Đánh máy: Vinh
Hồi 3
Hải biên hỏa chiếu vân
Thần Long nhập Trung Nguyên

Cảnh Đức Trấn là địa phương sầm uất, trù phú nhất Giang Tây thời ấy. Nơi đây có đến mấy trăm lò gốm, sản phẩm nỗi tiếng khắp Trung Hoa và hải ngoại. Ngày ngày, thương lái các nơi và bọn Tây Dương đến mua hàng, khung cảnh cực kỳ náo nhiệt.
Nhưng sanh nghề tử nghiệp, đa số dân trong trấn và quanh vùng đều mắc những chứng bệnh về đường hô hấp.
Khói từ lò gốm đã làm ô nhiễm bầu không khí, và ảnh hưởng đến sức khoẻ của bách tính!
Vậy là y thuật của Trinh Tâm có đất dụng võ. Chỉ sau vài tháng nàng đã nổi danh thần y, có rất nhiều thân chủ!
Nam Cung Bột bỏ nghề đánh cá, phụ giúp ái thê việc thuốc men vì Giang Tây không có biển.
Năm Chính Thống thứ nhất đời Minh Anh Tông, Nam Cung Giao tròn hai mươi hai tuổi, đã có thêm hai em gái. Tuy An Nam đã giành được độc lập nhưng Trinh Tâm vẫn chưa quên mối thù giết anh, liền cho trưởng tử lên đường.
Nam Cung Bột đã sáu mươi mốt tuổi. Người già thường an phận nên lão không tán thành việc báo thù, nhưng biết tính tính kiên quyết của vợ, đành phải ngậm miệng.
Hiểu ý cha Nam Cung Giao cười bảo:
- Nam nhi chí tại bốn phương! Nay hài nhi giỏi võ hơn văn, chẳng lẽ lại sớm lấy vợ sanh con, sống đời tẻ nhạt ở chốn đầy khói bụi này? Năm xưa, phụ thân đã chẳng từng bỏ nhà vác đao đi lang bạt đấy sao?
Chàng ranh mãnh đảo mắt nói:
- Hài nhi sẽ mang về năm sáu cô vợ đẹp để khỏi bị ăn hiếp như phụ thân! Người này không cho ngủ thì ta chui vào giường khác!
Nam Cung Bột phá lên cười khanh khách, còn Trinh Tâm thì đỏ mặt. Ở tuổi bốn mươi tám, bà vẫn còn rất thon thả và quyến rũ khiến trượng phu mê như điếu đổ. Chính nhờ sự nghiêm khắc của bà mà Nam Cung Bột sống điều độ, giữ được vẻ cường tráng, dù đã bước qua tuổi lục tuần.
Trinh Tâm nén thẹn thùng, nghiêm giọng dạy con:
- Tửu sắc là hai việc mà bậc chính nhân luôn cẩn trọng! Nam nhi mà đa mang tình ái thì chẳng dựng nên nghiệp lớn!
Nam Cung Giao vòng tay chính sắc đáp:
- Hài nhi luôn ghi nhớ những lờl vàng ngọc của mẫu thân. Sau này xuất đạo, mỗi ngày chỉ uống ba chung, còn lấy vợ thì chỉ ba người mà thôi!
Biết chàng nói bỡn, Nam Cung Bột cười hô hố để chọc ghẹo bà vợ xinh đẹp và dữ như cọp của mình. Nào ngờ Trinh Tâm lại gật đầu:
- Giao nhi có tướng đào hoa lắm thê nhiều thiếp, ắt sẽ khổ vì tình. Nay con đã hứa thì phải giữ lời, nếu lấy đến người thứ tư thì ta không thừa nhận đâu đấy!
Nam Cung Giao ngỡ ngàng, còn Nam Cung Bột thì lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp! Không ngờ thằng bé này lại tốt số hơn mình!
Gần tháng sau, trong thành Nam Kinh, cạnh sông Trường Giang xuất hiện một chàng trai mặc trường bào xanh nước biển thắt lưng và dây buột tóc màu vàng nhạt. Trên gương mặt trắng trẻo kia ló đôi lông mày chữ nhất đen như hai vệt mực, đôi mắt trong sáng, tinh anh. Sống mũi thẳng với chuẩn đầu tròn đầy, và đôi môi không mỏng không dầy.
Bảo rằng anh tuấn phi phàm thì e quá lời, nhưng khi chàng ta cười, lúm đồng tiền ở má trái sao duyên dáng lạ lùng! Nhìn lâu chúng ta sẽ phát hiện ánh mắt kia có chút gì ranh mãnh, pha chút diễu cợt.
Nam Cung Giao kế thừa được hết những ưu điểm của song thân: tính lạc quan, vui vẻ của cha và sự thông minh, kiên quyết của mẹ.
Lần đầu tiên đến chốn phồn hoa đô hội, chàng trai xứ biển ngây ngất ngắm nhìn cảnh vật, môi điểm nụ cười thán phục.
Nam Kinh ngày xưa chính là Kim Lăng, nơi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chọn làm Đế Đô, và đặt cho cái tên rất kêu là Ứng Thiên Phủ.
Nhưng sau khi con trai thứ của Thái Tổ, Yên Vương Chu Lệ, cướp ngôi cháu là Huệ Đế Chu Doãn Văn, đã cho dời đô về Bắc Kinh. Minh Thành Tổ Chu Lệ là một vị vua có tài trị nước.
Việc thiên sư lên phía Bắc có một ý nghĩa chiến lược rất quan trọng. Vì mối hiểm họa hình của Trung Hoa là bọn rợ phương Bắc như Mông Cổ, Mãn Châu, chứ chẳng phải những nước nhỏ ở phía Nam như Giao Chỉ, Miến Điện, Tây Tạng.
Nam Kinh giờ đây chi còn là cố đô, song tập trung không ít những vị đại thần đặc phái của triều đình, chịu trách nhiệm từ sông Trường Giang trở về Nam. Những tù binh An Nam, Chiêm Thành, cùng tất cả sách vở tịch thu, đều ở cả Nam Kinh!
