Chương 5

Rồi cũng đến ngày tôi khăn gói ra thành phố, chuẩn bị cho năm học lớp mười.
Đúng như Hà Lan mô tả, thành phố đẹp nguy nga và lộng lẫy. Tôi tò mò ngắm nghía những đại lộ thênh thang, những tòa nhà cao vút, những cửa hàng bóng lộn và chất đống hàng hóa. Tôi như thằng ngố khi đứng trước các bảng điện nhấy nháy muôn màu của các rạp chiếu bóng và các vũ trường.
Sau vài ngày đi dạo quanh thành phố, tôi chắc chắn rằng nó giàu sang hơn cái làng nghèo khó của tôi gấp hàng tỉ lần. Tuy nhiên, tôi không chắc rằng nó có đẹp hơn làng tôi hay không. Nó quá ồn ào, lại lắm rác rến và bụi bặm, điều không hề có ở làng Đo Đo.
Thành phố vắng bóng những cây xanh. Ở trên cao, bầu trời bị chia cắt thành từng mảng nhỏ và tầm mắt tôi luôn luôn bị chặn lại bởi những dãy cột điện. Ở thành phố, khó lòng nhìn ngắm những đám mây bay, những đêm trăng sáng. Tôi không thể nào bắt gặp vẻ rầu rĩ huy hoàng của mặt trời lúc từ giã trời xanh. Đó là những điều Hà Lan không hề nhắc tới khi kể với tôi về thành phố.

*

Tôi không ở chung với cô Thịnh. Cô Thịnh ở nhà chị Nhường. Nhà chị Nhường rộng mà hóa chật. Phía trước là cửa hàng, phía sau là nhà kho, thỉnh thoảng tới chơi, tôi vẫn phải len lỏi giữa những cây vải chất thành từng đống, choán hết lối đi.
Tôi ở trọ nhà cậu Huấn. Cậu Huấn là anh ruột bác gái tôi. Xét ra, tôi với cậu chẳng bà con gì. Nhưng tôi vẫn gọi cậu bằng cậu. Tôi bắt chước chị Nhường.
Nhà cậu Huấn rất giàu, cậu có cửa hiệu thuốc tây. Thoạt tiên, thấy nhà cậu sang quá, tôi không dám ở. Nhưng bác tôi nằng nặc dẫn tôi đến đó. Bác trấn an tôi: "Cậu Huấn giàu nhưng sống giản dị, lại biết trọng kẻ sĩ". Tôi chỉ là cậu học sinh lớp mười, nhưng bác tôi vẫn liệt tôi vào hạng... kẻ sĩ. Và bác dắt tôi đến ra mắt cậu Huấn. Tôi ở trọ nhà cậu Huấn từ đó.
Cậu Huấn có ba người con. Nhỏ nhất là thằng Liêm, đang học lớp bảy. Chị kế thằng Liêm là nhỏ Mai, bằng tuổi tôi. Nhỏ Mai học hết lớp chín, nghỉ ngang, ra bán ngoài hiệu thuốc tây, chuẩn bị làm bà chủ tương lai. Lớn nhất là Dũng, bạn bè thường gọi nó là Dũng Thanh Lâm. Thanh Lâm là tên hiệu thuốc của cậu Huấn. Dũng không thích tên đó, nó bảo nghe giống kép cải lương. Dũng tự đặt biệt hiệu cho mình: Dũng Marcel. Và, bắt chước Jo Marcel, nó thường nhún nhảy và rên rỉ hát "Thôi, em đừng khóc, em đừng khóc, đừng khóc nữa làm gì..." nghe rầu muốn chết.
Dũng lớn hơn tôi ba tuổi, nhưng trên giấy tờ nó bằng tuổi tôi. Nó phải khai sụt tuổi để trốn quân dịch. Dũng hát hay, nhảy giỏi nhưng học dở ẹc. Mải vui chơi, đàn đúm, nó quảng sách vở vào xó nhà, chấp nhận ở lại lớp nhìn đời trôi qua. Vì vậy, khi vào lớp mười, tôi học chung lớp với nó. Ngay hôm đầu tiên, cậu Huấn đã bảo tôi: "Cậu nghe nói cháu học giỏi, có gì cháu chỉ cho thằng Dũng với. Nó lười lắm!". Tôi gật đầu.
Tôi nhận lời với cậu Huấn nhưng tôi chẳng làm tròn. Thằng Dũng là chúa lười, đúng như cậu Huấn nhận xét. Mỗi lần tôi kêu nó học, nó đều lảng đi chỗ khác. Nó chỉ khoái mỗi khoản cóp-pị Ở lớp, tôi và nó ngồi kế nhau, nó chép bài của tôi tha hồ. Nhờ có tôi, lần đầu tiên Dũng không phải học đúp lại lớp mười. Cuối năm, nó hí hửng khoe với cậu Huấn nó được lên lớp. Cậu Huấn mừng lắm và cậu cảm ơn tôi rối rít. Cậu tưởng tôi đã "cải tạo" được thằng Dũng.
Dũng chẳng lo học. Nó thường tụ tập với những đứa nhà giàu khác thành một băng và rủ nhau phóng honda ào ào trên phố hoặc chạy đua ra tận ngoại ô. Nó chơi billard rất thiện nghệ. Tôi đã từng lác mắt khi xem nó biểu diễn những cú đánh gom bi cực khó. Nó cũng mê đàn hát xướng. Trong phòng của nó có hai cây guitar điện và một bộ trống. Ngày nào đám bạn của nó cũng kéo tới chơi nhạc ầm ĩ khiến tôi không tài nào học bài được. Những lúc đó, tôi phải ôm tập xuống phòng nhỏ Mai và thằng Liêm ngồi học.
Hôm mới dọn đến, thấy trong hành lý của tôi có cây guitar, Dũng nheo mắt hỏi:
- Mày cũng chơi đàn nữa hả?
Tôi cười cười. Dũng nói:
- Mày đàn nghe coi!
Tôi đàn. Dũng chăm chú nghe, và chê:
- Cổ điển quá!
Tôi không hiểu:
- Cổ điển là sao?
- Là... là nhà quê!
Câu nói của Dũng khiến tôi đỏ mặt. Tôi buông đàn xuống ngồi im. Dũng chẳng thèm để ý đến vẻ sượng sùng của tôi, nó bước lại góc phòng, cầm lên cây guitar điện, hí hoáy so dây.
Dũng dạo tưng tưng vài nốt rồi nhìn tôi, hỏi:
- Mày biết chơi trống không?
Thấy tôi lắc đầu, Dũng khẽ so vai. Rồi nó bắt đầu hát. Bản "Beautiful Sunday". Dũng vừa hát vừa lắc người, hệt những ca sĩ biểu diễn trên ti-vi. Giọng nó khá hay, vang và ấm. Trước một khán giả quê mùa và ngờ nghệch như tôi, Dũng cao hứng hát liền tù tì ba bài. "L'amour c'est pour rien". Rồi "Aline". Hát xong, nó hỏi tôi:
- Hay không?
Tôi gật đầu:
- Hay.
Dũng khoái lắm. Nó vỗ vai tôi:
- Nếu mày thích, tao sẽ kéo mày vào chơi chung với bọn tao.
Dĩ nhiên tôi từ chối. Dũng hát hay. Những bản nhạc cũng hay. Nhưng tất cả chẳng ăn nhập gì đến tâm trạng của tôi. Tôi thích những bản nhạc "cổ điển" của tôi hơn. Chúng đánh thức trong tôi những kỷ niệm xôn xao của làng quê yêu dấu. Chúng thủ thỉ với tôi về tình yêu thầm lặng. Chúng luôn hướng về người tôi thương.

