---~~~mucluc~~~---


Chương VIII
Điếu thuốc vĩnh biệt

     hiếc Zis khổng lồ của Bêrếp dừng trước vọng gác Gia Lâm, bên kia cầu Long Biên. Được lệnh từ trước nên tuy cửa xe chưa mở, từ trạm canh một người đội mũ sắt, đeo tiểu liên đã le te chạy ra, nghiêng mình chào Bêrếp. Thò đầu qua khung cửa sau, Bêrếp hỏi, giọng hách dịch:
-Họ qua đây được mấy phút rồi?
Người đó đáp bằng tiếng Nga:
-Thưa, đúng 5 phút rưỡi.
Bêrếp lẩm bẩm:
-5 phút rưỡi, tức là ít nhất họ đã qua Cầu Đuống.
Bêrếp xuống xe, đi vội vào trạm gác. Bên trong, tiếng chuông điện thoại réo vang. Bêrếp cầm ống nghe:
-Alô, trạm Cầu Đuống xin báo cáo. Chiếc Chaika vừa qua. Tuân lệnh, chúng tôi để mặc không xét giấy và không khám xe. Chúng tôi đã báo cáo cho Hải Dương biết.
Bêrếp buông ống nghe, rồi ấn cái nút đỏ trên bàn máy vô tuyến, liên lạc thẳng với Xilốp ở ty R.U. Một tiếng nói khàn khàn nổi lên:
-Alô, Bêrếp đấy ư? Thủy quân của ta đã bắt đầu xục xạo ngoài khơi, cách bờ biển hai chục cây số. Ta đã huy động máy ra đa và máy át đích (1) dò tàu ngầm. Đồng chí Thanh Lâm hiện ở trên tàu, chưa có kết quả. Chưa có tin gì đặc sắc. Lên đường đi thôi.
Bêrếp trèo lên xe ra hiệu cho tài xế nổ máy. Trời mùa đông tuy có trăng nhưng sương mù bao phủ dầy đặc. Tài xế vặn pha sáng quắc mà không chọc thủng được màn sương mù. Bêrếp dựa lưng vào nệm xe êm ái, miệng phì phèo điếu xì gà to tướng. Hắn đã nắm chắc thành công trong tay. Tiềm thủy đĩnh của lão Hoàng, trừ phi mọc cánh mới đằng vân nổi đêm nay khỏi vịnh Hạ Long.
Nghĩ đến thành quả bắt gọn bộ tham mưu gián điệp địch, Bêrếp cười thầm. Thú vị nhất là còng tay nhà bác học Bilatốp ở Đồ Sơn, giải giao cho đại sứ Liên sô ở Hà nội. Phen này Bêrếp sẽ được triệu về điện Cẩm Linh và được thăng chức, ít nhất cũng là giám đốc cơ quan gián điệp sô viết ở Đông Nam Á, từ giã cuộc đời cạo giấy làm phó trưởng ty hạng bét, phụ tá cho Xilốp.
Con đường Hải Dương thẳng băng. Ánh trăng quét lằn bạc trắng xóa dưới luồng đèn pha sáng quắc.
Nóng ruột, Bêrếp dục tài xế:
-Chậm quá, thêm ga chút nữa.
Chiếc Zis lồng lên như con thú bị đạn. Khí lạnh bên ngoài tạt phần phật vào trong xe.
Đã lái xe quen cho phó trưởng ty Bêrếp nên người tài xế hết sức thận trọng tay bánh. Đôi mắt hắn dán  lên mảnh đường nhựa đang cuộn dài trước ngọn đèn pha cực mạnh. Hắn đã biết tính Bêrếp. Lái nhanh không được mà lái chậm cũng không được. Nhanh, chậm, phải tùy theo mệnh lệnh của chủ nhân. Đến ‘’cua‘’, tài xế phải ôm thật sát, nếu lởn vởn ra ngoài, Bêrếp cũng khiển trách thậm tệ.
Đột nhiên hắn thấy đau nhói trong tim. Trước mặt hắn hiện ra quãng đường ươn ướt, không phải ươn ướt vì nước mà vì một chất kỳ lạ. Đó là nhớt chạy máy. Hắn tìm cách đối phó thì đã muộn. Chiếc xe vững tay lái đột nhiên trẹo sang bên. Hắn cố giữ vô lăng thẳng ro nhưng chiếc xe đang chạy trên 100 cây số một giờ không cho phép hắn thực hành ý định để chiều ông chủ khó tính Berếp.
Hai lốp trước dẫm vào vũng nhớt đặc như bị một sức mạnh vô hình kéo lạng sang bên trái. Rồi khi bánh trước đang trượt thì hai bánh sau tiến đến. Cả bốn bánh còn nguyên trớn kéo chiếc xe khổng lồ xuống ruộng.
Trước khi xuống ruộng, không hiểu vì tài xế luống cuống, vì tay lái không nghe theo mệnh lệnh của hai tay nữa, hay vì bác sĩ Triệu Dung và Văn Bình dã tính toán trước mà chiếc xe nặng chĩu còn đâm sầm vào cây cột điện xi măng cốt sắt.
Dưới sức nặng của ba tấn sắt, cây cột bê tông kiên cố bị tiện làm hai như con dao chặt khúc mía. Đâm xong, chiếc Zis hùng dũng bỗng đứng phắt lại, như bị một sức hút vô hình làm bốn bánh xe dính xuống đường, đoạn quay đầu hai vòng như chong chóng trước khi lao xuống ruộng.
Liên sô vừa viện trợ cho Miền Bắc một số lớn cá cơm. Các thửa ruộng dọc đường Hà nội  - Hải Dương được biến thành ao thả cá đầy nước. Chiếc Zis oai vệ rơi tọt xuống ao cá, kêu bõm một tiếng lớn.
Nước tuôn vào trong xe. Tài xế bị đập mặt vào vô lăng, gục ngã kcute;c bạn yên tâm. Tôi đã quen
Máy bay cứ lên cao mãi. Qua ô kính phi cơ, nhìn xuống mặt đất, Văn Bình có cảm tưởng lả lướt trong một thế giới thần tiên. Bên ngoài trời sáng một cách dị thường. Hơn 7 cây số phía dưới, quang cảnh đồng bằng Bắc Việt, thu lại nhỏ xíu như trên bức tranh thủy mạc, chàng bất giác nhớ đến những làng mạc trên đường máy bay qua, trong đó có quê hương của chàng mà chàng cách xa từ bao năm chưa có dịp về.
Viên hoa tiêu nói với chàng qua máy nói :
-Nhờ ông ký cho tờ giấy.
Văn Bình đỡ lấy mảnh giấy vàng do viên phụ tá rút trong cặp da, đưa cho chàng. Đó là tấm biên lai mà viên hoa tiêu, khi về tới Sàigòn sẽ trình cho ông Hoàng, tổng giám đốc Mật vụ. Ký vào tức là nhận rằng Văn Bình đã đến gần Văn Điển và đã nhảy an toàn. Văn Bình hạ bút. Cất tờ giấy xong, viên phụ tá vỗ vai chàng:
-Cám ơn ông. Đáng tiếc là đơn vị trưởng không cho phép, nếu không đêm nay tôi sẽ phóc xuống với ông.
Văn Bình hỏi, giọng tươi cười:
-Ông bạn cũng thích xuống dưới đó ư?
-Còn phải nói. Tôi còn cô em gái và cô nhân tình dưới đó, chà chà … Giá thiếu tá cho phép nhảy xuống hú hí một đêm rồi đêm sau móc lên thì khoái biết mấy?