Nam Cung Giao đến đây không phải vì các tù nhân hay cổ thư mà vì một người có trên là Quách Tường An, hiện giữ chức Nam Kinh Binh Bộ Thượng Thự Nghĩa là họ Quách nắm binh quyền ở các phủ phía Nam. Do việc Bắc Kinh ở tận cực Bắc xa xôi, cách Vạn Lý Trường Thành chỉ vài trăm dặm nên Nam Kinh hầu như có cả một triều đình nhỏ, các bộ đều cử đại diện đến đây.
Hơn hai mươi năm trước, Quách Tường An là một võ tướng dưới quyền Tân Thành Hầu Trương Phụ, sang chinh phạt An Nam. Lão giết người như ngoé, kể cả lương dân vô tội và đàn bà con trẻ! Lão cũng là một trong những kẻ đã hành hạ tù binh và định cưỡng bức Trinh Tâm.
Vì chuyện xảy ra đây hai mươi mấy năm nhưng thù nhà nợ nước đã luôn ám ảnh người nữ kiệt họ Đặng.
Bà đã nung nấu lửa căm hờn trong lòng con trai bằng những câu chuyện thương tâm do bọn quân binh tàn ác gây ra. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của Nam Cung Giao.
May mà cha chàng tánh tình phóng khoáng, rộng rãi, nên đã giảm nhẹ ấn tượng sắc máu trong tâm hồn thơ dại.
Song dẫu sao, Nam Cung Giao cũng quyết lấy đầu Trương Phụ và đám quan võ ác ôn kia.
Chàng tìm chỗ trọ, gởi ngựa và hành lý, đi dạo khắp nơi, chủ yếu là quan sát dinh thự của Nam Kinh Binh Bộ Thượng Thư họ Quách.
Cơ ngơi của Quách Tường An nằm gần cổ cung, nơi ngày xưa Chu Nguyên Chương trị vì.
Giờ thì Hoàng Cung đã trở thành Hoàng Cung để vua mới nghỉ ngơi, mỗi khi có dịp Nam du.
Khu vực này còn có khá nhiều dinh thự của các quan to khác, được bảo vệ nghiêm mật. Đường không cấm đi song lúc nào cũng có những đoàn quân sĩ tuần tra qua lại!
Con đường quan cách này được đặt tên là đường Hoàng Cung. mặt lộ rộng bốn mươi bước chân lát đá bằng phẳng, hai bên đường trồng toàn những cây hoàng xương xanh thẵm!
Các kiến trúc trên đường rất đẹp và đầy nét cổ kính nên được du khách bốn phương chiếu cố, người qua kẻ lại tấp nập.
Đi nhiều ắt phải mỏi chân, khát nước. Do vậy có nhiều vị quan muốn chứng tỏ mình liêm khiết, giàu có nhờ tài kinh doanh của vợ, liền mở trà lâu, tửu quán ngay mặt tiền.
Đấy là những người ít quyền lực làm ở những ngành không quan trọng, chứ Binh Bộ Thượng Thư thì chẳng thể muối mặt được. Nhưng xeo xéo trước mặt dinh thự họ Quách có một tòa Phú Qúi Đại tửu lâu.
Chủ nhân tửu lâu này là phu nhân của quan Thị lang Bộ Hộ họ Tả.
Từ trên tầng hai, Nam Cung Giao có thể quan sát bao quát cơ ngơi của Quách Tường An.
Đã trót mang tên là Phú Qúi nên nơi đây chỉ tiếp toàn những người sang cả đất Nam Kinh.
Rượu và thức ăn đều đắt gấp ba lần quán khác, khiến kẻ trung lưu cũng chẳng dám vào!
Nhưng sanh ý của Tả phu nhân rất thịnh vượng vì quán của bà là chỗ giao dịch làm ăn. Ai có việc muốn nhờ vả lo lót tất sẽ mời các quan đến đây thương lượng. Cũng là chỗ đồng liêu, bá quan Nam Kinh không sợ Tả phu nhân tiết lộ bí mật của mình! Họ lại chẳng phải là người trả tiền ăn nhậu, nên cứ khăng khăng đòi đến Phú Qúi Đại Tửu Iâu cho an toàn!
Nam Cung Giao xuất thân nghèo khó, lại căn cơ hà tiện chẳng khác mẫu thân. Chàng bấm bụng mua bộ y phục bằng gấm thượng hạng để được vào chốn sang trọng này. Chàng mỉm cười xót xa khi gọi rượu thịt, biết rằng hầu bao sắp thủng!
Trên đầu Nam Cung Giao còn một tầng nữa, dành riêng cho các quan thù tiếp bọn trọc phú, thương nhân.
Tửu khách chân chính chỉ được ngồi ở tầng trệt và lầu một. Song từ đấy, khách vẫn có thể nhìn thấy núi Tây Hà ở ngoại thành.
Tây Hà là một thắng cảnh đất Kim Lăng, cứ mỗi độ thu về, sau tiết sương giáng, lá cây phong, cây hoàng lư, cây thị trên núi trở nên đỏ rực, cảnh tượng muôn phần xinh đẹp, hấp dẫn bách tính và du khách. Người xưa có câu: "Lá Sương Giáng đỏ hơn hoa tháng hai ", là để chỉ trường hợp này!
Do vị trí thuận tiện nên tầng hai rất đông khách, đa số là con cháu các quan và thế gia công tử đất Nam Kinh.
Không muốn nhiều người nhận ra sự hiện diện của mình ở chốn này, Nam Cung Giao tính tiền rồi rời Phú Qúi Đại tửu lâu. Với đôi mắt tin tưởng và trí nhớ tuyệt luân, chàng đã nhớ rõ cách bố trí nhà cửa thông tư dinh Quách Thượng Thư.
Tuy không thể sánh với cha nhưng sức ăn của Nam Cung Giao cũng gấp ba người thường. Đĩa thức ăn lúc nãy chẳng thấm tháp gì, nên chàng tìm đến một phạn điếm hạng trung để ăn cho no.
Đầu canh ba đêm ấy, Nam Cung Giao thay áo dạ hành, mặt bịt kín tìm đến sào huyệt của kẻ thù!