*

Người tôi thương ở nhà bà cô. Cô Hà Lan là người chị cả trong dòng họ. Sau cô, đến ba Hà Lan, rồi mới đến ông chú chạy xe đò. Họ hàng bên nội Hà Lan hầu hết đều đi làm ăn xa, chỉ có ba Hà Lan là ở lại làng.
Chồng cô là thương gia cỡ lớn, chủ hãng sản xuất vỏ xe ô-tô. Nhưng hai vợ chồng lại không có con. Khi Hà Lan ra thành phố học, đến ở nhà cô, hai vợ chồng mừng như bắt được vàng.
Hà Lan ở nhà cô y như ở trên thiên đường. Đồ ăn, thức uống, áo quần, giày dép, kể cả tiền tiêu vặt, Hà Lan không thiếu một thứ gì. Bà cô chiều chuộng Hà Lan như chiều chuộng một thiên thần. Bạn Hà Lan cũng được cưng lây. Mỗi lần tôi đến chơi, cô đón tôi như đón khách quí. Cô dọn bánh biscuit mời tôi ăn. Cô mở tủ lạnh, khui cocacola bắt tôi uống. Tôi xấu hổ chín người. Cô làm như tôi chết đói chết khát đến nơi.
Biết tôi ngượng, Hà Lan cầm bánh nhét vào tay tôi, dỗ như dỗ con nít:
- Ngạn ăn đi, đừng ngại!
Không phải tôi ngại, nhưng tôi cảm thấy không được tự nhiên. Căn phòng khách sang trọng này hình như không thích hợp với tôi. Tôi cảm thấy lúng túng và gò bó khi ngồi vào chiếc ghế bành to tướng. Tôi thích như ngày xưa hơn. Mỗi lần đến chơi nhà Hà Lan, chúng tôi thường ngồi bên nhau trên những khúc gỗ đặt dưới giàn thiên lý. Giữa khung cảnh đơn sơ mà gần gũi đó, chúng tôi trò chuyện với nhau thoải mái và thân mật biết bao. Còn ở đây, mọi chuyện đâm ra khác hẳn. Tôi nói năng cứ ngượng nghịu thế nào. Nhìn những chùm đèn lấp lánh treo lơ lửng trên trần nhà và những dãy tủ kính sang trọng kê dọc tường, tôi xụi lơ, hết muốn nói chuyện. Những câu chuyện mà tôi định nói, những câu chuyện về phiên chợ làng, về mùa thị chín, về những buổi chiều len lỏi trong rừng tìm bông dủ dẻ, tỏ ra chẳng thích hợp trong khung cảnh choáng lộn này một chút nào. Chúng trở nên lạc lỏng làm sao.
Những lúc như vậy, lòng nguội lạnh, tôi ăn qua loa vài miếng bánh rồi vội cáo từ. Cô Hà Lan đưa tôi ra đến tận cửa, và dặn: "Ngày mai, cháu đến chơi nhé!". Tôi gật đầu, và ngày hôm sau tôi chẳng đến. Tôi thích gặp Hà Lan ở ngoài phố hơn.