Viên hoa tiêu cười lớn:
-Thôi tôi xin chú. Đời chú bao giờ cũng chết vì gái!
Văn Bình bênh vực:
-Ồ, gái đẹp ai chả mê, hả bạn? Trên thế gian này có ba sự khó chừa, ông bạn không nhớ sao?
-Sao lại không nhớ? Tôi đùa đấy! Gỗ đá cũng còn thích rượu nồng, dê béo, và gái vừa đang tơ huống hồ anh em phi công bay bướm.
Viên phụ tá nói:
-Chắc đêm nay, ông bạn nhảy xuống với một “cô gái vừa đang tơ”?
Văn Bình đáp:
-Cũng mong như thế.
Viên phụ tá cười, má lúm đồng tiền:
-Đọc truyện phiêu lưu gián điệp, tôi thường thấy đàn ông và đàn bà đều đẹp. Ông bạn đẹp trai thế này chắc chắn bên dưới phải có một thiếu nữ, mắt phượng mày ngài, thoa son môi đỏ chót và mới tắm nước thơm để đón tiếp.
Đột nhiên tiếng hoa tiêu trở nên nghiêm trọng:
-Đùa mãi cha nội. Sắp sửa rồi đấy.
Phía dưới, giòng sông Hồng Hà như một vệt bàng bạc in trên nền thẫm. Hoa tiêu bớt ga cho phi cơ bay chậm, rồi nói với Văn Bình:
-Gần đến địa điểm nhảy. Mời ông chuẩn bị.
Văn Bình hỏi:
-Có hy vọng nhảy sát mục phiêu không?
Viên thiếu tá đáp:
-Có khá nhiều hy vọng. Hiện giờ, ba đài phóng tuyến cực mạnh của ta đang nhả những đợt sóng điện liên tục giao nhau. Điểm tương giao của các đợt sóng là địa điểm mà ông sẽ nhảy. Nhờ máy móc trên phi cơ, tôi có thể tính biết điểm tương giao mà không sợ lầm... Bây giờ tôi cho bớt máy. Chúng ta cách đất liền sáu ngàn bảy trăm thước... 5 phút nữa, ông sẽ nhảy... Yêu cầu ông nghe lời tôi dặn. Ông đừng quên một chi tiết nào vì quên là nguy tính mạng. Ông nghe rõ chưa?
Văn Bình đáp qua ống nói:
-Nghe rõ.
-Như tôi đã nói, phải mở dù gần mặt đất không xa mới khỏi bị lộ. Từ khi rời máy bay đến khi kéo dù, ông hãy đếm đủ 90 giây đồng hồ. Như vậy, dù sẽ mở cách mặt đất chừng ba trăm mét.
-Tôi hiểu.
-Ông chuẩn bị đi. Còn 4 phút nữa... 90 giây đồng hồ trước khi ông nhảy, tôi sẽ báo ông biết. Phụ tá của tôi sẽ gỡ mặt nạ dưỡng khí, và ống nói cho ông. Ông hãy thở thật sâu cho đầy ngực trước khi nhảy... Từ trên cao nhảy xuống, có thể ông sẽ ngạt thở trong khoảnh khắc. Nhưng ông yên trí, dưỡng khí trong phổi sẽ giúp ông khỏi bị bất tỉnh.
Văn Bình yên lặng kiểm điểm lại hành trang. Dáng điệu của Văn Bình, điệp viên Z.28 của sở Mật vụ Việt Nam, ba phút trước khi rời máy bay nhảy xuống đất địch để thi hành một sứ mạng cực kỳ nguy hiểm, lại có vẻ giản dị, bình thường như khi chàng sửa soạn đi câu cá ở Ba Ngòi, hay soạn hành lý lên thác Gougah tình tự với một cô gái tóc dài, có cặp đùi và cái mông nây nẩy như bằng cao su. Chàng coi kỹ chiếc dù cột vào mình, và đưa tay, thử nắm cái chuôi giật cho quen. Không khéo dù bị vướng không xòe được thì chết!
Nhưng còn chiếc dù thứ hai và biết đâu cây dù cấp cứu này cũng bị kẹt? Thì chết chứ sao! Chết như vậy sẽ êm ru, hơn là chết trước đội hành quyết của địch. Vì một khi Văn Bình bị bắt, chàng sẽ bị tra tấn, bị đưa ra tòa, và lãnh án do p và hắn bầy kế bắt Văn Bình nhưng chính Bêrếp và hắn mới là nạn nhân. Văn Bình đã tương kế tựu kế lừa phỉnh sở Phản gián và ty R.U. như bọn học trò con nít.
Phạm Linh nghiến răng ken két như muốn cho máu ở nướu trào ra để pha loãng cơn tức. Sau đó, hắn thở dài nói với Xilốp. Cả hai đứng thần người bên xe Zis. Hồi lâu, Xilốp mới tỉnh mộng, hấp tấp quay ra máy vô tuyến, miệng dặn vói Phạm Linh:
-Chỉ còn một cách: chận bắt xe Chaika trước khi chúng đến Đồ Sơn.
-Đồng chí nói đúng. Tôi có cảm tưởng câu chuyện giữa Văn Bình và Tú Trâm là một thủ đoạn của địch. Có thể địch đã lập kế lừa chúng ta. Chỉ có cách thộp cổ Tú Trâm mới tìm ra manh mối.
Trong khi Xilốp liên lạc với Hải Dương và Hải Phòng, hạ lệnh các toán hành động đặc biệt chận bắt kỳ được chiếc Chaika khả nghi, Phạm Linh nói chuyện với trụ sở trung ương Hà nội:
-Alô, thường trực hả? Tôi đây, Phạm Linh đây, lập tức gọi điện thoại cho K.4. Bảo hắn là tôi muốn gặp hắn nội đêm nay, không thể hoãn đến mai. Tôi về Sở ngay. Bảo hắn ấn định giờ hẹn. Chỗ hẹn, hắn đã biết trước.
Như kẻ đưa đám, mặt buồn rười rượi, Phạm Linh lái xe cho Xilốp trở về Hà nội.
*
Trên đường Hải Dương, Hải Phòng cuộc săn người toát bồ hôi lạnh bắt đầu.
Vừa ra khỏi Cầu Đuống, chiếc Chaika lồng lên băng mình trong đêm vắng.
Lái xe một mình ban đêm dưới trời trăng lạnh lẽo, Tú Trâm cảm thấy lạnh lẽo thêm. Nàng mới giã từ Văn Bình mà nàng tưởng như từ lâu lắm. Trong nhiều tháng sống cuộc đời bấp bênh, lo ngại, luôn luôn cọ sát với hiểm nguy, chưa bao giờ Tú Trâm lại xốn xang như bây giờ. Lát nữa nàng sẽ rời đất liền, xuống một con tầu bí mật. Và ước gì trên con tầu lạ, nàgn sẽ gặp Văn Bình, chàng điệp viên có con mắt sâu đa tình, cái miệng dễ thương nhưng ngạo mạn, và nhất là tấm thân rắn chắc, gợi cảm, có thể làm rung chuyển trái tim của người đàn bà khó tính nhất, và không người đàn bà nào quên nổi sau một đêm hẹn hò say sưa…
Quen vâng lời, nàng không vặn hỏi tại sao kế hoạch mang Bilatốp đi vào phút chót lại thay đổi. Nàng đã biết nghề điệp báo là nghề kỳ quặc, một nghề mà nhiều khi tay phải làm, tay trái không hay. Nàng cũng chưa tìm ra lý do nàng gia nhập Phong Trào Yêu nước và lãnh nhiệm vụ công tác gay go ở hậu địch. Bất giác nàng nhớ đến những người đàn bà cùng làm công tác điệp báo như nàng. Nàng lẩm bẩm: ‘’Hai mẹ con kỹ nữ Mata Hari không nổi danh một phần tư thế kỷ ư? À, còn người đàn bà bí mật mà làng do thám thường gọi là Cô Đốc nữa (1)
(1) Người đàn bà này có thật, và rất được giới do thám quốc tế mến trọng. Những nguyên tắc về hoạt động gián điệp do nàng đề ra hiện còn được áp dụng trong mọi tổ chức điệp báo trên thế giới. Xin đọc ‘’Gián điệp quốc tế ‘’ đã xuất bản.