Sau gần hai mươi hai năm trị vì, Minh Thành Tổ đã khiến nước Trung Hoa trở nên hùng mạnh, phú cường.
Triều cương vững vàng, đất nước thanh bình, chỉ ở những địa phương xa xôi mới có giặc cướp, còn chốn phồn hoa thì cùng lắm là vài tên trộm vặt.
Nam Kinh là trọng địa thứ hai, tập trung quan quân phương Nam nên lại càng an toàn, nhiều năm liền chưa hề xảy ra trọng án. Song cũng vì vậy mà bọn quân sĩ phòng vệ mất cảnh giác, tuần tra, canh gác lấy lệ, lòng chắc mẩm rằng sẽ chẳng có gì xảy ra!
Trinh Tâm là người nghiêm khắc, tuy thương con nhưng không hề nương tay khi dạy dỗ, nhờ thế Nam Cung Giao rất chuyên cần rèn luyện võ nghệ!
Là nam nhân, lại có thần lực hơn người, hiện nay, bản lãnh chàng đã cao hơn thân mẫu. Nếu không được thế thì Trinh Tâm đã chẳng yên lòng cho con đi báo huyết thù!
Trinh Tâm có tài học đạo và ký ức rất tốt, đã vẽ lại chân dung Trương Phụ và chín gã võ quan ác độc. Nam Cung Giao nhớ nằm lòng, nhưng chẳng biết họ Ở đâu mà tìm!
Chàng đến Nam Kinh vì nghe bọn lái buôn đồ gốm kể về lão tham quan Quách Tường An. Đêm nay, chàng sẽ phải bắt sống gã để tra lối, hạ lạc tám người còn lại sau đó mới giết!
Giòng máu anh hùng của họ Đặng lưu chuyển trong huyết quản Nam Cung Giao không hề biết sợ.
Nhưng vấn đề là chàng có bắt được Quách Tường An trước khi bị bọn vệ quân phát hiện hay không?
Trong cơ ngơi đồ sộ có cả trăm phòng và tiểu xá này, làm sao chàng tìm được chỗ ngủ của Quách Thượng Thư? Vị quan nào cũng có cả chục tỳ thiếp, mỗi đêm ân ái với một nàng!
Nam Cung Giao quyết định bắt một người để dò hỏi. Chàng đột nhập vào từ phía sau, vượt qua bức tường cao gần trượng, nhảy xuống vườn hoa.
Khu vực này được canh gác bởi một toán vệ binh. Chúng lười biếng đi tuần, quây quần cạnh ba chiếc đèn lồng mà tán gẫu và chuyền tay nhau bầu rượu.
Nam Cung Giao nương theo bóng đêm và cây cối trong vườn, tiến về phía dãy nhà ngang và vài căn tiểu xá, có lẽ dành cho bọn gia nhân cư ngụ.
Lần đầu đóng vai thích khách, lòng chàng không khỏi có chút hoang mang và hồi hộp. Chẳng chút kinh nghiệm, chàng chỉ dựa vào óc phán đoán và sự cẩn trọng mà thôi.
Khi đi ngang căn nhà bếp lớn, Nam Cung Giao giật mình vì nghe có tiếng người đang ngâm thợ Giọng lão già này khàn khàn, đầy vẻ thê lương, chẳng hay ho chút nào cả! Song điều đáng chú ý là việc đây, bản chất anh hùng cá nhân của đám hào khách có dịp biểu lộ. Chính tà lưỡng lập, tuy không đến nỗi chém giết nhau nhưng mỗi nhóm đều ngồi riêng!
Nam Cung Giao thích thú ngắm nhìn các võ sĩ Trung Hoa. Họ rất đa dạng gồm nhiều thành phần, xuất thân từ các địa phương, các môn phái khác nhau. Hầu hết đều ở lứa tuổi từ hai mươi lăm đến bốn mươi, vẻ cao ngạo, đắc ý hiện rõ trên dung mạo của những bậc anh hùng này. Họ tự hào vì đã có công lao với xã tắc nên nói cười sang sảng, kể lể những chiến công oanh liệt!
Bàn của Đặng Kiệm không có ghế nên chẳng xâm phạm. Do vậy, người khách vừa lên ngơ ngác nhìn quanh rồi tiến đến những bàn có ít người, xin được ngồi chung. Nhưng có lẽ do bộ dạng của hắn không gây được thiện cảm nên bị những bậc anh hùng kia lạnh lùng từ chối!
Vị khách này là một chàng trai tuổi đôi mười, võ phục bằng vải thô màu đen cũ kỹ, có đôi chỗ vá, lại rộng thùng thình cứ như là đi mượn hay trộm cắp của ai. Hắn lại thọt chân, bước đi khập khiễng, đầu tóc thì chẳng gọn gàng, vài trăm sợi ngắn dài phủ lòa xòa trên gương mặt rám nắng. Đôi môi hắn gọn gàng, nhưng lại lệch một bên, và trên cặp mắt to đen linh lợi kia là cặp chân mày cao thấp chẳng đều.
Chàng trai áo đen tội nghiệp ấy vẫn mỉm cười dù bị khinh rẻ. Hắn đã đến bàn của Nam Cung Giao, không mở lời hỏi xin chỉ nhìn chàng bằng ánh mắt vui vẻ!
Nam Cung Giao đưa tay:
- Mời huynh đài ngồi chung với tại hạ cho vui?
Chàng áo đen cười rạng rỡ:
- Huynh đài có lời mời dùng bữa, tiểu đệ vô vàn cảm kích!
Nam Cung Giao phát hiện đối phương có hàm răng trắng đều rất đẹp, và chàng cũng hiểu ẩn ý của gã. Chàng chỉ cho phép ngồi cùng bàn nhưng gã lại gài chàng phải đãi ăn.
Nam Cung Giao tủm tỉm cười:
- Các hạ quả là người nhanh nhẩu? Xin cứ tùy tiện gọi thức ăn, tạ hạ sẽ chiêu đãi!