*

Từ hồi lên lớp mười, tôi và Hà Lan không còn học chung trường như trước. Hà Lan học trường Nữ, toàn con gái. Chiều chiều, sau giờ tan học, tôi thường đạp xe qua trường Hà Lan, đứng lóng ngóng trước cổng, đợi nó ra. Hồi đó, không chỉ mình tôi đứng nghệt mặt trước cổng trường con gái vào mỗi buổi chiều. Có cả khối đứa lởn vởn như tôi, mặt đứa nào đứa nấy lấm lét như kẻ trộm.
Trường Nữ giờ tan học là một kỳ quan đối với bọn con trai chúng tôi. Mãi về sau này, tôi vẫn không thể nào quên hình ảnh thơ mộng của những tà áo trắng lững lờ trôi ra khỏi cổng trường như một dòng sông nghi ngút sương mù. Dòng sông ảo ảnh đó đã có một thời cuốn theo nó bao nhiêu mắt nhìn ngây ngất, những mối tình vẫn vơ và thầm lặng, đã sản sinh ra bao nhiêu thi sĩ và những kẻ viết tình ca nổi tiếng và vô danh của cuộc đời.
Tôi chong mắt về phía cổng trường, dáo dác nhìn. Tìm Hà Lan giữa một biển áo trắng mênh mông chẳng khác nào tìm một hạt cát giữa đại dương. Nhưng bằng lòng kiên trì không mệt mỏi, cuối cùng bao giờ tôi cũng tìm ra hạt cát của tôi và bao giờ tôi cũng nhìn thấy nó trước khi nó nhìn thấy tôi. Và chỉ cần nó liếc tôi cười một cái, bao nhiêu mệt nhọc của tôi trong lúc chờ đợi bay biến đâu mất.
Tôi lẳng lặng đạp xe theo Hà Lan, cách một quãng xa. Suốt một chặng đường dài. Hà Lan đạp xe lững thững phía trước, tôi đạp xe lẽo đẽo phía sau, y như hai kẻ xa lạ. Chưa rời xa trường Nữ, tôi chưa dám tiến lên đi song song với Hà Lan. Tôi đã nghe tụi bạn cùng lớp kháo nhau đủ chuyện về nữ sinh trường này. Chuyện nào cũng động trời. Nào là tụi trường Nữ từng vác guốc đánh nhau với tụi nam sinh trường Hoàng Diệu. Chiếc guốc nào của tụi nó cũng đóng đinh lởm chởm, phang trúng là tét đầu. Đánh nhau một hồi, tụi Hoàng Diệu chạy vắt giò lên cổ. Nào là tụi nó từng nắm tay giăng hàng ngang trước cổng trường, chặn một đám lính biệt động quân lớ ngớ đi qua đó, đòi tịch thu mấy chiếc mũ nâu làm... kỷ niệm. Trước bầy nữ quái dữ dằn này, mấy tay lính biệt động súng ống đầy mình nhũn như con chi chi, đành bỏ nón chạy lấy người. Tôi không biết hư thực ra sao nhưng nghe riết các mẩu giai thoại rùng rợn kiểu đó, tôi đâm ngán. Tụi bạn còn dọa: "Đứa nào vô phúc đi ngang trường Nữ một mình coi như đi vào... tử địa".
Tôi không muốn đi vào tử địa. Tôi chỉ đến đón Hà Lan vào những lúc đông người. Và trên đường về, đợi cho Hà Lan đi thật xa, đến lúc nó rẽ ngoặt vào góc phố, tôi mới dấn xe lên. Tôi không dám đuôi theo Hà Lan ngay còn vì một lẽ khác. Tôi sợ gặp cô Thịnh. Cô Thịnh học chung trường với Hà Lan, lớp mười hai. Cô đã bắt gặp tôi lang thang ở đây một lần. Lần đó, tôi giật bắn người khi đang đuổi Hà Lan bỗng nghe có tiếng gọi sau lưng:
- Ngạn ơi, đi đâu đó?
Tôi quay lại và nhận ra cô Thịnh. Tôi dừng xe, ấp úng đáp:
- Ngạn đi chơi.
Cô Thịnh nhìn tôi nửa tin nửa ngờ:
- Đi chơi mà đi một mình?
Tôi lúng túng chỉ tay về phía trước:
- Ngạn đi với thằng bạn cùng lớp. Nó chạy đằng kia kìa!
Cô Thịnh nhìn theo tay chỉ của tôi. Cô không biết trong đám con trai đang chạy xe giữa đường có đứa nào là bạn tôi không. Nhưng cô không hỏi, chỉ cười cười:
- Chứ không phải Ngạn đang chạy theo cô bé nào à?
Tôi đỏ mặt:
- Đâu có.
Tôi chối biến. Tôi không muốn cô Thịnh biết chuyện tình cảm của tôi với Hà Lan. Từ ngày tôi nhận ra khoảng cách giữa tôi và cô, tôi không muốn tâm sự với cô nữa. Tôi thấy xấu hổ. Còn cô, sau lần đó cô cũng không bao giờ hỏi thăm về "cô bé" của tôi. Không hiểu cô đã biết gì chưa.
Lần đầu tiên tôi đến đón Hà Lan, khi thấy tôi cả tiếng đồng hồ sau mới đạp xe lên, Hà Lan ngạc nhiên hỏi:
- Ngạn hư xe hả?
- Đâu có.
- Sao bây giờ Ngạn mới tới? Hà Lan thấy Ngạn từ nãy.
- Tôi sợ bạn của Hà Lan chọc.
- Tụi nó không chọc đâu.
Tôi liẝi của Hà Lan làm tôi cụt hứng. Hóa ra là vậy. Tôi không thèm xúc động vì Hà Lan nữa, tôi xúc động vì... mẹ nó. Mẹ Hà Lan rất mến tôi, bà luôn luôn nhớ đến ơn cứu tử của ông tôi từ thời xa lắc xa lơ nào. Nghĩ đến đó, tôi đâm ra yêu mến ông tôi vô cùng. Ông là một người ông tuyệt diệu. Khi chết đi, ông vẫn để đức lại cho con cháu. Nhờ ông, tôi mới có ngày hôm nay.
Từ ngày có Hà Lan đến học chung, tôi như trở thành một con người khác. Tôi ăn mặc tươm tất hơn, tắm rửa một ngày nhiều lần hơn, tóc tai gọn ghẽ hơn và chuẩn bị bài vở chu đáo hơn. Trước những câu hỏi của Hà Lan, tôi không muốn bị lúng túng một chút nào. Trước mắt Hà Lan, tôi muốn tỏ ra là một học sinh xuất sắc và nhờ trời, và nhờ Hà Lan, tôi đã làm được điều đó.
Ngay ngày đầu tiên, Hà Lan đã nhìn thấy cây đàn tôi treo trên vách. Lúc giải lao, nó hỏi:
- Ngạn biết chơi đàn hả?
Tôi gật đầu.
Hà Lan đề nghị:
- Ngạn đàn cho Hà Lan nghe đi!
Tôi lấy đan` xuống, gảy từng tứng tưng.
Hà Lan nhăn mặt:
- Hát nữa!
Tôi cười. Và hát. Bài "Mộng dưới hoa".
Khi hát đến câu tủ:
Mắt em là bóng dừa hoang dại
Âu yếu nhìn tôi không nói năng
Tôi liếc Hà Lan xem nó có âu yếm nhìn tôi không nhưng tôi chẳng thấy gì. Mắt nó tỉnh khô. Tôi chán quá, không thèm hát nữa. Hà Lan ngó tôi:
- Sao vậy?
- Sao cái gì?
- Sao Ngạn không hát nữa?
Tôi nói dối:
- Tự nhiên tôi quên mất lời ca.
- Thì Ngạn hát bản khác.
Tôi thở dài:
- Hát bản gì bây giờ?
- Bản nào mà Ngạn thích ấy!
Câu nói của Hà Lan tiếp sức mạnh cho tôi. Trong thoáng mắt, tôi trở nên can đảm. Và tôi liều mạng hát bài "Có một ngày đã đến", bản nhạc đầu tiên tôi viết cho Hà Lan.
Tôi hát:
Có những lúc
Tôi ngỡ ngàng tự hỏi
Tại vì sao
Tôi lại yêu em
................
................
Từ ngày vẽ lên nốt nhạc đầu tiên trong đời mình, tôi đã ước mơ đến ngày hôm nay. Những gì tôi không thể nói, âm nhạc sẽ nói giùm tôi. Tôi hát say sưa, đầy tình cảm:
Ngậm trên môi
Một nhành cỏ dại
Chợt hiểu rằng
Tôi đã khác tôi xưa
......................
Khi tôi buông đàn xuống, mồ hôi đã ướt đẫm lưng áo. Nhưng tôi không cảm thấy mệt mỏi. Lòng tôi nhẹ nhõm và hân hoan.
Còn Hà Lan thì ngồi lặng, không nói gì. Lát sau, nó cất giọng hỏi:
- Bản nhạc tên gì vậy?
- "Có một ngày đã đến".
- Của ai vậy?
Tôi không dám nói nhạc của tôi. Tôi ấp úng:
- Tôi không nhớ. Hình như của... Cung Tiến.
Ông Cung Tiến ở tận đẩu tận đâu, tôi không ngán. Tôi cứ lấy tên ông ra nói đại. Hà Lan tin ngay. Nó nói:
- Bản nhạc hay quá, Ngạn chép cho Hà Lan đi!
Tôi xé giấy trong tập, chép cho nó, lòng buồn vui lẫn lộn. Vui vì bản nhạc được khen, buồn vì không dám nhận mình là tác giả.
Những bản sau này cũng vậy, tôi đều đổ hết cho người khác. Rốt cuộc, hết Cung Tiến đến Phạm Đình Chương, hết Phạm Duy đến Từ Cung Phụng, mọi người đều xúm nhau tỏ tình với Hà Lan. Còn tôi thì câm miệng hến, chỉ toàn chép giùm tâm sự của người ta, lòng buồn thỉu buồn thiu.
Trong một đêm sầu muộn, tôi chong đèn ngồi viết bản "Thà như ngày thơ ấu":
Những điều lòng muốn nói
Sao chẳng nói được gì
Những điều không muốn nói
Lại nói mãi em nghe
Nhớ ngày xưa tuổi nhỏ
Ta suốt ngày bên nhau
Kể bao điều thầm kín
Lòng có ngại gì đâu
Bây giờ sao quá khó
Lòng anh và tình em
Chút hương thầm trong gió
Biết ngày nào bay lên
Nếu biết tình như thế
Chẳng lớn lên làm gì
Thà như ngày thơ ấu
Hai đứa cầm tay đi
Dưới ánh trăng, tôi ôm đàn ngồi hát, lòng tự hỏi giờ này Hà Lan đã đi ngủ hay chưa và nó có nghe thấy tiếng thì thầm của trái tim tôi đang vọng tới không. Nếu Hà Lan chẳng nghe thấy gì, nếu nó dửng dưng thì nỗi mong mỏi của tôi càng tỏ ra đúng đắn. Thà như ngày thơ ấu. Thà như khi xưa ta bé ta chơi... béng beng...