Nghĩ đến đó Tú Trâm mỉm cười một mình. Nàng vừa tự so sánh với người đàn bà tuyệt luân được giới gián điệp từ 40 năm nay gọi một cách nể vì là Cô Đốc, tên thật là Elisabeth Sahraagmuller, người lập ra trường do thám đầu tiên trước trận đại chiến 1914 – 18. Cô Đốc không còn ở trên cõi trần này nữa nhưng trước khi vĩnh biệt nàng đã lưu lại cho lũ hậu sinh gián điệp biết bao nhiêu nguyên tắc hành động sáng suốt.
Bỗng nàng giật bắn mình. Một trong những lời căn dặn của Cô Đốc về quy tắc hành nghề gián điệp là bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu đều phải kiểm soát cẩn thận xem có bị đối phương theo dõi hay không. Tấm kính hậu trong xe được để vào vị trí lái đêm nên nàng không thấy rõ phía sau. Nàng liền dùng ngón tay kéo xuống vị trí lái ngày. Và bồ hôi ướt đầm gáy nàng.
Xa xa nổi bật hai lùm sáng to lớn. Lùm sáng của đèn pha xe hơi. Nàng bị rượt đuổi? Không có lý. Hay là xe của Văn Bình và Bilatốp? Nàng cũng không biết nữa. Nàng đâm ra lo sợ, một cảm giác lạ lùng, khó hiểu chẹn ngang cổ họng khiến nàng tức thở.
Nàng xả thêm tốc lực. Chiếc Chaika chồm lên phía trước. Sau lưng, hai lùm sáng đèn pha phóng đến gần hơn. Nàng dán mắt vào kính hậu, trống ngực đập thình thịch. Chiếc Chaika vừa đến một khúc rẽ hiểm nghèo. Xẹt, xẹt, tay bánh của nàng ôm ‘’cua‘’ hơi gắt, vỏ lốp cao xu quẹt mạnh mặt đường nhựa, toàn chiếc xe bay bổng lên không trong một tích tắc đồng hồ. Bao tử của Tú Trâm dội lên dằn xuống như thể nàng đang ngồi trong máy bay từ trên cao rớt xuống  ‘’lỗ trống không khí‘’.
Nàng quẹo gấp, chiếc xe đi sau cũng quẹo gấp. Nàng phóng nhanh, xe sau cũng phóng nhanh. Thôi chết. Nàng đã bị lộ. Đoàn xe công an sẽ ập đến trong khoảnh khắc, nàng sẽ bị còng tay như con vật và bị điệu về Hà nội hành tội. Một liều, ba bảy cũng liều. Nàng sẽ không khai cho Văn Bình… Nhưng liệu nàng có đủ can đảm để ngậm miệng được mãi không? Sức người chỉ có hạn. Nàng đã nghe nói đến những hình phạt công an thường áp dụng để tìm ra sự thật. Rồi nàng đến phải khai mất thôi! Nhưng khai ra ai bây giờ? Nàng không thể khai cho ai vì thật ra ngoài Hồ Liêm, nàng mới biết bằng xương bằng thịt một mình Văn Bình, và sự quen thuộc này cũng chỉ xảy ra từ một hai ngày nay. Văn Bình ở đâu? Nàng không biết. Tổ chức của Phong Trào ra sao, nàng cũng không biết.
Chiếc xe rượt đuổi chỉ còn cách nàng 100 thước. Ánh trăng nhòa nhoạt trong bóng đêm đầy sương, khiến lùm đèn pha đã sáng càng sáng dữ. Và khoảng cách càng gần tốc độ của xe sau càng gia tăng. Nhìn kính chiếu hậu nàng không biết rõ xe hiệu gì nhưng căn cứ vào ánh đèn sáng quắc, căn cứ vào sườn xe đồ sộ và tốc độ nuốt đường của nó, nàng tin chắc là Zil III hoặc Zis.
Xe sau nháy tắt đèn pha ra hiệu, Tú Trâm chột dạ. Chúng nó nháy đèn giả vờ xin vượt để tìm cách qua khỏi rồi ép mình đây! Không, mình không ngu dại đến độ ấy. Không, mình quyết không chịu sa vào tay chúng. Nếu phải chết, mình sẽ chết trong vinh dự!
Nghĩ vậy, Tú Trâm mắm môi đạp lút chân ga. Những mã lực cuối cùng còn bị nhốt trong chiếc Chaika hùng mạnh được thả tung, đẩy bốn bánh vun vút trên con đường nhựa. Tú Trâm cảm thấy kiêu hãnh. Dẫu sao nàng cũng bỏ rơi được xe công an.
Xe nàng đã ra khỏi Hải Dương lúc nào không biết. Hải Dương ngày nay khác hẳn Hải Dương mấy năm trước. Phố sá nghèo nàn, không còn hàng quán mở đón khách chơi đêm nữa. Hải Dương đã vùi mình vào cơn ngủ mê mệt sau mười mấy giờ đồng hồ lam lũ, nhọc nhằn. Chiếc Chaika băng qua phố chính làm cát sỏi bay lên ào ào. Vọng gác thường trực của công an cuối thị trấn cũng không rộn rịp như thường lệ. Cây cần gỗ chặn ngang thị xã để xét giấy không hiểu đã được rút lên từ khi nào. Tú Trâm lái vút qua.
Chiếc Zis công an không ép xe nàng vào lề như nàng trù tính. Một tích tắc sau, chiếc xe khổng lồ vượt qua xe nàng, rồi biến vào màn đêm thăm thẳm. Nàng cảm thấy ngượng ngùng. Thì ra trong khi quá sợ hãi, nàng đã tự kỷ ám thị đinh ninh bị công an theo dõi. Tú Trâm thở phào. Nàng chưa bị bại lộ! Nàng đánh diêm châm điếu thuốc cuối cùng trong bao thuốc mà Văn Bình để lại.
Chạy khỏi thành phố Hải Dương độ 20 cây số, bỗng nhiên nàng thấy hai vừng đèn pha khác trong kính chiếu hậu. Chắc xe của cố vấn sô viết xuống Đồ Sơn đổi gió? Nhưng không có lý. Không có lý họ ra bãi biển giữa mùa rét ngọt. Nàng rùng mình.
Ngọn gió cuối đông lạnh buốt làm nàng chịu không quen đã trở nên lạnh buốt kinh khủng. Qua ô kính mở rộng, từng đợt lạnh ùa vào xe như những làn dao li ti cắt da mặt và da tay của nàng. Hàm răng nhỏ xíu và bóng loáng của nàng đập vào nhau cầm cập. Tay nàng ôm vô lăng dường như rời rã và tê dại. Nàng bỗng tiếc không mang theo đôi găng lông trừu ấm áp.
