụng xuống ào ào, rồi nhảy vọt một cái qua giòng suối lớn, nước chảy như thác đổ, bỏ lại tiểu đội phục kích mặt mũi chưng hửng. Lại một đêm khác, nàng bị công an chặn bắt ở ngoài bìa rừng, con ngựa bạch tung chân sau đá chết hai người. Bọn sống sót vứt cả súng bỏ chạy tán loạn.
Cũng như gia đình họ Dương, Văn Bình rất mê ngựa. Chàng lại hơn gia đình họ Dương ở chỗ đã chu du khắp trái đất, tham dự nhiều cuộc đua quốc tế, và thăm nhiều chuồng ngựa hữu danh. Chàng lưu lại đồng quê Thụy Điển, quốc gia chiếm nhiều giải đua ngựa, trong 6 tháng. Chàng còn có mặt tại những trại nuôi ngựa đua Úc châu, xứ nổi tiếng năm châu về nghệ thuật cưỡi ngựa (3). Văn Bình cũng không phải là kẻ tập sự kỵ mã. Cô út họ Dương cũng biết rõ điều ấy song nàng cũng biết rằng kinh nghiệm của Văn Bình không thể giúp chàng đọ sức với con ngựa bạch khổng lồ.
Nàng mỉm cười tiếp :
-Anh trả lời đi. Anh muốn làm lành với em hay muốn thi gan với con ngựa bạch ?
Văn Bình đáp :
-Tôi chịu thua rồi.
-Vậy em là ai ?
-Là cô gái đẹp nhất thế gìới.
Nàng phá lên cười lanh lảnh. Tiếng cười của nàng có mãnh lực kỳ diệu đến nỗi chim muông trong rừng phải ngừng ca hót. Nàng nắm tay chàng :
-Anh đi chơi với em nhé !
Dĩ nhiên là Văn Bình nhận lời ngay. Chàng chọn một bụi mẫu đơn nở hoa đỏ ối làm nơi tình tự. Nằm dài trên nền lá, môi hé nở, mắt lim dim, sửa soạn đón những nụ hôn của chàng thì đột nhiên có tiếng vó ngựa. Nàng vội choàng dậy, giọn hoảng hốt :
-Chết rồi, em phải về đây ! 
Chàng cố giữ nàng lại :
-Tại sao em về ?
Nàng thở dài:
-Vì chúng em đã thỏa thuận với nhau là không ai được hẹn hò riêng với anh.
Lòng chàng đang nóng sôi hoan lạc bỗng vụt hạ nhiệt độ như gặp tảng băng Bắc Cực. Hôm ấy, chàng lủi thủi trên đường về, không dám nghĩ tới kho tàng vệ nữ họ Dương như trước nữa.
Cũng như đêm nay…
Trong rừng sâu, bên chiếc Dakota lâm nạn nát ngướu với hai mỹ nhân Vêra và Sophie.
Trời bắt đầu hửng sáng.
Bóng tối không còn dày đặc nữa. Văn Bình đã có thể lờ mờ nhìn thấy cảnh vật chung quanh. Cả bọn đang ở ven ruộng nha phiến. Mùi cây nha phiến trổ hoa thoang thoảng trong gió làm Văn Bình ngây ngất.
Đối với chàng, màu trắng, tía và hồng của hoa nha phiến là một trong nhiều hình ảnh quen thuộc. Trong thời gian chàng cộng tác với Cảnh Sát Quốc Tế Interpol, theo dõi bọn buôn lậu thuốc phiện trắng từ Viễn Đông qua Tây phương, chàng đã lang thang trong vùng đồi núi Ấn Độ và Thổ nhĩ kỳ, nơi trồng cây nha phiến nhiều nhất thế gìói.
Dầu sao ánh sáng rạng đông còn vương trên đỉnh cây cao, sương đêm lại còn dày đặc, Văn Bình vẫn nhận thấy rõ một cánh đồng bát ngát, trồng toàn loại cây ẻo lả chỉ cao bằng đầu người: cây nha phiến. Mùa này đang là mùa lấy nhựa. Hơi nhựa từ thân cây toát ra có thể gây ra mê man. Công nhân lấy nhựa phải quay mặt ngược chiều gió hoặc đeo mặt nạ. Trên thực tế, nhiều người đã mê man và không tỉnh dậy nữa.