*

Tôi chán tình yêu đơn phương. Tôi chán cảnh ngồi câm nín. Tôi ghét cay ghét đắng việc ngồi gò mình chép nhạc "Cung Tiến" cho Hà Lan. Tôi giở tập "Thơ thơ", thấy Xuân Diệu xúi:
Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần
Tôi đắc ý lắm. Tôi muốn làm theo lời mách nước của ông xiết bao nhưng tôi không dám. Dù tôi chỉ cần nói yêu một lần thôi. Một lần là mãi mãi.
Điều đáng ngán nhất trong tình yêu là khi mình yêu ai, mình không biết họ có biết điều đó hay không. Điều đáng chán thứ nhì là khi mình biết họ biết điều đó rồi thì mình lại không biết họ có yêu lại mình hay không. Cả hai điều nhất nhì đó, tôi đều gom đủ. Vì vậy, tôi càng chán tợn. Tôi chẳng biết làm sao thoát ra khỏi nỗi buồn. Tôi đành phải tìm đến âm nhạc để giải khuây.
Tôi viết bài "Nói yêu nhau nào có dễ", thở vắn than dài:
Mỗi lần định nói yêu em
Trái tim có đập bình thường nữa đâu
Mới vừa ấp úng vài câu
Tự nhiên co duỗi mười đầu ngón tay...
Và tôi không ngớt than thân trách phận:
Đôi khi nghĩ cũng giận lòng
Nói thẳng thì ngán, nói vòng thì lâu...
Rốt cuộc, tôi ngại nói thẳng, cũng chẳng dám nói vòng. Hà Lan vẫn cứ sống nhơn nhơn... ngoài vòng pháp luật. Tôi giận lòng ghê gớm. Giận đết Tết.
Quả thật, Tết năm đó tôi hết giận... tôi. Tết năm đó, lần đầu tiên tôi đi chơi với Hà Lan. Cùng với bạn bè cùng trang lứa, hai đứa tôi đạp xe vào rừng Sim. Lúc này, tôi đã có một chiếc xe đạp, đó là phần thưởng ba tôi tặng tôi do kết quả học tập cuối năm lớp tám.
Hai đứa tôi đạp xe đi song song bên nhau trên con đường làng vương vãi xác pháo. Hà Lan mặc áo dài xanh, xõa tóc ngang lưng, đẹp như tiên. Thỉnh thoảng tôi cố tình đi tụt lại phía sau để ngắm nó. Hà Lan chẳng biết ý đồ của tôi, nó cứ ngoái đầu lại giục:
- Lẹ lên chứ! Ngạn là con trai sao đạp chậm rì vậy?
Tôi chỉ biết nhe răng cười.
Bao giờ đi chơi Tết, con gái làng tôi cũng đều mặc áo dài. Điều đó gần như một tục lệ. Những chiếc áo dài đủ màu sắc nằm ngủ suốt năm dưới đáy rương hay trong góc tủ bỗng bừng tỉnh dậy một sớm mùa xuân và thi nhau phô sắc trên khắp nẻo đường làng và trên đồng xa nội cỏ. Nhờ những tà áo sặc sỡ thướt tha bay lượn như những cánh bướm, làng trở nên tưng bừng và tràn đầy không khí lễ hội. Tôi đạp xe bên cạnh Hà Lan, đường dài bốn cây số mà lòng sao nhẹ nhõm. Tôi tưởng như mình đang trôi lững lờ giữa làng quê yêu dấu. Tôi như cảm nhận được cùng một lúc tiếng vọng của đất đai, lời thì thầm của kỷ niệm và nỗi xôn xao của tình yêu thời mới lớn. Và trái tim tôi run lên trong một cảm xúc hân hoan không thể giãi bày.
Thấy tôi cười luôn miệng, Hà Lan hỏi:
- Làm gì Ngạn cười hoài vậy?
- Vui.
- Hà Lan cũng vui mà Hà Lan đâu có cười.
Nó bắt bẻ kiểu đó, tôi bí rị. Cắm cúi đạp xe một hồi, không nghĩ ra câu trả lời, tôi liếc sang nó, thấy nó đang cười. Nó xạo ghê!