Hán tử hớn hở an tọa, mở thực đơn ra gọi liền một lúc sáu món thượng hạng và một, vò rượu Thiệu Hưng năm mươi năm. Gã nheo mắt bảo khổ chủ:
- Tiểu đệ là người biết lễ nên chỉ gọi bấy nhiêu thôi!
Nam Cung Giao vẫn điềm nhiên:
- Nếu thích, các hạ có thể chọn thêm vài món nữa!
Chàng trai áo đen hơi ngỡ ngàng, liếc nhìn rõ bộ võ phục vải thô trên người nạn nhân băn khoăn nói:
- Huynh đài không bỡn tiểu đệ đấy chứ? Trông lại huynh đâu hơn gì tiểu đệ?
Nam Cung Giao gật gù:
- Đúng thế! Nhưng cùng lắm thì ta và các hạ Ở lại đây làm công cho tửu lâu mà trừ nợ!
Nhìn ánh mắt hoài nghi, tinh minh của chàng, hán tử áo đen biết ngay chàng nói đùa. Hắn phì cười:
- Té ra huynh đài cũng biết bỡn cợt người?
Hắn yên tâm cao giọng ra lệnh cho tiểu nhị:
- Ngoài sáu món vừa rồi, ngươi nhớ bưng thêm món tráng miệng nữa nhé!
Rồi hắn quay lại tự giới thiệu:
- Tiểu đệ là Mộc Kính Thanh hai mươi tuổi quê ở Chiết Giang, dám hỏi đại danh của huynh đài?
Nam Cung Giao xưng tên tuổi, quê quán, Mộc Kính Thanh nhăn nhó nói:
- Tiểu đệ nhỏ hơn hai tuổi xin nhận phận em! Để mừng buổi tương phùng, tiểu đệ xin kính đại ca một chung!
Nam Cung Giao tính tình phóng khoáng, đại lượng, dù bị ai chơi gác cũng chẳng hề giận. Chàng vui vẻ cùng Kính Thanh ăn uống lại còn khen gã khéo chọn thực đơn! Thái độ của chàng đã khiến Kính Thanh lấy làm lạ và rất khâm phục.
Gã cảm động nói:
- Tiểu đệ quả may mắn khi được làm em của Nam Cung đại ca!
Chàng cười khà khà:
- Ngươi đừng tưởng bở, nếu sau này ngươi phạm lỗi thì đại ca sẽ phát vào mông đấy!
Kính Thanh thoáng giật mình, chụp chung rượu ngửa cổ uống cạn!
Vài khắc sau bọn tiểu nhị tíu tít mang ghế ra sắp quanh bàn của Đặng Kiệm, chứng tỏ lão đã tới.
Họ Đặng đi cùng với một lão già áo gấm béo phệ, mặt vênh váo ra vẻ quan quyền. Theo sau là hai gã vệ sĩ to như hộ pháp sắc điệu dữ dằng. Hai gã này không được phép ngồi, đứng hầu như pho tượng.
Nam Cung Giao nhận ra Đặng Kiệm nhờ nốt ruồi son trên sóng mũi.
Chàng chăm chú quan sát vị biểu huynh của mình, lòng thoáng ái ngại.
Đặng Kiệm khá anh tuấn, người dong dỏng cao, râu thưa, tóc đen nhánh, mắt sáng, thường liếc nhanh.
Nam Cung Giao không thích cái cảnh Đặng Kiệm đi đâu cũng mang theo hộ vệ một cách trưởng giả như vậy!
Nhưng Mộc Kính Thanh đã hạ giọng nhận xét:
- Đại ca! Lão già cao gầy kia có tướng mạo của một kẻ gian tham, phản trắc!
Nam Cung Giao giật mình:
- Sao hiền đệ lại dám khẳng định như vậy?
Kính Thanh mỉm cười tự hào:
- Tiểu đệ được chân truyền khoa Ma y thần tướng của gia phụ, chưa hề nhìn lầm người!
Nam Cung Giao bán tín bán nghi, tự nhủ sẽ dò hỏi cho kỹ rồi mới tiếp xúc với Đặng Kiệm! Chàng giễu cợt Kính Thành:
- Sao ngươi không trổ tài xem tướng rồi hãy tìm chỗ ngồi mà cứ phải đi lòng vòng như ăn mày vậy?
Kính Thanh gượng cười:
- Thiện ác thì dễ phân biệt nhưng tật bủn xin thì tiểu đệ chẳng thể nhìn ra!
Hai người thù tạc thêm nửa canh giờ thì bọn Đặng Kiệm rời quán. Có lẽ họ đến đây để bàn bạc chuyện gì đó chứ chẳng phải là uống rượu ngắm cảnh.
Nam Cung Giao cũng muốn trở về khách điếm, định từ giả Kính Thanh thì phát hiện gã đang nhìn về phía thang lầu với ánh mắt sợ hãi.
Chàng nhìn theo, thấy một lão già to béo, râu tóc hoa râm, mặt vàng võ và võ phục cũng toàn một màu vàng rực rỡ!
Sau lưng lão còn có hai hán tứ áo trắng tuổi tam tuần, sắc diện cũng vàng vàng trông rất giả tạo và quái dị.
Mộc Kính Thanh thớ dài nói nhỏ:
- Đại ca! Kẻ thù của tiểu đệ đã tìm đến, cái mạng thỏ bé này e khó bảo toàn! Xin cảm tạ thịnh tình của đại ca, kiếp sau sẽ báo đền!
Nam Cung Giao nhíu mày:
- Họ là cao nhân phương nào vậy? Và vì sao ngươi lại kết oán thù với họ?
Mộc Kính Thanh rầu rĩ đáp:
- Nam Diện Cung ở Từ Châu quen thói ỷ thế hiếp người. Bảy tháng trước tiểu đệ vì cứu một dân nữ nên va chạm với gã Thiếu Cung chủ Tiền Thanh Giám. Tiểu đệ đâm thủng bụng dưới của gã dâm tặc nên bị Kim Diện Cung truy sát.
Nam Cung Giao mỉm cười:
- Sao ngươi không hạ thủ thấp xuống nửa gang để gã đổi tên thành Tiền Thái giám cho xong?