Hai luồng pha sáng quắc phía sau gọi nàng quay về thực tại. Luồng pha này không khác luồng pha hồi nãy. Luồng pha của xe chạy đêm trên đường Hải Phòng mà nàng thường gặp. Tại sao nàng run rẩy? Lần này nàng đã truy nguyên được cơn lạnh đang xâm chiếm cơ thể nàng, cơn lạnh không do thời tiết mà là từ tâm hồn tiết ra, một cơn lạnh mênh mông như biển cả, cơn lạnh trùm lấp tạng phủ của người sắp bị đe dọa đến tính mạng.
Giác quan thứ sáu báo cho nàng biết nguy hiểm gần kề. Chiếc xe phía sau phóng như điên trên con đường thẳng tắp. Như máy, Tú Trâm tống thêm ga xăng, mắt không rời cây kim tốc độ. 80…, 100, 120 cây kim ngừng lại ở số 2 như rụt rè, như không muốn nhích thêm nữa. Tại sao? Không lẽ cây kim khuyên nàng đừng tiếp tục phóng nhanh.
120… 125… Tú Trâm đạp mạnh thêm. 135… 145… 150… Chưa bao giờ nàng lái nhanh bằng hôm nay. Và chưa bao giờ nàng có can đảm đến thí mạng như hôm nay. Nhưng nàng chạy nhanh chừng nào, xe sau lại dính sát nàng chừng nấy.
Luồng đèn pha rọi sáng trưng cốp xe Chaika. Ánh vàng dội thẳng vào vào kiếng hậu làm Tú Trâm không nhìn thấy phía trước. Nàng cố gắng bám chặt tay lái, nhưng không hiểu sao khi ấy hai tay nàng không chịu tuân theo mệnh lệnh của thần kinh hệ nữa.
Nàng nghe rõ tiếng máu chạy rồn rập hai bên thái dương trước khi tông lên óc. Mí mắt nàng nặng chĩu dần, nặng chĩu mãi ; một ngón tay vô hình đè bẹp tròng mắt nàng. Rồi thốt nhiên, như được một cánh chim thần bí đưa lùi về quá khứ, nàng nhớ lại những ngày niên thiếu, những phút ôm ấp tấm thân cường tráng và đê mê của Văn Bình, và của những chàng trai cuồng loạn khác nàng đã gặp trong cuộc đời giông bão. Tiếng rồn rập trong óc nổ bùng thành tiếng nổ long trời lở đất. Tú Trâm có cảm giác như mọi vật quanh nàng đang nổ tung thành cát bụi. Nàng quên nàng đang lái xe với một tốc độ tự vận 150 cây số một giờ trên một chặng đường nguy hiểm. Nàng quên hẳn chiếc xe của công an Hải Dương sắp chạm đuôi xe Chaika vô tội của Bilatốp. Nàng quên hẳn mọi sự trên đời. Dần dần quên luôn Văn Bình, quên luôn cái đêm nàng được tận hưởng lạc thú xác thịt của đời người.
Tim nàng đập mạnh rồi chậm lại. Tim nàng ngưng đập. Hơi thở nàng không làm phập phồng cánh mũi khả ái và bộ ngực thẳng vuốt, đầy khêu gợi nữa. Tú Trâm đã sang thế giới bên kia.
Trong loáng mắt, chiếc xe không có người lái nghiêng sang bên, rồi cứ thế phăng phăng xuống ruộng. Phía trước không có cây cối cũng không có cột đèn. Thửa ruộng này không chứa đầy nước. Những cây lúa vừa cắt, còn nguyên gốc rạ nhọn hoắt. Chiếc Chaika giận dữ lướt như xe trượt băng qua một diện tích dài trên 200 thước mà không gặp chướng ngại vật.
Thì đây chướng ngại vật cuối cùng đã hiện ra sừng sững: một ngôi miếu cổ bỏ hoang, trơ vơ giữa đồng trống. Chiếc Chaika húc vào bức tường đá xanh rắn chắc. Những tảng đá lớn đổ xụp. Mất trớn, chiếc Chaika lộn lại một vòng, bốn bánh ngửa lên trời.
Khi toán công an viên võ trang đến chỗ xảy ra tai nạn thì lốp xe còn quay như cánh quạt. Xăng đổ tung tóe song xe hơi không bị phát hỏa, kể cũng sự lạ. Nhưng lạ nhất là thi thể của Tú Trâm. Nàng sóng soài trên đệm xe, toàn thân không bị một vết thương mặc dầu kính xe vỡ vụn và đầu máy bẹp rúm.
Viên trưởng ty công an Hải Dương chỉ huy cuộc săn người hi hữu rọi đèn bấm cực mạnh vào cửa trước, trong khi thuộc viên lúi húi khiêng xác Tú Trâm ra khỏi xe. Miệng nàng còn nhoẻn nụ cười lưu luyến. Có lẽ ý nghĩ cuối cùng của nàng đã giành cho chàng gián điệp xinh trai.
Tuy vây viên công an trưởng không dám cười mặc dầu hắn đã đạt được mục tiêu mà thượng cấp giao phó. Vì trong mật lệnh, hắn phải chận bắt bằng được chiếc Chaika chở Tú Trâm và nhà bác học Bilatốp. Nhưng Văn Bình cũng như Bilatốp đều tuyệt tích.
Và cũng như Văn Bình, câu hỏi bối rối của viên công an trưởng là: Bilatốp ở đâu? Ai đã bắt cóc Bilatốp?
*
Ai đã bắt cóc Bilatốp?
Ngồi bên cái dĩa đựng đầy mẩu thuốc cháy dở, Văn Bình và Triệu Dung nặn óc cố tìm giải đáp.
Bilatốp bị kẻ lạ mặt bắt cóc hay chính hắn tự tháo cũi sổ lồng? Đó mới là câu hỏi nan giải. Bilatốp đã bị trói chặt, Văn Bình không phải là tập sự viên trong nghề trói. Phòng Tú Trâm trong bin đinh Quan Thánh không mang dấu vết của một cuộc xung đột, dẫu là xung đột nhỏ. Thế tất một bàn tay bí mật thứ ba đã dúng vào: giả thuyết công an cộng sản và Bilatốp tự cứu phải gạt sang bên.
Bàn tay thứ ba là ai?
Chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường dõng dạc điểm giờ. Triệu Dung thở dài :
-Thế là Tú Trâm đã bị…
Văn Bình cũng thở dài :
-Thật là vạn bất đắc dĩ. Trước khi làm, tôi đã nghĩ kỹ. Thoạt tiên tôi định bảo vệ nàng, nhưng xét cho cùng không hy sinh nàng không được. Muốn mang Bilatốp đi trót lọt không còn kế nào hơn kế điệu hổ ly sơn. Mình phải dùng Tú Trâm làm miếng mỡ nhử miệng mèo. Đánh cuộc mười ăn một, nhất định bọn chúng phải rượt theo, và không phải bọn công an thường rượt theo mà là một trong những tay tổ phản gián cộng sản. Lao vào vũng nhớt của ta, xe họ tất bị lật úp.
Triệu Dung hỏi vặn :
-Anh có chắc họ bị lật xe không ?
-Chắc một trăm phần trăm. Kinh nghiệm cho biết chưa xe nào chạy trên 50 cây số một giờ mà không lâm nạn với vũng nhớt 200 lít to lớn ấy. Huống hồ ở đây là xe công an. Xe công an săn người có khi nào chạy dưới 100, hử anh ?
-Nhưng còn Tú Trâm. Anh có tin chắc nàng chết trước khi bị bắt không ?
-Chắc lắm anh ạ.