*

Rừng Sim mùa xuân phủ đầy lộc non. Ngó chung quanh, toàn một màu tơ biếc.
Tôi và Hà Lan vứt xe ngoài bìa rừng, bên cạnh những chiếc khác, rồi thong thả len qua những bụi sim lá nõn, lốm đốm hoa tím. Tôi tháo cây đàn quàng trên vai xuống, cầm trên tay, chân dọ dẫm trên lối mòn đầy sỏi. Tôi đi trước mở đường, Hà Lan thơ thẩn bước theo sau, tay không quên hái những chiếc lá non ngậm trên miệng.
Ngoảnh lại, thấy chiếc lá đậu hững hờ trên môi Hà Lan, tôi cười:
- Hà Lan có nhớ năm nào Hà Lan ăn trâm tím cả miệng không?
- Nhớ.
Tôi chọc:
- Lát nữa, tôi lại trèo lên cây hái trâm cho Hà Lan nghen!
- Thôi đi!
Hà Lan tỏ vẻ giận dỗi. Tôi biết nó giả vờ nhưng tôi không nói gì, lại rảo bước.
Cùng dạo chơi trong rừng với tôi và Hà Lan hôm nay, còn biết bao nhiêu đứa khác. Nhưng đi suốt một đỗi dài, chúng tôi chẳng gặp ai. Con người nhỏ bé, rừng nuốt chửng tất cả. Thỉnh thoảng, tôi nhác thấy một tà áo dài thấp thoáng đâu đó sau rặng lá xanh, rồi biến mất, rồi lại bất chợt hiện ra.
Mùa xuân, cây cỏ tốt tươi, không khí dịu dàng và trong trẻo. Tôi đi bên cạnh Hà Lan, lòng bồng bềnh, hệt như Lưu Nguyễn lạc Thiên Thai. Tôi thấy tôi chẳng giống chút nào với tôi trước đây, khi tôi cùng với ba tôi vào rừng sim. Bây giờ tôi chẳng buồn hái sim nữa. Tôi cũng chẳng tìm bông dủ dẻ. Tôi chẳng hái chà là. Tôi đi, thơ thẩn và bồi hồi, đầu óc trong veo, không chứa một ý nghĩ nào rõ rệt.
Chúng tôi đi lặng lẽ bên nhau, mắt bâng quơ nhìn trời ngắm đất, chẳng mất chốc đã xuyên qua mé rừng bên kia. Chúng tôi ngồi xuống một tảng đá phẳng và vuông vức dưới gốc bàng bìa rừng. Trước mặt là một cánh đồng cỏ xanh rì, chạy thoai thoải, đổ xuống thung lũng nằm khuất bên kia gò. Đó là bãi bóng của trai làng tôi sau những vụ mùa. Nhiều măm về trước, mỗi khi có trận đá bóng, bọn nhóc tì chúng tôi thường được người lớn dắt theo để vừa làm khán giả vừa làm kẻ nhặt bóng. Chúng tôi đứng bao quanh bãi cỏ xem đá bóng, miệng không ngớt hò reo trong khi lòng hồi hộp chờ trái bóng bất ngờ văng ra xa để ba chân bốn cẳng đuổi theo. Có khi trái bóng văng tuốt xuống thung lũng, chạy xuống nhặt lên mệt muốn chết, vậy mà bọn nhóc chúng tôi cứ tranh nhau đi nhặt, lắm lúc phải sử dụng đến những quả đấm và trò ngáng cẳng, chỉ để được ôm trái bóng chạy lên sát bãi cỏ, có chân đá một cái cho trái bóng bay về phía các người lớn, mặt mày rạng rỡ như vừa làm được một kỳ công.
Bây giờ tôi đã lớn, chẳng còn ham thích trò nhặt bóng gian khổ kia nữa nhưng hình ảnh quen thuộc của bãi cỏ khiến lòng tôi dậy lên bao kỷ niệm và cảm thấy nao nao.
Thấy tôi ngồi hóa đá, Hà Lan hỏi:
- Làm gì Ngạn có vẻ thẫn thờ vậy?
- Tôi nhớ ngày xưa.
- Ngày xưa sao?
- Ngày xưa tôi thường chạy nhặt bóng, - và tôi chỉ tay ra trước mặt - trên bãi cỏ này nè!
- Nhặt bóng mà cũng nhớ!
- Nhớ chứ! - Rồi tôi nói thêm một cách ngô nghê - Nhặt cái gì cũng nhớ hết!
Hà Lan tròn mắt:
- Ngạn còn nhặt cái gì nữa?
Tôi ngó lơ chỗ khác, nói:
- Như nhặt... thị chẳng hạn.
Nghe tôi nhắc chuyện cũ, Hà Lan cười khúc khích. Nó hỏi:
- Ngạn còn nhớ gì nữa không?
Hà Lan hỏi vậy khác nào xúi tôi. Tôi muốn nói "nhớ Hà Lan" vô cùng. Tôi nhớ lời dùi Xuân Diệu "phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần". Nhưng tôi không đủ can đảm. Tôi chỉ nói:
- Tôi nhớ... đủ thứ. Những gì đã xảy ra trong đời tôi, tôi đều nhớ.
Khi nói như vậy, tôi hy vọng Hà Lan thừa thông minh để hiểu ý tứ của tôi. Không biết nó có hiểu không, mà nó nói:
- Ngạn hát cho Hà Lan nghe đi!
Tôi so dây đàn, hỏi:
- Hà Lan muốn nghe bản gì?
- Bản "Có một ngày như thế" của Cung Tiến.
Tại sao quỷ không tha ma không bắt ông Cung Tiến này đi giùm tôi! Tôi bấm bụng hát, bâng khuâng và sầu muộn. Hà Lan ngồi nghe, say sưa, mơ màng, tóc xõa tung trong gió. Ngồi giữa rừng xanh hoa tím, Hà Lan bỗng đẹp thần sầu. Nhưng tôi không nhìn nó. Trong khi hát, tôi nhìn lên bầu trời, dõi theo những cụm mây trắng đang lững lờ trôi cuối chân trời xa và thấy tâm hồn mình như đang phiêu dạt.
Hết nhạc Cung Tiến, tôi hát nhạc Đoàn Chuẩn. Toàn của giả. Nhưng tôi đã thôi buồn. Khi lời ca cất lên, tôi như thấy tình yêu đang vỗ cánh. Tôi trải lòng ra với thiên nhiên như chàng Trương Chi đa tình trải lòng mình trên sóng nước, tự dưng cảm thấy được an ủi rất nhiều. Mỵ Nương bó gối ngồi nghe, không nói một lời.
Đến khi tôi hát bản "Thà như ngày thơ ấu", bản này tôi chưa hát cho Hà Lan nghe lần nào, thì Hà Lan chợt hỏi:
- Bản nhạc này Ngạn sáng tác phải không?
Câu hỏi đột ngột và thẳng thừng khiến tôi ngớ người ra. Nếu Hà Lan hỏi như trước đây tôi vẫn trả lời. Của Phạm Đình Chương. Của Trịnh công Sơn. Hay của một nhạc sĩ xa xôi nào đó. Đằng này, nó đột nhiên thay đổi câu hỏi. Tôi buộc phải thay đổi câu trả lời. Tôi gật đầu. Và lòng bối rối ghê gớm.
Hà Lan bỗng dưng buột miệng khen:
- Ngạn làm nhạc hay ghê!
Tôi sững sờ, và cảm thấy sung sướng đến lịm người. Tôi không chờ đợi điều đó. Tôi chỉ mơ ước đến một ngày nào Hà Lan hiểu ra những bản nhạc tôi hát chính là những bản nhạc tôi đã thức trắng đêm để viết ra, cho nó và vì nó. Bây giờ không những nó biết tôi viết bản "Thà như ngày thơ ấu", nó còn khen hay. Tôi cao hứng quên phéng cả rụt rè, bộp chộp khoe:
- Những bản nhạc tôi chép cho Hà Lan trước đây cũng đều do tôi sáng tác.
Nói xong điều thầm kín bấy lâu, tự nhiên tôi đâm ra ngượng ngùng và vội vã nhìn xuống đất. Tôi càng choáng váng hơn nữa khi vẳng bên tai tôi giọng nói tỉnh khô của Hà Lan:
- Hà Lan biết điều đó từ lâu rồi!
Mặt đất dưới chân tôi tự dưng nghiêng hẳn đi. Nó đang quay. Tôi lập tức nhắm mắt lại. Và hiểu rằng những khó khăn của cuộc sống vừa mới đi qua.