Mộc Kính Thanh có nước da rám nắng nên không biểu hiện được sự hổ thẹn, nhưng đôi mắt to đen của gã thì chẳng giấu nổi ai. Gã nhăn nhó:
- Tiểu đệ đang gặp nguy mà đại ca còn bỡn cợt được ư?
Lúc này, Hoàng Y lão Giả đã phát hiện ra Mộc Kính Thanh, liền bước đến.
Nam Cung Giao nói nhanh:
- Ta sẽ giúp Thanh đệ một taỵ Nhưng nếu địch không lại thì phải bỏ chạy ngay!
Kính Thanh không ngờ Nam Cung Giao lại dám vì mối tình sơ ngộ mà động chạm đến một đối thủ đáng sợ như Kim Diện Cung!
Gã bật cười:
- Đại ca đã chí tình như vậy thì tiểu đệ chẳng thèm chết nữa!
Lúc này, lão áo vàng đã đứng cách bàn một trượng, cất giọng âm trầm:
- Mộc tiểu tử! Người của Kim Diện Cung đã vây chặt nơi này, ngươi đừng mong tẩu thoát! Hãy khôn hồn mà bó tay chịu trói!
Mộc Kính Thanh phá lên cười hăng hắc:
- Kim Diện Cung dung dưỡng cho đệ tử ức hiếp lương dân, bị bổn thiếu hiệp trừng trị là thích đáng lắm rồi, sao còn đến đây diệu võ dương oai? Ta là tùy tướng của Tổng Trấn Quân vu.
Tích Giang, cùng các bậc anh hùng hảo hán đây dầy công hạng mã tiêu diệt giặc Phù Tang, ai dám đụng vào là có ý làm phản đấy!
Các hào khách võ lâm nghe họ Mộc tán tụng mình là anh hùng, khoan khoái ưỡn ngực, nhìn bọn Kim Diện Cung với ánh mắt đe dọa.
Dù họ không ưa gì Mộc Kính Thanh nhưng dẫu sao mấy tháng qua cũng từng cùng tham chiến đấu!
Lão già áo vàng chính là Hộ Cung Đệ Tam Kiếm Sứ, tên gọi Tưởng Phi Diên. Thấy Mộc Kính Thanh được sự đồng tình của nhiều người, họ Tưởng hơi chột dạ.
Lão nham hiểm nói:
- Đã làm thì phải có gan chịu, sao lại kéo người khác vào đỡ đòn? Nay ngươi đã giải ngũ, lão phu sợ gì mà không dám hỏi tội? Còn ai muốn kết oán với Kim Diện Cung thì lão phu chẳng dám ngăn cản!
Thanh danh Kim Diện Cung lừng lẫy võ lâm hơn chục năm nay nên quả là ít có ai muốn chuốc họa vào thân! Hơn nữa, Tưởng Phi Diên còn vòng tay nói với quần hào:
- Kính cáo chư vị anh hùng! Rằm tháng này, bổn cung sẽ mở lôi đài tuyển lựa người tài đức để sánh duyên với Thần nữ Kim Diện Cung là Tiểu thư Tiền Vân Mị Lão phu thay mặt bổn cung, mời chư vị thiếu hiệp đến tham dự!
Tiền Vân Mi là tuyệt thế mỹ nhân, tuổi đôi mươi được đám hào kiệt võ lâm tôn thờ khao khát. Nay nghe tin nàng kén chồng, ai nấy hớn hở nói cười quay sang ủng hộ Kim Diện Cung, cứ như mình đã thành rể đông sàng vậy!
Một hán tử cao to lên tiếng:
- Này tiểu tử họ Mộc! Ngươi mau bó giáp qui hàng để Tưởng tiền bối còn phải về cung chuẩn bị lôi đài nữa!
Mộc Kính Thanh không ngờ gậy ông đập lưng ông, hậm bực đáp:
- Hạng tôm tép như Hồ Nhị ngươi mà cũng mơ tưởng làm chồng Tiền Vân Mi hay sao mà lại vuốt mông Kim Diện Cung? Trong phòng the thì cái lỗ mũi to tướng, xấu xí của ngươi sẽ dùng được vào việc gì?
Hán tử họ Hồ kia quả đúng là có cái mũi to quá khổ, đỏ như chu sa, đầy những gân máu vì rượu chè. Miệng lưỡi của Mộc Kính Thanh sắc bén và độc ác luôn đánh thẳng vào nhược điểm của kẻ khác.
Quần hào phá lên cười, và có người bật thốt:
- Để ngửi trung tiện của mỹ nhân chớ để làm gì!
Hồ Nhị thẹn chín người, bị nhấn chìm trong trận bão cười làm cung chuyển tửu lâu!
Hộ Cung Kiếm Sứ Tưởng Phi Diên bực bội nói:
- Mộc Kính Thanh! Mau đứng lên theo lão phu về Kim Diện cung chịu tội!
Lão và hai thủ hạ rút kiếm thị uy!
Bỗng Nam Cung Giao cao giọng gọi:
- Tiểu nhị đâu?
Gã hầu sáng vội chạy đến.
Chàng chỉ Tưởng Phi Diên và nói:
- Ta ăn chưa xong mà bị phá đám, vậy người hãy tính tiền bàn này cho lão!
Gã tiểu nhị bói rối nhìn họ Tưởng, chẳng biết làm sao. Trong đám quần hào cũng có những người không ưa gì Kim Diện Cung, hoặc biết chắc mình chẳng thể trở thành phu quân của Thần Nữ, nên chẳng đứng về phe nào cả! Họ vui vẻ đưa Tưởng Phi Diên vào thế kẹt!
- Đúng vậy! Trời đánh còn tránh bữa ăn, Kim Diện Cung phải
thanh toán tiền cho tửu lâu, chẳng lẻ vài lượng bạc cũng chẳng có?
Tưởng Phi Diên giận run người, sắc mặt càng vàng thêm. Lão hậm hực hỏi tiểu nhị:
- Bao nhiêu?
Gã nhẩm tính rồi cung kính đáp:
- Bẩm lão gia năm mươi sáu lượng!
Họ Tưởng giẫy nẩy:
- Làm quái gì mà nhiều thế?