Công việc lấy nhựa nha phiến cũng tế nhị và khó khăn như cư xử với đàn bà. Khi cánh hoa bắt đầu rụng, ngày nào người ta cũng phải xem quả bên trong đã tới “nước” chưa. Còn non mà vội lấy nhựa – khác nào đối với tình yêu trai gái – thì giòng sữa trắng sẽ tháo đổ xuống đất. Nhưng để quá già thì nhựa cây lại mất đặc tính quý giá nhất, chất mọt phin trong nhựa trở thành cô đê in, rẻ tiền hơn và ít say hơn.
Rạch trái lấy nhựa cũng là một công việc đòi hỏi sự khéo tay khác thường. Rạch hơi sâu thí chất nha phiến sẽ hòa trộn với các nhựa khác trong cây làm mất vẻ tinh khiết. Ngược lại, vạch hơi cạn thì nhựa lại không chịu chảy ra. Sau khi nhựa chảy ra và đông đặc lại ngoài vỏ, người ta còn phải thận trọng hơn nữa vì số nhựa mỗi cây chỉ bằng mẩu tàn thuốc lá là cùng. Người ta phải cạo chất nhựa bằng dao trong vòng 10 giờ đồng hồ sau khi rạch. Quá thời hạn này, nha phiến sẽ cứng lại.
Ba người đi xuyên qua ruộng nha phiến tới một khu rừng thưa trên sườn đồi thoai thoải. Gió mát ban mai trinh tiết từ xa thổi lại mang theo mùi nước sông Irrawaddy.
Văn Bình buột miệng:
-A, gần tới sông rồi. Chúng mình không sợ lạc nữa.
Sophie chỉ sang bên trái:
-Sông ở hướng này. Em đã tới ruộng nha phiến này vài ba lần nên rất thuộc đường. Chúng mình lên tới đỉnh đồi này là thấy sông.
-Còn bao xa nữa thì tới Nambum-Ga ?
-Nếu đi đường thẳng thì chỉ độ 10 cây số. Nhưng vì nơi đây không có đường á nên phải mất nửa ngày trời mới vượt nổi 10 cây số băng rừng. Nghĩa là em hy vọng gần trưa thì đến nơi. Song đó là không đi lạc. Trong quá khứ, có lần em đi suốt đêm trong rừng mà không tài nào ra khỏi phạm vi một cây số.
-Cô biết đường băng rừng tới Nambum-Ga chứ ?
-Biết. Nhưng có lẽ chúng mình không phải đi bộ đâu. Khu rừng này có rất nhiều rắn mà toàn là rắn nguy hiểm, cắn phải là mất mạng.
-Chắc cô muốn nói đến ca nô của Inka ?
-Phải. Anh thông minh ghê. Con sông Irrawaddy chạy vòng trên mấy chục cây số nên hàng ngày, trời sáng rõ ca nô của Inka mới tới khúc quẹo sau đồi.
Văn Bình sực nhớ lại lời tâm sự của viên phụ tá hoa tiêu. Hắn cho chàng biết là Inka say mê Sophie như điếu đổ, song nàng vẫn phẳng lặng như nước hồ thu.
Thừa cơ Vêra còn rửa mặt bên suối, Văn Bình hỏi Sophie:
-Cô quen Inka không?
Nàng nhìn chàng, vẻ mặt ngơ ngác:
-Quen. Hắn là bạn của Abê. Nói cho đúng, không phải bạn mà là hùn hạp buôn bán. Hẳn anh đã biết Abê dùng công ty du lịch để  buôn nha phiến. Ồ, em vui miệng nên nói bậy… Dầu sao Abê cũng đã chết rồi. Lẽ ra em không nên nhắc tới đời tư của …
Văn Bình gạt phắt :
-Cô đừng ngại. Trước khi tới đây, tôi đã biết Abê không tự ý buôn thuốc phiện lậu để kiếm lợi mà lợi dụng việc buôn bán để móc nối với các tổ chức miền Bắc. Inka quen Abê và cô lâu chưa ?
-Khi em đến Ngưỡng Quang thì đã thấy Inka.
-Abê tin hắn không ?
-Không. Abê nói rằng Inka chỉ là kẻ chỉ nghĩ đến tiền. Đồng tiền có thể làm hắn quáng mắt.
Văn Bình hơi ngập ngừng :
-Tôi muốn hỏi cô điều này nữa, một điều riêng tư…
Sophie khựng người một giây rồi nói :
-Em hiểu. Anh muốn biết sự liên lạc giữa em và Inka phải không ?
-Phải. Xin cô tha lỗi. Tôi biết là cô không yêu hắn.