*

Năm lớp chín là một năm tuyệt vời. Tôi mới viết câu đó cách đây vài trang nhưng tôi vẫn cứ muốn nhắc lại một lần nữa. Nhất là sau biến cố rừng Sim.
Sau cái ngày tôi phát hiện ra trái đất quay chung quanh mặt trời mà không cần biết Galilée và Copernic là ai ấy, những người vô tâm nhất cũng thừa biết tôi sẽ làm gì vào những chiều cuối tuần. Tôi về làng.
Tôi về làng với Hà Lan. Tất nhiên chúng tôi đi chung với cả một đám bạn. Nhưng dọc đường, hai đứa tôi cố tình đi tụt lại phía sau. Thoạt đầu, bạn bè còn dừng xe lại chờ. Về sau, thấy chúng tôi không có vẻ gì muốn tiến lên phía trước, tụi nó chán quá, liền vọt thẳng.
Còn lại hai đứa, tôi với Hà Lan thong thả đạp xe đi. Sau một tuần lễ vùi đầu vào học tập, ngày thứ bảy là một ngày thảnh thơi tuyệt diệu. Chiều loang nắng, chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau, lòng êm đềm và thanh thản.
Suốt cả chặng đường dài, mãi đến khi về tận đầu làng, tôi và Hà Lan chẳng trò chuyện gì nhiều. Mà cũng chẳng có gì để nói. Chuyện học tập, chúng tôi đã nói chán, ở trường và ở nhà bà Năm Tự. Chuyện tình cảm, những bản nhạc đã nói giùm tôi. Chúng nói còn đầy đủ và chân thành hơn là chính tôi nói nhiều. Hà Lan cũng thế, chẳng nhiều lời. Ngôn ngữ của nó là nụ cười và ánh mắt.
Dọc đường, bao giờ tôi và Hà Lan cũng rẽ vào rừng Sim. Ở đó, chúng tôi đi thơ thẩn giữa màu hoa tím, chơi trò trốn tìm sau các bụi cây và chạy nhảy trên những mô đất y như hồi nhỏ. Chính giữa những trò chơi nghịch ngợm và hồn nhiên đó, tôi được nghe lại tiếng cười khanh khách vô tư của Hà Lan, tiếng cười tưởng chỉ có thể bắt gặp trong những giấc mơ về quá khứ. Những lúc ấy, lòng tôi vui lạ lùng.
Và lần nào cũng vậy, trước khi ra về, tôi không làm sao cưỡng được ý định rủ Hà Lan đi xuyên qua mé rừng bên kia, đứng trầm ngâm trước cánh đồng cỏ xanh để ngắm vẻ huy hoàng của mặt trời đang chìm dần xuống thung lũng mù sương.
Những tối ở làng, bao giờ tôi cũng xuống chơi nhà Hà Lan. Tôi lại được ăn món canh nấu bằng hoa thiên lý. Tôi lại được ngồi dưới giàn hoa lấp lánh ánh trăng, hát cho Hà Lan nghe những bản tình ca tôi mới viết.
Lời ca của tôi dạo này đã thôi u uất. Tôi gõ đàn, hát những lời nồng nàn, trong trẻo:
Có một mặt trời
Trong ngực em
Mỗi ngày
Em mỗi sớm mai lên
Lòng anh buổi ấy
Tương tư nắng
Không phải hoa quì
Vẫn hướng dương
Tôi lại hát:
Tại sao em cứ mười ba
Mà không mười bốn hay là mười lăm
Như trăng kia chẳng chịu rằm
Để cho bụi trúc đứng dầm sương khuya
Hà Lan nghe xong, nói:
- Năm nay Hà Lan mười bốn, sắp mười lăm tuổi.
Tôi cười:
- Bản nhạc nói về chuyện cũ. Chuyện năm ngoái.
Và tôi hát:
Dưới giàn thiên lý
Một mình anh đang ngồi
Không dưng em bưới tới
Anh bỗng thành song đôi
Khi tôi buông đàn, ngoảnh lại, Hà Lan đã biến mất. Nó bỏ vào nhà. Cho tôi hết hí hửng. Song đôi đâu mà song đôi!
Những bản nhạc tôi viết cuối năm lớp chín đều như thế, vui tươi và yêu đời. Chỉ đến lúc nghỉ hè, những bản tình ca của tôi mới đượm buồn.
Vừa nghỉ hè xong, Hà Lan ra thành phố liền. Nó ra sớm, ở nhà bà cô, đi học hè. Còn tôi mãt một năm nếu tôi định làm cái chuyện tỏ tình ngớ ngẩ đó. Năm lớp chín thuận lợi hơn nhiều. Nếu muốn, tôi có hàng đống cơ hội. Năm lớp mười, mọi chuyện đã khác. Tôi không thể vừa chạy xe vừa đảo mắt canh chừng cô Thịnh lại vừa nói yêu Hà Lan. Tôi cũng không thể hé môi một điều gì trong phòng khách sang trọng ở nhà cô Hà Lan. Hơn nữa, tôi rất ít đến đó. Ngược lại, Hà Lan cũng chẳng đến tôi. Từ hồi tôi ở trọ nhà cậu Huấn, nó chẳng ghé thăm lấy một lần. Hà Lan không ghé, tôi càng mừng. Nhà cậu Huấn tuy không sang bằng nhà cô Hà Lan, tôi vẫn thấy tù túng và lạc lõng. Tôi không muốn bạn bè đến đó chút nào.