Gã tiểu nhị gải đầu, mỉm cười cầu tài:
- Bẩm lão gia! Họ gọi toàn món đắt tiền nhất của bổn điếm! Riêng vò rượu Thiệu Hưng năm chục năm này cũng đã trị giá đến mười hai lượng!
Có ai đó khích bác:
- Bà ấy vẫn còn sống!
Sau hơn khắc mừng mừng tủi tủi, Nguyễn Tuấn hăm hở dẫn đường cho Nam Cung Giao đến tiểu viện của ả tỳ thiếp thứ chín, nơi Quách Thượng Thư thường xuyên qua đêm.
Chờ Nguyễn Tuấn đi khá xa, Nam Cung Giao bắt đầu hành động.
Nguyễn lão là đầu bếp chính của Quách Thượng Thư, thường xuyên phục vụ khách khứa nên nghe ngóng được rất nhiều. Ông đã kể cho Nam Cung Giao biết hạ lạc của Trương Phụ và bảy tên võ quan còn lại, nên chàng không cần phải tra hỏi Quách Tường An nữa.
Thu năm nay, vùng hạ du Trường Giang ít mưa nên trời oi bức, các cánh cửa sổ thông ra vườn hoa đều mở rộng.
Nam Cung Giao nghe tiếng động, ghé mắt nhìn qua song.
Trên chiếc giường gỗ quí cuối phòng là một lão già trần truồng đang ngủ say như chết, tiếng ngáy đều đều vang lên!
Quách Thượng Thư đã sáu mươi lăm nên kiệt lực sau trận thư hùng với nàng tiểu thiếp trẻ trung.
Có thể vì chưa thỏa mãn, hoặc vì khó chịu bởi tiếng ngáy của lão chồng già nên mỹ nhân chưa ngủ. Cửu Nương chỉ mặc phong phanh tấm áo ngủ bằng the mỏng, yếm đào chẳng có dây lưng lười buộc nên thân thể nõn nà lồ lộ cả ra dưới ánh nến.
Nàng đang đứng cạnh bàn, say mê ngắm nghía những viên ngọc quí lấy từ rương gỗ nhỏ ra.
Cửu Nương là danh kỹ số một của thành Nam Kinh, nhan sắc và tài cầm kỳ thi họa nổi tiếng khắp phương Nam. Quách Tường An đã chuộc nàng ra với giá vạn lượng bạc, biến mỹ nhân hai mươi ba tuổi này thành của riêng.
Họ Quách mê nàng như điếu đổ, tặng rất nhiều vàng ngọc. Bao nhiêu của đút lót, hối lộ đều chạy cả vào tay Cửu Nương.
Mỹ nhân có nhũ danh là Hàn Ly Hoa, mặt đẹp như ngọc nhưng lòng tham cũng chẳng nhỏ!
Nam Cung Giao ngượng ngùng dán mắt vào thân hình thon dài, nẩy nỡ của người đàn bà lẳng lơ kia, nghe lòng nổi sóng. Chàng là trai mới lớn, dục hỏa rất vượng nên khó thoát khỏi sự hấp dẫn của vẻ đẹp lõa lồ, khêu gợi trước mắt.
Song Nguyễn Tuấn vừa mới kể cho không nghe về tính tình độc ác, tàn nhẫn của Ly Hoa. Nàng ta rất hà khắc với bọn tỳ nữ, gia nhân, nhất là những người gốc An Nam. Chỉ một chút sơ suất nhỏ, họ cũng phải chịu những trận đòn rách thịt, và phải nghe những lời chửi rủa nặng nề! Câu An Nam cẩu chủng là thành ngữ luôn gắn trên môi Hàn Ly Hoa.
Nam Cung Giao có nửa giòng máu Giao Chỉ, lại hết dạ tôn kính mẫu thân nên rất phẫn nộ. Lửa giận đã giúp chàng bình tâm lại, và thầm hổ thẹn vì sự hiếu sắc của mình.
Nam Cung Giao đi vòng ra phía sau, may mắn tìm được một ô cửa sổ tròn không chấn song đang mở toang để đón chút gió Tây hiếm hoi.
Cửa sổ này thuộc về phòng hai ả tỳ nữ thân tín của Ly Hoa.
Nam Cùng Giao trèo vào, điểm huyệt mê họ rồi mở cửa phòng đi lên phía trước.
Chàng âm thầm lao đến khống chế Cứu Nương, biến nàng ta thành pho tượng gỗ câm lặng, chỉ còn đôi mắt đầy khiếp sợ kia là chuyển động.
Trinh Tâm tinh thông y lý nên Nam Cung Giao rành rẽ kinh mạch, nhận huyệt rất chính xác. Chàng xuất thủ từ phía sau nên Quách Cửu Nương không hề nhìn thấy vóc dáng.
Nam Cung Giao êm ái bước đến giường bát bửu một tay bịt chặt miệng, tay kia cắm thẳng tiểu đao vào tim kẻ thù!
Quách Tường An dẫy dụa một lúc rồi tuyệt khí, lìa đời trong trạng thái trần như nhộng, y hệt lúc chào đời!
Nghĩ đến việc lão ta từng cưỡng bức đám nữ binh của mẫu thân, và còn định tiết mạn cả bà, Nam Cung Giao liếc nhìn khúc thịt ỉu xìu, thảm hại kia, mỉm cười tinh quái vung đao hớt đứt.
Khi suy nghĩ cách trừng trị tính ác độc của Hàn Ly Hoa, máu khôi hài của họ Nam Cung đã nổi lên.
Nam Cung Giao điểm thêm Thùy Huyệt Cửu Nương, vác nàng ta đặt lên giường nằm ngược chiều với Quách Tường An.
Chàng nhét đoạn của quý vào chiếc miệng anh đào và đặt tay trái Ly Hoa vào cán tiểu đao.
Với hiện trường này, Cửu Nương sẽ bị bọn bộ đầu Nam Kinh hành hạ đến sói tóc!
Nguyễn lão đã cho Nam Cung Giao biết rằng có một số người Giao Chỉ muốn trốn về quê hương nhưng không có lộ phí. Do vậy chàng tìm một mảnh vải, bỏ rương châu báu và ngân phiếu vào đấy, cột lại vác lên vai và thoát ra.