-Ai nói với anh như thế ?
-Abê.
-Hừ, anh nói dối. Abê không phải là người ngồi lê đôi mách. Vả lại, anh mới gặp Abê mỗi một lần, em có chứng kiến.
-Nghĩa là cô yêu hắn ?
-Cả hai nhận xét đều không đúng.
-Nói là không yêu cô cho là sai. Nói là yêu, cô cũng cho là sai. Trời ơi, tôi sắp điên mất…
-Anh điên là phải. Vì những người đàn ông nào biết rung động lại không điên trong sự lựa chọn giữa hai người đàn bà… Vêra khêu gợi lám, phải không anh ?
-Xin cô nghĩ lại. Cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào, vì vậy đây không phải là lúc nói đến yêu đương. Hơn ai hết, hẳn cô đã hiểu…
-Vâng, em hiểu rồi, hiểu quá rồi… Em hiểu rằng hoạt động tình báo như anh không có tình yêu đương lâu bền. Trong lớp huấn luyện nhập môn, người ta cũng dạy em như vậy. Chỉ nam tình báo đã nói rõ ràng đàn bà là trở ngại nghề nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế một số nam điệp viên đã lợi dụng điều cấm này để hất hủi phụ nữ. Em xin nói thẳng anh biết là trên đời em không còn ai nữa. Em có giòng máu bộ lạc nên nhiều khi hung dữ kinh khủng. Em có thể giết anh.
Văn Bình thở dài :
-Tôi cũng chẳng thiết sống nữa. Cô hãy cho tôi một viên đạn vào tim.
Sophie cười nửa miệng :
-Bây giờ, em lại muốn anh sống.
Vêra đang vội vàng từ bờ suối chạy tới. Vừa chạy nàng vừa kêu cứu :
-Rắn, rắn, trời ơi !
Trời đã  sáng rõ. Con độc xà đang oằn oại rượt theo Vêra  không phải là rắn mà là một con trăn nhỏ, thân đen bóng như quần lãnh, đầu hình tam giác đỏ hỏn, cái lưỡi dài và nhọn thè lè, kêu rít vun vút trong không khí đẫm sương. Mặt tái mét không còn hột máu, Vêra chạy lê đến gần Văn Bình thì vấp phải rễ cây, ngã chúi xuống. Nếu không vấp nàng cũng đã kiệt sức, không chạy thêm được nữa. Con trăn chỉ còn cách Vêra hai sải tay, cuộn tròn lại sửa soạn bung ra trong thế tấn công sát nhân.
Văn Bình bối rối mặc dầu đã tiến lên một bộ, bàn chân sắp sửa phóng cước. Chàng bối rối vì biết loại trăn đen đỏ này rất lợi hại, toàn thân rắn chắc như được bọc trong một bộ giáp trụ bằng kim khí, võ atémi phải giáng trúng yếu huyệt, nếu không chỉ như châu chấu đá xe.
Thì « đoàng » một tiếng ngắn.
Khẩu súng trong tay Sophie bốc khói nghi ngút. Văn Bình không ngờ nàng bắn giỏi đến thế. Nàng chỉ cần viên đạn độc nhất để phá nát đầu con trăn ác ôn. Con vật nổi tiếng hung hãn này chồm lên rồi ngã vật xuống nền cỏ ẩm ướt.
Văn Bình sửng sốt về tài thiện xạ của Sophie thì ít mà sửng sốt về phản ứng của nàng thì nhiều. Vì cách đó không đầy một phút nàng còn là tình địch không đội trời chung của Vêra. Vậy mà nàng lại hạ con trăn cứu Vêra khỏi chết. Phái yếu muôn thuở vẫn được coi là lạ lùng và bí mật. Sophie đã tỏ ra lạ lùng và bí mật hơn mọi người đàn bà khác.
Vêra lồm cồm bò dậy, giọng còn run run :
-Sophie đã cứu tôi. Cám ơn Sophie.
Nhưng Sophie đã ngoảnh đi chỗ khác. Sự im lặng nặng nề lại đè xuống đầu ba người.