-Nhỡ ra ?
-Nhỡ thế nào được ? Tôi đã tính sát nút. Họ chỉ ra lệnh đuổi bắt xe Chaika sau khi chiếc xe đầu tiên của họ ngộ nạn gần cầu Đuống. Lúc ấy, Tú Trâm đã qua khỏi Hải Dương. Thuốc độc được tẩm trong thuốc lá cho nàng hút có một tác động khá mạnh. Nàng sẽ tắt thở trước khi sa vào tay họ. Nghĩa là trước khi xe bị tai nạn Tú Trâm đã hết thở, và nàng không còn biết đau đớn nữa.
-Anh vẫn tàn nhẫn như dạo nào còn ở Âu Châu. Dầu sao tôi vẫn còn một chút, một chút thôi, tình cảm với Tú Trâm.
-Có lẽ tôi nói câu ấy mới đúng. Chắc anh chưa biết Tú Trâm yêu tôi. Nàng yêu t&ân vệ bắt.
-Ông khéo nói quá. Thưa ông, tên tôi là Liễu, Thúy Liễu. Chồng tôi là nhân vật cao cấp của Đảng. Người chỉ huy dân vệ ở đây là đàn em của nhà tôi, nếu chẳng may ông bị bắt, tôi có thể gỡ giùm cho ông.
-Ông … đang ở nhà ?
-Nhà tôi đi vắng luôn. Hiện nhà tôi đang công tác ở ngoại quốc. Tôi ở nhà có một mình.
Văn Bình đã hiểu nghĩa chữ ‘’một mình’’ mà Thúy Liễu vừa dùng. Trước khi lên đường, Văn Bình được ông Hoàng dặn kỹ về việc tiếp xúc với Thúy Liễu. Nàng thuộc thành phần trí thức bị một cán bộ công nông cao cấp ép làm vợ, nên tuy tấm thân ở Bắc mà lòng hướng vào Nam Nàng được Sở dùng làm trạm chiêu đãi điệp viên hoạt động trong vùng Hà Nội. Văn Bình thầm nghĩ không hiểu ông Hoàng già cằn kia có duyên đến bậc nào mà kết nạp được toàn gái đẹp. Nếu Thúy Liễu mặc áo suya ra, đeo bông tai kim cương óng ánh, ngự xe Hoa kỳ kiểu mới, dạo quanh Sàigòn ai cũng lầm nàng là minh tinh điện ảnh Lý Lệ Hoa cải trang người Việt. Thúy Liễu kéo ghế :
-Mời ông ngồi, kìa, sao ông đứng mãi thế. Ở ngoài vào chắc ông lạnh lắm. À, thưa quý danh là gì ?
-Văn Bình.
-Tôi nghe các anh ca tụng ông nhiều, nhưng chưa được gặp. Thật hân hạnh cho tôi.
Rồi nàng chỉ cái cặp chàng cầm tay :
-Điện đài phải không ông ?
-Dạ phải. Sao bà biết ?
-Z.61 ở Hà Nội dặn tôi hỏi ông có mang thêm máy cho anh em không ? Điện đài ở đây ít quá, nhân viên thì quá đông, nên không đủ dùng.
-Lần này, tôi mang hai cái, một cái nhờ bà chuyển cho anh em.
Văn Bình nhìn chung quanh nhà :
-Nói chuyện có hề gì không ?
Thiếu phụ đáp :
-Sau khi ông đến tôi đã thả chó. Trại này rộng gần một mẫu, hai con chó lại dữ như cọp không ai dám lại gần. Vả lại ai cũng nể nhà tôi. Nhà tôi là ủy viên trong Trung ương Đảng bộ.
Sực nghĩ ra thiếu phụ hỏi :
-Ông nhảy dù gần đây không ?
-Thưa, nhảy cao trên 6 cây số. Thoạt tiên tôi định nhảy thấp vì chắc có mây che, nhưng đến khi qua Hà Đông trời chuyển tốt nên đành phải nhảy cao.
Thiếu phụ nhăn mặt một cách đáng yêu :
-Nhảy cao như vậy không dễ gì ông nhỉ ?
Văn Bình cũng nhăn mặt :
-Vâng, làm nghề này cả tôi lẫn bà đều không dễ.
Thiếu phụ im lặng không đáp. Một lát sau nàng nói :
-Xin lỗi ông, mải nói chuyện tôi quên khuấy. Ông thức suốt đêm chắc mệt. Tôi đã dọn sẵn giường ông nghỉ. Giường này, dĩ nhiên là không được êm bằng giường Sàigòn.
Nàng chỉ cho Văn Bình cái giường gỗ trải chiếu hoa cạp điều ở phòng ngủ kế bên. Văn Bình bước vào trước, nàng theo sau khép cửa lại, miệng nói :
-Cần gì ông cứ gọi, tôi ngồi ngoài này. Đến trưa mới có tầu lên Hà Nội.
-Cám ơn bà. Mấy giờ tôi sẽ gặp Z.61 ?
-Z.61 dặn chập choạng tối ông hãy đến. Đúng sáu rưỡi. Dường như Z.61 bị lộ.
Văn Bình dật nẩy như lò so :
-Z.61 bị lộ à ? Tại sao còn hẹn tôi đến ?
-Tôi không được rõ. Tôi chỉ là đầu mối liên lạc với Z.61 thôi. Đành rằng Tổ chức rộng lớn, gồm khá đông người nhưng tôi chỉ biết có Z.61. Hoạt động trong vùng địch mà, ông lạ gì ? Tôi nghe nói công tác này có tính cách quan hệ và cấp bách, dầu sao ông cũng đến hôm nay cho.
-Z.61 sợ bị bắt ?
-Có lẽ thế, theo lệ thường Z.61 xuống tận đây gặp tôi, nhưng vừa rồi lại liên lạc bằng thủ tục cấp cứu và trong mệnh lệnh liên lạc Z.61 yêu cầu tôi nhắc ông đừng lỡ hẹn dầu có bị trở ngại.
-Bà biết công tác này ra sao không ?
-Không. Chỉ Z.61 và một người nữa biết.
-Người này là ai ?
-Trong những phiên họp của tổ chức, thường thường người này đến chủ tọa, song đeo mặt nạ. Anh em thường gọi là Anh Cả, hoặc Z.30.
-Vậy tôi lưu lại đây đến trưa.
-Hân hạnh. Tôi đã làm ít món ăn mời ông sơi. Ông đi từ đêm hẳn phải đói.
Thúy Liễu bưng vào phòng chàng một cái khay nhỏ khói bốc ngào ngạt. Một bữa cơm thuần túy Bắc Việt và sang trọng như hồi tiền chiến. Đĩa cơm gạo tám thơm phức, bát giả cầy, đĩa thịt đông dưa chua, đĩa cốm vòng…
Vừa ăn, Văn Bình vừa hỏi :
-Dạo này bà còn mua được thịt ư ?
-Vẫn mua được nhưng giá cao lắm, tôi có ưu thế với Mậu Dịch nên mua thực phẩm dễ hơn mọi người.
-Thịt đông bà nấu ngon quá !
-Ông quá khen. Ngoài này trời lạnh luôn song không được ăn thịt đông quanh năm như ở trong Nam. Làm gì có tủ lạnh, thưa ông ? À, nghe nói trong ấy rạp chiếu bóng có máy điều hòa không khí còn mát hơn Chapa nữa phải không ?
-Phải.
-Sưóng nhỉ!