Kiếm thời nhà Chu chỉ khoảng từ một gang đến hai gang tay người lớn, chủ yếu vì đồng xanh có tính mềm dẻo không đủ bền chắc để chế tạo kiếm dài.
Sau thời Xuân Thu, kỷ thuật luyện kim của Trung Hoa tiến bộ khả quan, cho ra đời những thanh trường kiếm bằng thép sắc nhọn, dài đến khoảng bốn gang tay, kể cả chuôi.
Những bảo kiếm lừng danh như Cam Tương, Mạc Gia, Trạm Lư, Thái A, Long Tuyền... đều là sản phẩm thời kỳ này.
Và giờ đây, vũ khí của Hàm Đan kiếm cũng có kích thước như trên. Kiếm ngắn hơn thì kiếm ý cũng xảo hơn, để bổ khuyết cho sự thua thiệt về độ dài.
Kiếm phái của ba lão già đất Ham Đan ảo diệu và nhanh như chớp giật. Màn kiếm ảnh quanh thân họ dầy đặc kín đáo, liền lạc như da trời, khiến đối phương khó nhìn ra sơ hở.
Với công lực thâm hậu, ba thanh kiếm ngắn kia đánh bạt mọi ngoại lực, hung hãn ập đến tấn công bằng những đường kiếm bất ngờ, hiểm ác phi thường.
Sách Hán Xương quả xứng danh Cuồng Vũ Đao, chiêu thức dồn dập, liên tục và mãnh liệt như bão táp mưa xạ Lão hùng hục lao vào đối phương, chẳng chút sợ hãi, sẵn sàng đổi mạng.
Đao không nhanh bằng kiếm nhưng lực đạo cực kỳ dũng mãnh, gây ra thương tích cũng trầm trọng hơn kiếm.
Sách Hán Xương lại có lối đánh liều lĩnh, táo bạo nên đã cầm đồng với lão Đại!
Song, Mộc Kính Thanh lại tỏ ra vất vả khi phải đối phó với Đệ Tam Kiếm Mạc Quan Tung.
Mũi thép ở đầu cây nhuyễn tiên của Kính Thanh tuy xảo diệu tuyệt luân nhưng không sao xuyên thủng được lưới kiếm quanh thân đối thủ.
Gã phải tận dụng khinh công, thay đổi vị trí, mỗi khi Mạc Quan Tung áp sát.
Đấu pháp này sẽ bị phá sản nếu chín gã đệ tử Hồ Bang kia tham chiến. Nhưng vì tự ái, làm Đan Tam kiếm đã không ra lệnh cho thủ hạ nhập trận.
Phần Nam Cung Giao thì khác hẳn, chàng vui mừng giao đấu với một kiếm sĩ lừng danh để kiểm chứng sở học và thu thập thêm kinh nghiệm.
Từ ngày xuất đạo đến giờ, chàng chưa đánh trận nào cho ra trò cả.
Kiếm của Nam Cung Giao dài hơn kiếm của Mạc Đắc Khoa gần hai gang.
Chàng ung dung thi triển pho Lạc Điểu kiếm pháp gia truyền, điểm nhanh hàng trăm nhát kiếm vào những yếu huyệt từ mặt đến đầu gối họ Mạc, khiến lão bối rối, phải giữ khoảng cách và tìm sơ hở mà nhập nội.
Lão thực sự kinh ngạc trước pho kiếm kỳ lạ, cũng như trình độ kiếm thuật cao siêu của chàng vô danh.
Kiếm pháp nhà họ Đặng đất Giao châu qua có những nét đặc dị, khác với võ học Trung Hoa.
Khi đơn đấu, Nam Cung Giao đứng thẳng người, xoay nghiêng vai hữu ra phía trước để tăng chiều dài cánh tay, cũng như giảm bớt diện tích đối diện kẻ thù.
Trong tư thế này, chân chỉ có thể bị thương ở những huyệt dọc sườn phải.
Với chiều cao bản thân, cộng thêm chiều dài của thanh kiếm kỳ lạ, Nam Cung Giao đã phát huy được hết tính độc đáo của pho kiếm pháp phương Nam.
Bản lãnh chàng hiện nay còn lợi hại hơn cửu phụ Đặng Dung năm xưa. Ông ta thấp hơn chàng một cái đầu, không thể sử dụng thanh kiếm dài quá khổ được.
Thủ pháp này có cái tên rất tượng hình là Phiên Dực Trung Phi (xoay cánh bay dọc). Cánh tay tả của người kiếm thủ không bắt kiếm ấn, thủ trước ngực, mà lại có nhiều lúc giăng ngang như cánh chim rộng mở, hoặc gập lại che sườn trái, bàn tay xoè theo thế cương đao.
Thân hình Nam Cung Giao lúc nào cũng thẳng băng, tiến thoái nhanh như gió bằng lực ở đầu bàn chân. Chỉ có đôi vai chàng uyển chuyển theo đường kiếm.
Thanh bảo kiếm kỳ dị bay lượn như rồng thiêng, lúc thủ thì mềm mại che kín thân thể, lúc công thì loang loáng tựa ánh chớp.
Nhị lão Mạc Đắc Khoa toát mồ hôi hột, nghiến răng chống đỡ những chiêu kiếm đáng sợ của đối phương, lão thủ nhiều hơn công, liên tiếp bị đẩy lùi. Chịu thế hạ phong trước một tiểu tử miệng còn hôi sửa, nỗi đắng cay trong lòng Mạc lão biến thành cơn giận dữ và căm hận.
Lão múa tít bão kiếm đem hết sở học ra để quân bình thế trận.
Kiếm kình rít vo vo, xé nát không gian, vì họ Mạc đã dồn hết hơn bốn mươi năm công lực tu vi thâm hậu của lão, tạo nên màn kiếm ảnh kiên cố như bức tường thép chiếm được ưu thế khi va chạm.
Tiếng sắt thép ngày càng vang lên chát chúa, chứng tỏ trận đấu mỗi lúc thêm quyết liệt.