Trong khoảnh khắc, cả ba  đã lên tới đỉnh đồi. Đằng xa, về hướng Đông bị một rặng núi trùng điệp che khuất. Một vùng đỏ da cam hiện lên mỗi lúc một đậm nét. Núi đen từ từ nhuộm màu hồng, những giải sương lởn vởn trên đầu những cây nha phiến trổ bông đột nhiên biến thành mây ngũ sắc. Quang cảnh ban mai của núi rừng miền Bắc Diến Điện chứa chất vẻ đẹp khác thường. Văn Bình cảm thấy tâm thần rung động, như hồi nào còn là cậu bé ngây thơ lần đầu theo phụ thân vác ná vào rừng săn thú. Có lẽ thuở hoa niên Văn Bình sống bên bìa rừng, lăn lóc trong rừng, nghe tiếng nói của núi rừng, nhìn cái đẹp của rừng nên khi thành nhân, chàng yêu mến sự hoang dã, hoang dã trong tình yêu cũng như trong đời sống hoạt động.
Bỗng Sophie reo to:
-Kìa, ca nô của Inka.
Dưới chân đồi, bên tay trái, đối diện với vầng Đông đang rầm rộ ló dạng, giòng sông Irrawaddy hùng vĩ lượn ngoằn ngoèo với mặt nước xanh biếc lăn tăn bọt vàng. Rừng cây hai bên đường như xanh hơn, vàng hơn thường ngày. Mùi nhựa nha phiến đang đông đặc trên cây hòa trộn vào không khí thuần khiết, khiến Văn Bình lâng lâng.
Chiếc ca nô sơn xám, đèn thắp sáng trưng, từ từ ra khỏi khúc quanh ỏ chân đồi. Cửa ca nô mấp mé làn nước, chắc vì chở nặng. Văn Bình thấy một người đàn ông mặc đồ cụt trắng, đứng trên boong.
Sophie rẽ đám lau sậy, chạy xuống trước. Dáng thoăn thoắt của nàng chứng tỏ nàng đã quen với rừng núi. Cặp giò cân đối của nàng không thua cặp giò của các chị em nhà họ Dương ở Hòa Bình, mệnh danh là cặp giò trường túc bất chi lao…
Vêra theo sau, cử chỉ mệt mỏi. Văn Bình không dám đưa vai cho nàng vịn mặc dầu đó là bổn phận của mọi người đàn ông lịch sự. Chàng đành rảo bước một quãng rồi đứng lại chờ. Gần nửa giớ sau, Vêra mới xuống được tới bờ sông.
Ca nô của Inka huýt một hồi còi the thé trước khi tắt máy và đậu vào bờ.
Thấy Sophie, người đàn ông vạm vỡ mặc sọt trắng trên boong vẫy tay rối rít. Phụ tá hoa tiêu nói đúng: Inka khá đẹp trai. Thân hình cân đối và cường tráng của hắn cũng có thể làm vừa lòng những người đàn bà khó tính. Tuy nhiên, Văn Bình nhận thấy hắn vô duyên do cặp mắt bằng phẳng và nụ cười gưọng gạo.
Inka nhảy lên bờ. Sophie lạnh lùng bắt tay hắn rồi giới thiệu:
-Đây là Inka… còn đây là Môhan.
Inka xoắn lấy Sophie:
-Cô không hề gì cả chứ?
Nàng lắc đầu, đáp cộc lốc:
-Không, cám ơn anh.
Inka nhìn Văn Bình kể lể:
-Gớm, tôi cứ lo ngay ngáy. Tuy trời tối, tôi biết là phi cơ của Abê nên mở hết đèn trên ca nô và giảm tốc độ để đợi.
Văn Bình ngắt lời:
-Anh biết phi cơ tấn công chúng tôi là của ai không?
-Biết. Của quân lực Diến. Vả lại, tư nhân ở đây không thể có phi cơ phản lực. Điều làm tôi ngạc nhiên là phi cơ của Abê bị bắn. Abê vốn là người kinh doanh lương thiện.
-Abê đã bị giết.
-Vâng, tôi mới được tin. Nghe nói người ta chưa bắt được hung thủ và khám phá ra manh mối. Nhưng theo tôi, cuộc xạ kích vô lý này đã chứng tỏ nhà cầm quyền có nhúng tay vào.
Văn Bình nhún vai:
-Anh kết luận hơi sớm. May là gặp ca nô của anh, chứ không chúng tôi phải đi bộ xuyên rừng tới Nambum-Ga.
Inka đáp:
-Chắc anh chưa biết tôi là bạn của cô Sophie. Nếu nhảy vào lửa để cứu Sophie tôi cũng chẳng nề hà, huống hồ là chỉ lái ca nô vào bờ chờ đợi. Bà Vêra là tỉ phú quen tên ở Ngưỡng Quang, sự hiện diện của bà trên con tàu ọp ẹp này là một vinh dự lớn cho tôi… Tôi cho sự gặp gỡ này là do tiền định vì nếu tôi nhổ neo sớm hoặc chậm hơn thường lệ thì mọi việc đều hỏng và riêng tôi, tôi ân hận suốt đời.