Giọng nói và điệu bộ tươi vui của thiếu phụ gây cho Văn Bình cái cảm tưởng hai người đang nói chuyện tầm phào, giữa cảnh nhàn hạ. Thật thế, nàng hầu như quên hẳn Văn Bình vừa nhảy dù xuống đất địch và chính mình đang giữ một vai trò khá trọng hệ ở hậu địch, từng phút từng giây cọ sát với thần Chết.
Đột nhiên nàng lặng thinh. Dưới ánh đèn dầu, Thúy Liễu đẹp một cách dị thường. Có lẽ nàng đang nghĩ tới đô thành Sàigòn, chìm ngập dưới ánh điện nê ông rực rỡ, những tiệm cơm thơm mùi nước hoa và da thịt đàn bà quí phái, những đêm trăng huyền ảo trên bãi cát Vũng Tàu, trong rừng Đà Lạt. Nàng tượng trưng cho lớp đàn bà lý tưởng của thời đại hỏa tiễn và kích động nhạc, nghĩa là không trẻ không già, vẫn còn cái nhí nhảnh lả lơi, cái thẹn thò đáng yêu của tuổi đôi mươi, lại có tấm thân nẩy nở đến cao độ, đầy đủ kinh nghiệm về ân ái.
Nàng vừa vặn nhỏ ngọn đèn dầu:
-Mời ông đi nghỉ.
Văn Bình ngất ngây như người say rượu. Chàng muốn ôm nàng vào lòng để hôn sống mũi dọc dừa và đôi mắt mở rộng, song nàng đã lặng lẽ quay ra, khép cửa lại. Trong bóng tối, chàng nghe nàng thở dài. Văn Bình quay mặt vào vách cố ngủ.
Gần trưa, chuyến xe lửa Nam Định - Hà Nội ghé ga Văn Điển. Văn Bình trà trộn vào đám hành khách vội vã, ra ghi sê lấy vé lên Hà Nội. Ra cửa, chàng dừng lại một phút, trình giấy cho hai công an viên đeo súng, cặp mắt cú vọ.
12g15, tàu chuyển bánh. Văn Điển là ga cuối cùng trên đường tới thủ đô Hà Nội. Văn Bình – Đặng Thái Trinh chọn một góc đông người trong toa hạng ba rồi thu hình ngồi hút thuốc. Trong khói thuốc Thăng Long, chàng tưởng như ngửi thấy mùi thơm của tóc Thúy Liễu. Sáng sớm, 5 giờ sáng, lúc tỉnh dậy nhìn qua khe cửa chàng thấy Thúy Liễu ngồi một mình khâu vá dưới đèn. Nghe động, nàng buông kim hỏi:
-Anh đã dậy rồi à?
Văn Bình bàng hoàng. Nàng không còn gọi là ông khách sáo như hồi đêm nưa. Chợt nhớ ra, nàng đỏ bừng hai má. Nàng bưng vào đĩa xôi điểm tâm nóng hổi và gói thuốc Thăng Long thứ tốt, có ngôi sao đỏ. Như vợ chiều chồng, nàng bóc gói thuốc rút một điếu, đưa tận tay cho chàng:
-Mời bà.
Nàng lắc đầu:
-Thưa ông, em không hút.
Từ sáng đến trưa, chàng hút gần hai gói thuốc Thăng Long. Lúc chàng sửa soạn hành trang, Thúy Liễu đứng thần người bên cửa, trong mắt hiện đầy vẻ luyến tiếc. Văn Bình vội bước ra sân, vì sợ ở lâu thêm nữa sẽ ôm ghì lấy nàng.
Xe lửa đã chạy khỏi khu vực Văn Điển. Gió lạnh buổi sáng quạt nhè nhẹ vào mặt chàng. Một công an viên đồng phục ka ki xanh Nam Định đến từng toa xét giấy. Hắn dán cặp mắt cận thị vào chứng minh thư của Văn Bình, nhưng chỉ một phút sau trả lại cho chàng, kèm theo tiếng chào thân mật.
Chợt có tiếng chân chạy thình thịch trên mái tầu xen lẫn tiếng kêu bắt và tiếng súng nổ. Một lát sau, công an điệu vào một thanh niên mặc đồ nâu cũ bạc.
Người lạ  không có giấy tờ tùy thân, toan tẩu thoát bằng cách truyền lên mái. Hắn bị còng tay vào một xó. Theo lời nhân viên công an, hắn là gián điệp của Miền Nam. Văn Bình muốn hét lên thật to. Trời ơi! Nếu các đồng chí công an biết ông cán bộ tỉnh ủy ngồi lù lù trước mặt là điệp viên chính cống và cao cấp của Miền Nam thì chắc sẽ chết ngất!
Tầu đến ngoại ô Cống Vọng. Từ xa, Văn Bình đã ngó thấy những cột thép sơn đen chùi chũi vươn cao in hình thù quái đản trên nền trời xanh tím một ngày cuối đông rét mướt. Tầu từ từ hãm lại. Bệnh viện Bạch Mai nằm thưỡn bên đường sắt, với bức tường xi măng mới quét màu vàng chói mắt và cột cờ cao ngất phía trên phấp phới lá cờ to bằng cái chiếu gắn ngôi sao vàng năm cánh. Kế cận là nghĩa trang quân đội viễn chinh Pháp với những hàng chữ thập trắng toát, rồi Ngã Tư Sở, Kim Liên.
Đến một cổng xe lửa không rào gác Văn Bình nhảy xuống. Chàng bách bộ một quãng ngắn rồi trèo lên xích lô bảo đạp đến khách sạn Hòa Bình đối diện nhà ga Hàng Cỏ. Lữ quán này trước là của người Pháp sau hiệp định Giơ neong giọng hằn học.
Triệu Dung nhỏm dậy đi đi lại lại trong phòng. Văn Bình tắt máy thâu thanh. Căn phòng lại chìm vào im lặng hoàn toàn. Triệu Dung lẩm bẩm câu nói kỳ quặc bằng tiếng Đức. Bỗng chàng đứng phắt lại. Một tia chớp lóe sáng trong đầu chàng. Không lẽ một người đa mưu túc trí như Nguyễn Đoàn lại chỉ dặn xuông như vậy ? Hẳn là… Triệu Dung reo lên :
-Có lẽ anh đoán đúng. Nhất định là Đoàn muốn dùng câu nói này để trao lại một mật hiệu, và cũng để bảo vệ mật hiệu nên anh ấy đã gieo mình từ lầu bệnh viện Phủ Doãn xuống sân gạch tự vận. Có lẽ Đoàn muốn chúng mình lưu ý đến Đinh Phúc.
Văn Bình giật mình, hỏi, lại :
-Đinh Phúc, Đinh Phúc nào ? Tại sao anh lại đoán rằng Đoàn muốn liên tưởng đến Đinh Phúc ?
-Đinh Phúc là một nhân viên trong Phong Trào. Sở dĩ nghe tiếng Der Polizei tôi liên tưởng đến Đinh Phúc vì có tiếng Der có chữ D ở đầu như Đinh, còn tiếng Polizei thì có P như Phúc.
-Tại sao Đoàn phải dùng tiếng Đức ? Dùng một câu tiếng Pháp có chữ D và P đi đầu dễ hiểu hơn không vì dẫu sao Đoàn cũng thạo tiếng Pháp hơn tiếng Đức.
Triệu Dung xua tay :
-Không anh ạ. Đinh Phúc rất giỏi tiếng Đức. Và cũng vì muốn ám chỉ Đinh Phúc với tài nói tiếng Đức của hắn nên Đoàn mới dùng tiếng Đức.
-Đinh Phúc đáng nghi không ?