Chỉ có gần đây, Hà Lan mới ghé qua một lần. Đang ôn thi cuối năm, thiếu tài liệu, nó đến hỏi mượn cuốn "L'art de conjuguer".
Hôm đó, tôi đang ngồi học bài, bỗng thấy thằng Dũng thò đầu vào:
- Ai đang tìm mày kìa!
- Ai vậy?
Dũng nháy mắt:
- Một con bé xinh thật xinh!
Tôi bước ra cửa và ngạc nhiên khi nhìn thấy Hà Lan.
- Hà Lan đi đâu vậy? - Tôi bồi hồi hỏi.
- Hà Lan đi mượn sách.
- Sách gì?
- Cuốn "L'art de conjuguer". Ngạn có không, cho Hà Lan mượn đi!
Tôi gật đầu:
- Có. Hà Lan đợi một chút, tôi vào lấy.
Ý tôi không muốn mời Hà Lan vào nhà. Nhưng thằng Dũng đứng bên cạnh lại phá bĩnh. Nó liếc tôi:
- Sao không mời khách vào nhà chơi, mày?
Rồi không đợi tôi trả lời, Dũng quay sang Hà Lan, niềm nở:
- Hà Lan vào nhà ngồi chơi đi!
- Thôi, Hà Lan đứng đây được rồi! - Hà Lan đáp với vẻ bẽn lẽn.
Dũng vẫn khăng khăng:
- Ai lại đứng đây! Tới chơi, đứng ngoài cửa coi sao được!
Không biết làm sao, Hà Lan đành bước vào nhà.
Tôi chạy lên lầu lấy sách đem xuống thấy Dũng và Hà Lan đang ngồi trò chuyện vui vẻ ở phòng khách. Cả hai đang nói về các bản nhạc thời thượng và các điệu nhảy đang thịnh hành. Toàn những đề tài tôi mù tịt. Hà Lan nói chuyện một cách say sưa, dường như nó quên mất nó tới đây làm gì. Tôi cầm cuốn sách lóng ngóng trên tay, không biết có nên đưa Hà Lan hay không. Tôi sợ làm nó cụt hứng. Thế là tôi đành ngồi xuống bên cạnh, đợi.
Mãi đến lúc ra về, Hà Lan mới chợt nhớ tới mục đích của nó. Nó chìa về phía tôi:
- Sách của Hà Lan đâu?
Tôi lặng lẽ đưa cuốn sách cho nó. Hà Lan cầm lấy cuốn sách và mỉm cười nhìn tôi:
- Ngạn cho Hà Lan mượn lâu lâu chút nghen!
Tôi gật đầu.
Dũng rảo bước lên trước tôi, giành tiễn Hà Lan ra tận cửa. Nó làm như Hà Lan là bạn nó. Tự nhiên tôi thấy buồn buồn. Tôi chẳng buồn Dũng, mà buồn Hà Lan. Nó đến đây, chẳng thèm nói chuyện với tôi. Nó chẳng hỏi thăm về làng quê. Nó bỏ tôi ngồi một mình. Trong khi tôi có biết bao điều muốn nói với nó. Tôi muốn kể với nó rằng thầy Cải đã nghỉ dạy, thầy ở nhà đi câu và đan giỏ sống qua ngày. Tôi muốn kể với nó về cơn gió dữ vừa thổi qua làng tháng trước suýt xô ngã cây bàng già giữa chợ và đã thổi đi đâu mất những tổ chim chào mào trên ngọn tre sau nhà nó. Và cả mẹ nó nữa, tôi cũng muốn kể chuyện mẹ nó chờ nó về ăn khoai lang luộc ra sao, nó không về, mẹ nó đành phải xắt khoai đem phơi khô để dành tháng này qua tháng khác.
Nhưng tôi chẳng nói được gì. Những câu chuyện của tôi cứ hoài hoài ấp ủ.
Dũng quay vào, gật gù nhìn tôi:
- Mày có con bạn dễ thương ác!
Tôi chỉ cười. Dũng lại hỏi:
- Bồ mày hả?
Tôi chúa ghét chữ "bồ", tôi thích chữ "người yêu" hơn, nhưng tôi cứ gật đầu đại. Tôi có linh cảm nếu tôi không thừa nhận điều đó, Dũng sẽ không buông Hà Lan. Nhưng Dũng trâng tráo hơn tôi nghĩ nhiều, nó nháy mắt ranh mãnh:
- Mày nhường nó cho tao đi!
Tôi lại cười, không cười thì biết làm gì. Dũng bước lại gần, đặt tay lên vai tôi:
- Đồng ý hén?
Tôi ngước lên, nhăn nhó:
- Anh nói nghe kỳ cục quá!
Dũng lớn tuổi hơn tôi, lại là vai anh của chị Nhường, nên tôi vẫn gọi nó bằng anh mặt dù tôi ngán nó tới tận cổ. Trước thái độkhó chịu của tôi, nó thản nhiên nhún vai:
- Có gì đâu kỳ cục! Tại sao thấy nó có vẻ khoái tao hơn là khoái mày!
Giọng điệu trịnh thượng của Dũng khiến tôi tự ái đỏ mặt. Tôi nói, cố giữ giọng bình thản:
- Nếu anh thấy vậy thì anh cứ việc!
Dũng hí hửng:
- Vậy là mày chịu rồi hén?
Ở đây không có vấn đề chịu hay không chịu! - Tôi nói - Nếu quả thật Hà Lan thích anh thì đó là quyền của cô ấy. Tôi chịu hay không chịu liệu có ý nghĩa gì!
Dũng nắm chặt tay tôi, lắc lắc:
- Tốt! Mày xứng đáng là một thằng đàn ông!
Nói xong, nó bỏ đi mất.
Tôi ngồi lại, buồn nản vô cùng. Dũng vai anh, nhưng nó cũng như bạn tôi. Thế là từ nay tôi mất một người bạn.