-Ân hận suốt đời?
-À, vâng, tôi sẽ ân hận suốt đời vì hai người đàn bà và anh khó tránh khỏi cái chết thê thảm. Đường từ đây tới thị trấn Nambum-Ga không xa mấy, nhưng lại rất nguy hiểm. Một phần vì thú dữ, phần khác vì bộ đội giải phóng bắn lén hoặc bắt chuộc tiền.
-Tại sao ca nô của anh vẫn chạy?
-Vì chúng tôi được võ trang đầy đủ. Mặt khác vì đã nộp thuế cho thượng tá U Ban, tư lệnh du kích quân.
-Du kích quân có kiểm soát  được Nambum-Ga không?
-Có và không. Vùng  rừng núi chung quanh đều do họ hoàn toàn nắm giữ. Tuy nhiên, họ không vào thị trấn. Tình hình miền Bắc trong mấy tháng nay mỗi ngày một căng thẳng. Ca nô của tôi chỉ chạy đến Nambum-Ga, chứ không tiến xa hơn nữa như trước kia. Chuyến này có lẽ là chuyến chót của tôi. Mai mốt về miền Nam, tôi sẽ bán tàu bè, bỏ nghề vận tải và hồi hương.
Phải trở về  Anh quốc sau gần 10 năm sinh sống ở miền Bắc Diến Điện, coi mảnh đất rừng núi này như quê hương thứ hai, thật là một sự đau đớn cho tôi nhưng tôi không còn cách nào khác.
-Thì anh cứ tiếp tục đóng thuế cho U Ban và tiếp tục khai thác thủy lộ…
-Sự việc không giản dị như thế. Chính phủ sẽ lôi tôi ra tòa nếu biết tôi tư thông với du kích quân. Song nếu tôi không nộp thuế - cũng như nhiều nhà buôn và kỹ nghệ khác – thì du kích quân sẽ lôi tôi vào rừng, chém đầu, vứt xác xuống khe. Trong quá khứ, tôi có thể sống an toàn là vì du kích quân chưa bành trướng và chính phủ cũng chưa đàn áp quyết liệt. Thôi, tôi bép xép nhiều quá, không lợi. Cô Sophie vẫn thường chê tôi là đàn ông lắm lời. Chính vì tôi mắc bệnh đa ngôn nên cô Sophie mới không đoái hoài tới.
Văn Bình quay sang nhìn Sophie, chờ đợi phản ứng. Nàng hơi nghiêm mặt:
-Bây giờ không phải là lúc nói chuyện riêng. Vêra hơi mệt, lẽ ra anh nên mời bà ấy xuống cabin nghỉ ngơi. Nếu anh và tôi còn sống, chúng ta còn nhiều thì giờ để tìm hiểu nhau.
Inka giật mình:
-Xin lỗi Sophie, xin lỗi anh Môhan. Tôi đã cho dọn sẵn cabin. Nào mời bà Vêra, mời cô Sophie…
Hai người đàn bà theo Inka xuống khoang dưới. Văn Bình đánh diêm hút Salem. Boong tàu chật ních hàng hóa, chỉ trừ khoảng nhỏ ở đuôi và mũi. thượng vàng hạ cám, hàng hóa gồm đủ thứ từ chiếc xe díp còn mới tinh, thơm mùi sơn kaki tới những chiếc xe gắn máy và xe đạp cũ mèm, từ những kiện chăn mền quần áo nhiều màu sặc sỡ tới những đoàn gà mái kêu cục tác liên tiếp và cừu non kêu be be điếc tai…
Thủy thủ đoàn gồm toàn người bản xứ, da ngăm ngăm đen, cử chỉ chậm chạp, thái độ bình tĩnh, thái độ bình thản gần như lạnh lùng. Văn Bình đang bâng khuâng với điếu thuốc thơm mùi bạc hà thì sau lưng có tiếng nói:
-Thưa ông…
Chàng quay lại. Một thủy thủ mặc đồng phục xám nghiêng mình chào chàng:
-Thưa ông… thiếu tá Inka mời ông xuống cabin.