-Cũng đáng nghi vì từ trước đến nay chưa bao giờ tôi tin hắn. Hắn là điệp viên đôi, vừa làm cho ta, vừa làm cho Phòng Nhì của Pháp. Từ trước đến nay, công việc của hắn chưa có gì trục trặc. Tôi chưa rõ hắn thật bụng hoàn toàn với ta hay với Pháp nên chưa giao công tác trực tiếp và quan trọng cho hắn.
-Đinh Phúc quen Đoàn chứ ?
-Quen, vì cùng nằm trong phân tổ với Đoàn.
-Đinh Phúc biết Tú Trâm không ?
Câu hỏi của Văn Bình như quả tạ trăm cân giáng vào đầu Triệu Dung. Chàng tối mắt tối mũi lạng người sang bên. Sự thật dễ hiểu như vậy mà chàng cứ bơi ra bơi vào mãi ! Văn Bình hỏi dồn :
-Sao anh ? Hai người biết nhau không ?
-Có, anh ạ. Cả Đinh Phúc lẫn Tú Trâm đều tốt nghiệp khóa Nga ngữ ở Mạc tư khoa.
-Nhà hắn ở đâu ?
Triệu Dung tiến lại bàn viết, rút ngăn kéo ra một tấm bản đồ Hà nội rộng lớn, trải trên sàn gác. Chàng lấy bút chì đỏ gạch dấu chéo ở khu Kim Liên : nhà của Đinh Phúc.
Một phút sau, Văn Bình nhảy ba bậc xuống thang gác. Chiếc Tatra sơn đen của bác sĩ Triệu Dung còn nóng máy, chìa khóa nằm nguyên ở công tắc. Văn Bình mở máy lái êm ru ra cổng. Chiếc xe rẽ sang Cửa Đông xuống Hàng Bông, ra vườn hoa Cửa Nam, rồi thẳng đường Hàng Lọng phóng tít xuống phía Nam. Thủ đô Hà nội đi ngủ từ nãy. Đã quá 1 giờ đêm. Những buổi họp chánh trị và mét tinh hoan hô đả đảo thường lệ đã giải tán trước nửa đêm. Giờ này là giờ của tội lỗi, nếu không là giờ của những cuộc đấu trí, đấu sức giữa các tổ chức gián điệp quốc tế.
Văn Bình đậu xe gần con đường nhỏ dẫn vào xóm Kim Liên. Nhà của Đinh Phúc cách đó khoảng 200 thước. Chàng lội bộ đi qua một ngôi biệt thự rộng mênh mông. Dưới ánh trăng xuông, tường vôi loang lổ, mốc meo, dường như từ bao năm nay chưa được sơn quét lại. Một cái sân rộng chạy sâu vào bên trong, sau hàng rào gạch cao bằng đầu người. Cây cối um tùm, trong nhà không nhìn rõ ngoài đường vì thân cổ thụ lớn đến hai người ôm không xuể.
Chàng đi hết bề dài hàng rào, hai mắt đảo vào trong. Không một ánh đèn. Chàng không tin Đinh Phúc đánh tháo Bilatốp rồi mang về đây. Chàng chỉ hy vọng hắn lưu lại một vài vết tích hoặc giấy tờ khả nghi dẫn chàng tới mục đích.
Đi được một quãng ngắn, trông trước trông sau không có ai chàng liền nép vào bên đường, quay lộn lại. Ánh điện Kim Liên ban đêm hầu như không có. Tít xa, gần trạm tầu điện mới có một cột điện với lùm sáng nhỏ nhoi, yếu ớt, chìm dưới ánh trăng nhợt nhạt. Ngọn gió ban đêm lành lạnh thổi qua rặng cây đen, giật nốt những cái lá khô bướng bỉnh chưa chịu rơi rụng.
Đến gần cổng, Văn Bình dừng lại một phút nghe động tĩnh. Cổng này kiểu xưa, chật hẹp, cây sắt đâm tua tủa lên trên. Triệu Dung cho biết biệt thự của Đinh Phúc có hai con bẹt-giê dữ tợn, chuyên cắn cổ người lạ.
Văn Bình hươi cánh tay thử chiều gió. Cũng may là gió thổi ngược nên hai con chó chưa đánh hơi ra chàng. Chàng lại sát cánh cổng sắt đồ sộ, cúi thấp, móc trong túi quần ra cái ná cao su thô sơ nhưng thật chắc. Bắn súng lục đã tài, chàng còn bắn cung và ná cao su tài hơn. Cần bịt mõm bọn chó dữ tợn từ xa, chàng hay dùng cây ná bằng nhôm nhẹ. Bắn chó bằng ná cũng là một môn được dạy trong trường do thám ở Minnesota, và trường phản gián ở Fort Halabird (1)
(1) Hai trường này ở Mỹ. Trường Phản gián Fort Halabird ở tiểu bang Baltimore.
Chàng tra vào bọc ná một viên đạn nhỏ bằng thép, rút trong vòng bi xe hơi. Cách xa 20 thước, một viên đạn cỡ này không giết chết nhưng cũng đủ làm chó bất tỉnh trong chốc lát. Như vậy vừa nhanh lại vừa nhân đạo hơn. Lại vừa bảo vệ được bí mật. Sáng hôm sau, chủ nhân sẽ không biết biệt thự bị lục xét, và cặp chó giữ nhà bị bắn ngã. Tiện hơn là dùng súng. Với  súng gắn ống hãm thanh, trong nháy mắt hai con chó kia sẽ gục chết không kêu được một tiếng, nhưng như vậy sẽ để lại vết tích…
Văn Bình định thần nhìn qua khe cổng. Gió vẫn thổi hắt hàng rào. Văn Bình quỳ một chân lên cỏ, hệt như nhà lực sĩ thế vận trên vạch trắng sắp bung mình chạy đua trăm thước. Tay trái chàng nắm chặt cái chạc ba, tay phải chàng cầm cái bọc ná bằng da bò kéo giật về phía sau cho hai sợi dây cao su ô tô căng ra cực độ.
Chàng nhắm đầu con bẹt-giê lớn bằng con bê đang nằm dài trên bục phòng khách của biệt thự. Bắn trúng đầu, nó mới bất tỉnh, song nó lại quan đầu ra chỗ khác. Chàng lượm một viên sỏi nhỏ khẽ ném vào trong vườn. Như cái máy, con bẹt-giê đứng sững lên. Cơ hội chờ đợi đã đến, Văn Bình thả cái bọc đựng hòn bi thép ra, kêu phập một tiếng. Hòn bi bay vèo qua ô cửa sắt. Văn Bình thấy rõ con bẹt-giê bách chiến bách thắng loạng choạng một phút trên hành lang, sau khi bị bắn giữa trán. Rồi con chó ngã khuỵu. Im lặng. Im lặng hoàn toàn.
Sự im lặng này làm chàng e dè. Quái, Triệu Dung nói là Đinh Phúc nuôi hai con bẹt-giê, tại sao chàng mới thấy một ? Còn con kia đâu ?
Thời giờ gấp rút, chàng không được phép trù trừ nữa. Chàng luồn tay rút chốt, đoạn đẩy cổng. Cửa cổng mở vào bên trong. Chàng lách vào thì một khối thịt to lớn nhằm đầu chàng vụt lại như gió. Con bẹt-giê thứ hai.