*

Chiều hôm sau, tôi lọc cọc đạp xe đến trường Hà Lan. Đúng như tôi nghĩ, Dũng đã có mặt ở đó. Dũng đi chiếc Yamaha đỏ, diện kẻng từ đầu tới chân, mắt đeo kính râm dù trời chiều nhạt nắng. Khi tôi tới, Dũng đang ngồi trong quán nước trước cổng trường, mắt đăm đăm nhìn về bên kia con đường nên nó không trông thấy tôi.
Tôi tấp xe vào lề, ngồi nép sau một xe nước mía. Tôi muốn xem thử nó giở trò gì.
Lát sau, Hà Lan ra. Nhác thấy Dũng, Hà Lan tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng ngay sau đó nó lại nhoẻn miệng cười. Tự dưng, tôi thấy lòng nhói buốt. Tôi tự nhủ một nụ cười thì đâu có nghĩa lý gì, nhưng ý nghĩa đó vẫn chẳng giúp tôi thanh thản chút nào.
Hà Lan không nhìn thấy tôi. Nó thong thả đạp xe đi. Dũng vội vàng phóc lên chiếc Yamaha, nổ máy rượt theo. Hà Lan đi xe đạp nên Dũng không phóng nhanh được. Nó chạy rề rề bên cạnh. Nó mưu toan chiếm chỗ của tôi.
Tôi chạy một mình phía sau, buồn thỉu buồn thiu. Trước mặt tôi là một đám nữ sinh nghịch ngợm đang chạy giăng hàng ngang giữa đường. Nhờ lẩn khuất sau những tà áo trắng, tôi không bị Hà Lan và Dũng phát hiện dù cả hai thỉnh thoảng vẫn ngoái cổ nhìn lại đằng sau.
Tôi cứ lẽo đẽo bám theo như thế, vừa đạp xe vừa tự nguyền rủa hành động lố bịch của mình. Tôi bảo tôi: đuổi theo họ làm gì, đây chỉ là trò tản tỉnh lăng nhăng của thằng Dũng, có gì phải thấp thỏm lo âu! Nghĩ vậy, nhiều lúc tôi muốn bỏ về quách. Nhưng tôi không điều khiển được tay lái của mình. Tôi vẫn lẵng nhẵng bám theo, hoang mang và buồn nản.
Tới nhà cô Hà Lan, Dũng và Hà Lan chia tay nhau. Khi Hà Lan khuất sau cánh cửa, tôi thở phào và quay xe về. Tôi đã thôi bần thần. Tôi thấy lòng nhẹ nhõm. Và tôi tự cười thầm những ý nghĩ vớ vẫn của mình. Tôi giống như chàng trai cả ghen trong thơ Nguyễn Bính. Nguyễn Bính thật tài. Ông biết hết ý nghĩa trong đầu tôi, va ` ông nói hộ:
Cô nhân tình bé của tôi ơi!
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi, và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi
Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai
Đừng hôn dù thấy đóa hoa tươi
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ
Đừng tắm chiều nay bể lắm người
Tôi muốn mùi thơm của nước hoa
Mà cô thường xức chẳng bay xa
Chẳng làm ngây ngất người qua lại
Dẫu chỉ qua đường khách lại qua
Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn khuất bên cô
Bằng không tôi muốn cô đừng gặp
Chàng trẻ trai nào trong giấc mơ
Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen
Chân cô in vết trên đường bụi
Chẳng bước chân nào được dẫm lên
Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi
Và nghĩa là cô là tất cả
Cô là tất cả của riêng tôi
Đúng, tôi như thế đấy! Đến bây giờ, khi tình yêu của tôi bắt đầu bị đe dọa, tôi mới nhận ra tôi đã yêu Hà Lan biết chừng nào. Tình yêu của tôi với Hà Lan hẳn đã hình thành từ những ngày thơ ấu và gắn bó với bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào, những kỷ niệm đã không ngừng vượt qua không gian và thời gian để lúc nào cũng cháy rực rỡ trong tôi như những ngọn nến hồng. Những kỷ niệm tươi đẹp đã nuôi dưỡng tình yêu tôi như đất đai nuôi cây trái, đợi một ngày cành biếc sẽ ra hoa. Và tôi, tôi đã đợi.
Lặng thầm, tôi đợi. Dũng thổi qua đời tôi như một cơn gió dữ. Nhưng cũng như cơn gió dữ dạo nào thổi qua làng, chỉ lay động nhưng không làm sao xô ngã cây bàng già giữa chợ Đo Đọ Cũng đến, rồi đi. Như nó sắp sửa đi khỏi nhà Hà Lan, chẳng được tích sự gì. Như dã tràng xe cát.
Tôi ngoảnh đầu lại, và ngạc nhiên thấy con dã tràng vẫn còn ở đó, không chịu nhúc nhích lấy một li. Dũng ngồi trên xe, chân chống đất và bình thản hút thuốc. Như thể đợi chờ ai.
Quả nhiên, một lát sau Hà Lan bước ra trong bộ váy đầm tuyệt đẹp. Tôi trông nó lạ lẫm quá chừng. Nếu bất chợt bắt gặp Hà Lan ngoài phố trong bộ cánh như thế, chắc tôi không nhận ra. Tôi đã quen nhìn thấy Hà Lan trong chiếc áo nữ sinh thướt tha và giản dị. Tôi đã quen với hình ảnh gần gũi và dịu hiền của nó từ thời hai đứa rời làng đi học ngoài phố huyện, sao bây giờ nó chẳng giống hồi xưa. Tôi nhắm mắt lại, và nghe tiếng Yamaha nổ máy. Khi mở mắt ra, tôi chỉ kịp nhìn thấy chiếc váy hồng thấp thoáng trên ngọn đèn lái chớp đỏ phía sau.
Tôi thẫn thờ đạp xe đi và nghe lòng quặn thắt. Trái tim tôi bỗng run lên khúc hát ngày nào:
Gửi mùa hè
Giữ hộ chút tình yêu
Khi chia xa
Vẫn nhớ ngày gặp lại
Lúc ấy
Em có là cô gái
Đốt tôi bằng ngọn lửa
Của riêng em?
Tôi gửi tình yêu cho mùa hè, nhưng mùa hè không giữ nổi. Mùa hè chỉ biết ra hoa, phượng đỏ sân trường và tiếng ve nỉ non trong lá. Mùa hè ngây ngô, giống như tôi vậy. Nó chẳng làm được những điều tôi ký thác. Nó để Hà Lan đốt tôi, đốt rụi. Trái tim tôi cháy thành tro, rơi vãi trên đường về.