À ra Inka là thiếu tá. Có lẽ trước khi sang Diến Điện làm nghề chủ tàu, hắn đã đeo lon thiếu tá hải quân. Cũng có lẽ… Văn Bình lắc đầu :
-Buổi sáng trời đẹp như thế này, xuống cabin thật uổng. Phiền anh trình với thiếu tá rằng tôi muốn ở trên boong.
-Thưa… sắp đến trạm thu thuế của du kích rồi, ông đứng trên boong bất tiện.
Văn Bình khoát tay ném điếu thuốc xuống giòng sông chảy xiết, giọng bực bội :
-Ừ thì xuống.
Trông ngoài ca nô thuộc loại trung bình, nhưng vào trong mới thấy lớn. Bên dưới được dùng làm kho chứa hàng hóa một phần ba, còn hai phần ba là là phòng máy móc và cabin cho thủy thủ đoàn và « thuyền trưởng » Inka.
Cầu thang sắt sơn xanh nhạt dẫn xuống cabin trắng toát như trong bệnh viện. Tuy hai bờ sông đầy cát đỏ, gió lại thổi ào ào hắt bụi vào tàu cabin bên dưới vẫn sạch bóng, nền phòng tưởng như có thể soi gương được. Inka tươi cười đón chàng bên cái giường sắt gắn vào thân ca nô. Chàng chưa kịp hỏi thì hắn nhanh nhẩu :
-Hai người đẹp còn đang bận trang điểm ở phòng bên.
Rồi chỉ cái bình thủy trước mặt :
-Anh dùng cà phê nhé ?
Văn Bình không phải môn đệ chủ nghĩa uống cà phê. Chàng có thói quen súc miệng sáng bằng huýt ky nguyên chất. Hồi ở Sàigòn, có lần chàng đã bị ông tổng giám đốc khiển trách về tật dùng huýt ky thay cà phê lót dạ. Nhưng chàng chỉ vâng dạ lấy lệ, rồi đả đảo cà phê như trước. Bỗng dưng hôm nay chàng cảm thấy nhớ ông Hoàng, nhớ Sàigòn hơn bao giờ hết.
Chàng bèn gật đầu :
-Vâng, buổi sáng được uống cà phê thì tuyệt.
Cà phê bốc khói nghi ngút trong tách Nhật trong xanh như mắt mèo. Chàng uống một hơi cạn rồi ngửa cổ trên ghế, mắt lim đim.
Mỗi khi nhắp cà phê chàng thường lim dim như vậy.
Nhưng hôm nay chàng muốn mở mắt không được. Hai mí mắt dường như bị dán lại với nhau bằng keo. Chàng thấy đang đắng ở cuống họng và một luồng khí lạnh chạy rần rần trong tủy xương sống. Rồi toàn thân chàng mệt rũ. Trèo một mạch từ dưới chân đỉnh Hy mã lạp sơn lên cũng chỉ mệt rũ đến thế là cùng.
Văn Bình thử duỗi chân.
Bàn chân chàng bị chôn chặt xuống nền cabin.
Chàng thử vung tay. Cánh tay lực lưỡng của chàng như bị đè chặt dưới một tấn kim khí nặng nề.
Biết là bị lừa, Văn Bình trừng mắt nhìn Inka. Gã thiếu tá, chủ ca nô, vừa đứng dậy án ngữ trước mặt chàng. Hắn mỉm cười:
-Anh buồn ngủ chưa?
Giọng nói thân mật giả tạo của hắn làm Văn Bình tức lộn ruột. Chàng vận chân khí lên đan điền, cố dùng thuật Ninjutsu Nhật Bản để hóa giải chất thuốc mê. Song lần này chàng bất lực vì Inka đã pha vào cà phê một thứ thuốc mê cực mạnh. Nỗ lực chuyển bại thành thắng của Văn Bình trở nên vô ích.
Tuy nhiên, trước khi chịu ngất đi, Văn Bình đã thu tàn lực để hét lên một tiếng “kiai” rồi chàng gã gục xuống nền cabin.
Inka phá lên cười:
-Ha ha ha ha!
Chú thích:
(1) cặp ngà dài nhất là một con vai ở Kenya, hiện được cất giữ trong viện Bảo tàng Quốc gia Mỹ. Ngà này dài 2m90, cả cặp cân nặng chừng 90 ký.
(2) giống ngựa lớn nhất thế giới là Percheron. Con “bác sĩ Le Gear” nặng 1400 ký, dài 4m70, cao 1m80, sinh năm 1902, chết năm 1919.
(3) Úc châu là xứ của kỷ lục đua ngựa: như kỷ lục nhảy cao và kỷ lục nhảy xa.