Thoáng nghe gió rít bên tai, chàng đánh hơi ngay thấy biến. Chàng liền né sang bên rồi bổ nhào trên đất. Thân hình nặng trên một tạ của con chó khổng lồ phóng hụt qua đầu chàng. Nếu trúng đòn nó, ít nhất chàng đã bất tỉnh để rồi chỉ một vài tích tắc sau đó con bẹt-giê được huấn luyện tinh khôn sẽ cắn cổ chàng cho đến chết.
Hú vía ! Không dám khinh thường, chàng thu hình sát cổng, đợi đợt tấn công thứ hai của con bẹt-giê xung kích. Khác giống chó giữ nhà tầm thường, con bẹt-giê này không thèm sủa ran để báo chủ. Nó đứng dựng hai chân trước, cao lớn, dữ tợn, đuôi ve vẩy, dáng điệu bình tĩnh. Dường như nó đã quen với lối giết người này.
Nó không nhảy phóc vào yết hầu chàng mà lừ lừ bước một tới, mõm vếch lên, mũi thở phì phò. Cách Văn Bình 3 thước, nó dừng lại. Chàng thấy rõ chân sau nó co lại, đuôi nó rút cao. Chàng hít thật nhiều dưỡng khí vào buồng phổi làm cho các bắp thịt dãn ra, bụng thót lại, yên lặng chờ con chó sát nhân xô tới.
Thuở còn khóa sinh viên trường điệp báo, chàng đã học cách giết chó mà không dùng võ khí. Giết bằng hai tay không. Tương tự như cách chiến đấu bằng tay không mà binh sĩ thủy quân lục chiến mọi nước phải am tường. Vì vậy, chàng nhẩn nha đợi con chó ngoạm cổ.
Cái mõm đầy răng dài lê thê vừa đến gần, cánh tay phải như sắt của chàng đã hoành ra. Bị quất ngay mõm, con bẹt-giê ngã chửng vào cửa cổng ; trong lúc ấy Văn Bình đã rướn lên, tay trái bóp chặt mõm không cho nó kêu, tay phải chẹn cuống họng con chó bồ tượng. Một tiếng ằng ặc nho nhỏ vẳng ra. Toàn thân con bẹt-giê dần dần mềm nhũn.
Văn Bình phủi áo đứng dậy thản nhiên bước vào vườn như thể chủ nhà. Bên trong vẫn vắng lặng. Văn Bình đột nhập hành lang. Phần vì chàng dận giầy đế kếp, phần vì hành lang trải thảm chùi chân bằng vỏ dừa nên tiếng giầy của chàng không gây ra tiếng động.
Cửa chính vào phòng khách đeo lủng lẳng một ổ khóa Yale kếch sù. Đinh Phúc không ngụ ở đây nữa chăng ? Hay đó chỉ là cái khóa treo hờ để đánh lừa những kẻ tò mò ? Theo kinh nghiệm, chàng biết bên trong những biệt thự rộng lớn ít khi mọi cánh cửa đều đóng kín. Hoặc cửa trên lầu hoặc cửa dưới nhà mở hé, hoặc đóng cẩu thả. Quả chàng tính không sai : cánh cửa lá sách từ nhà bếp lên nhà trên vừa được đụng nhẹ đã mở ra.
Văn Bình đứng yên trong bóng tối nghe ngóng. Tứ bề phẳng như tờ. Văn Bình chắt lưỡi, lấy chân trái mở rộng cánh cửa. Chờ một phút sau, không thấy khả nghi chàng tiến vào. Gian phòng nửa tối nửa sáng, ánh trăng bên ngoài rọi vào những tia mờ, kh>
  • Chương II
  • Chương III
  • Chương IV
  • Chương IV (tt)
  • Chương V
  • Chương V (tt)
  • Chương VI
  • Chương VII
  • Chương VIII
  • Chương IX
  • Chương X
  • Chương XI
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
    !!!16010_1.htm!!!ông đủ cho chàng thấy rõ đồ đạc.
    Gian phòng khá rộng này ba phía có cửa sổ, còn một phía ăn thông với phòng khách bằng cánh cửa gỗ đặc. Đồ đạc có vẻ đơn sơ, chắc là phòng ăn nên có một cái bàn dài, chung quanh kê ghế, nhưng kê bừa bộn, chắc là nhiều người vừa kéo ngồi, hoặc bữa cơm tối chưa kịp dọn xong. Chàng mở luôn cánh cửa sang phòng khách. Cũng như phòng ăn, sự trang trí không có gì đặc sắc. Còn một phòng nữa (phía dưới chỉ có ba phòng), chàng mở nốt. Cũng không thấy gì, ngoại trừ một bàn ping pong đặt ngay ngắn chính giữa còn nguyên hai cây vợt bọc cao su.
    Văn Bình trèo lên gác. Biệt thự được xây cất từ lâu lại không được tu bổ nên cầu thang gỗ kêu ọp ẹp dưới chân tuy chàng hết sức giữ gìn. Trên gác cũng có ba phòng như ở tầng trệt. Thoạt tiên chàng ghé phòng làm việc, có cái bàn chất đầy sách vở giấy má. Chàng kéo riềm che cửa rồi vặn đèn. Ánh đèn ấm cúng tỏa tròn như muốn đẩy lui khí lạnh ban đêm ra ngoài. Văn Bình lục ngăn kéo. Toàn là sách truyện bằng nhiều thứ tiếng ngoại quốc. Chàng nhìn lên cái kệ : cũng tiểu thuyết ngoại quốc, nhiều nhất là bằng tiếng Anh và tiếng Đức.
    Chợt chàng lưu ý đến miếng giấy màu hồng găm trên cuốn lịch hàng ngày trên bàn làm việc, phía sau bình mực thủy tinh đắt tiền, và bức tượng bán thân của Các Mác bằng thạch cao trắng toát. Chàng kéo ghế ngồi và giật mảnh giấy hồng. Mảnh giấy này là bìa trái một cuốn truyện. Trên tấm bìa chỉ vỏn vẹn mấy giòng chữ viết nắn nót bằng mực xanh. Dưới ánh đèn, hàng chữ đập vào mắt Văn Bình :
    Cám ơn bạn đã dời gót ngọc đến thăm tệ xá. Bây giờ lục lọi đã thỏa thích, xin mời bạn ngồi yên đừng cựa cậy và giơ tay lên khỏi đầu.
    Vạn tạ, ĐINH PHÚC
    Văn Bình cảm thấy khô đắng ở cuống họng. Chưa lần nào chàng bị thua đậm bằng lần này. Bilatốp, miếng ăn đã gắp tới miệng mà còn bị giật mất. Rồi đến lượt chàng mang thân vào hang cọp cho cọp xé xác. Tuy nhiên chàng vẫn không mất bình tĩnh. Đặt mảnh giấy xuống bàn, chàng luồn tay phải vào trong sơ mi, nắm khẩu súng đeo sẵn dưới nách. Nhưng bàn tay chàng chỉ mới đụng làn thép lành lạnh của khẩu súng, một tiếng cười ngạo nghễ từ góc phòng vang lên, kèm theo giọng chắc nịch :
    -Bỏ tay xuống. Bỏ tay xuống, nếu không viên đạn này sẽ nổ toang óc.
    Biết địch thủ không phải tay xoàng, Văn Bình đành rút tay không ra ngoài, và lặng lẽ nâng lên khỏi đầu.

    Truyện
  • Chương II ---~~~cungtacgia~~~---
  • --!!tach_noi_dung!!--

    Đánh máy: danhkyvu2008
    Nguồn: Tủ sách Z.28
    VNthuquan.net - Thư viện Online
    Được bạn: Ct.Ly đưa lên
    vào ngày: 25 tháng 4 năm 2014

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--