Nam Cung Giao cũng phấn khởi nắm chắc chuôi kiếm kỳ ảo của đối phương.
Giờ đây, luồng kiếm quang trở nên xanh biếc bay lượn trong giàn mưa tuyết lất phất, khống chế bước tiến của đối thủ.
Chàng đã phải lùi lại bốn lần, rồi lại tiến lên, và lần phản công nào cũng để lại những vết thương rỉ máu trên cơ thể Mạc Đắc Khoa.
Mạc lão cứ ngỡ chàng không đủ sức thọc kiếm sâu hơn nữa, nên càng điên cuồng xông tới.
Nam Cung Giao càng đánh càng hiểu hết, được tinh túy của pho Lạc Điểu kiếm pháp nên vô cùng cao hứng, chẳng vội gì mà kết liễu cuộc chiến.
Song lão Tam, Mạc Quan Tung đã chán ngán phép du đấu vừa đánh vừa chạy của Mộc Kính Thanh nên ra lệnh cho chín gã cao thủ xông vào trận.
Cục diện lập tức thay đổi vì bọn Nam Cung Giao lâm vào thế bị giáp công, phải phòng thủ cả sau lưng.
Mộc Kính Thanh không còn đường tránh né, sợ hãi thét lên:
- Đại ca mau hạ độc thủ, nếu không tiểu đệ sẽ không cầm cự nổi!
Nam Cung Giao cũng đã nhận ra tình trạng hiểm nghèo, liền xuất chiêu Cô Điểu Nhập Vân (Chim lẻ vào mây), thanh trường kiếm của chàng vun vút điểm nhanh, tựa như vẽ nên hàng trăm bóng chim đang lao vào tầng mây u ám.
Thực ra, mũi kiếm của chàng liên tục bắn vào cơ thể đối phương.
Mạc Đắc Khoa kinh hoàng trước chiêu tuyệt kiếm, đôi mắt hí đầy ánh sợ hải, đôi môi mỏng mím chặt vì đang nỗ lực chống đỡ, bảo toàn cái mạng già.
Như chính cái tên của chiêu kiếm, chỉ một bóng chim lẻ loi bay vào mây, mũi kiếm của Nam Cung Giao lặng lẽ trổ một lỗ trên ngực trái đối phương.
Chàng không kịp chờ nghe nạn nhân rú lên lìa đời, vội quay ngoắt lại đón đỡ ba thanh đao của bọn đệ tử Hồ Bang!
Tiếng thét thê lương của lão Mạc Đắc Khoa đã khiến bào huynh và bào đệ của lão chấn động tâm can.
Họ đau lòng khôn xiết vì tình anh em ruột thịt, bỏ mặc Cuồng Vũ Đao và Mộc Kính Thanh cho thủ hạ, lướt về phía Nam Cung Giao.
Mạc Quang Tung xem xét thi thể nhị ca, còn Mạc Vi Hầu gầm vang, quyết phân thây gã tiểu tử áo cừu đen kia ra mà báo thù.
Không để bị rơi vào thế bị giáp công, Nam Cung Giao đành phải nhanh chóng hạ thủ ba gã đao phủ áo trắng.
Chàng tìm đến, rùn thấp người, kiếm vươn dài, xoè như nan quạt, trụ một chân quay đủ vòng lần lượt tấn công cả ba mục tiêu.
Đây chính là chiêu Nguyệt Hạ Điệu Vũ (chim múa dưới trăng) trong tuyệt học giòng họ Đặng.
Tổng cộng chàng đã phải đánh ra đến một trăm linh hai thức kiếm, để khóa vũ khí của đối phương, rồi hạ thủ!
Tiếng đao kiếm chạm nhau hòa lẫn với tiếng kêu đau đớn, và ba gã Hồ Bang xấu số kia đồng loạt ôm bụng ngã gục.
Mạc Vi Hầu đến nơi, chứng kiến thảm cảnh của thủ hạ, càng điên tiết, múa kiếm đâm chém như mưa.
Bản lĩnh của lão Đại cao thâm hơn lão Nhị một bậc, cả về kiếm thuật lẫn tu vi.
Nam Cung Giao đỡ đòn, nghe thân kiếm rung động, cổ tay tê chồn, thầm khâm phục đối phương.
Dù chân khí đã hao hụt sau trận đấu với Mạc Đắc Khoa, nhưng chàng vẫn tự tin mình có thể thắng được Mạc Vi Hầu.
Càng gặp đối thủ cao cường trong kiếm đạo, chàng càng vươn tới đỉnh cao của pho Lạc Điểu kiếm pháp.
Sau lưng không còn kẻ thù, Nam Cung Giao yên tâm thi triển yếu quyết Phiếu Dực Tung Phi, cùng Mạc lão Đại so tài.
Những chiêu kiếm huyền ảo, kỳ lạ của chàng đẩy lùi những đợt sóng kiếm cuồng nộ của Mạc Vi Hầu và mấy lần đưa lão vào hiểm cảnh.
Cái chết cận kề đã khiến Mạc Lão Đại tỉnh táo lại ra chiêu thận trọng hơn. Khi lão đã bình tâm thì kiếm thuật càng bội phần lợi hại.
Tam lão Mạc Quan Tung nhận ra Nhị ca đã tuyệt khí, liền ôm xác đặt vào vệ đường, rồi lao đến hợp lực với anh cả.
Nhưng Mộc Kính Thanh đã kịp bỏ đấu trường tung mình chặn đường Mạc Quan Tung.
Gã và Sách Hán Xương đã giết được hai tên đao thủ, nên một mình Sách lão cũng đủ sức đương cự với bốn tên còn lại.
Võ công Kính Thanh không bằng Mạc Lão Tam song khinh công của gã linh diệu phi thường, đấu pháp lại cực kỳ giảo hoạt, nên đối phương bị cầm chân, không sao bứt ra được!
Gã nhởn thơ như cánh bướm, tận dụng chiều dài của cây nhuyễn tiên, mở những cú độc địa và nhẩy lui những bước dài khi gặp khó khăn.
Nhờ vậy mà Nam Cung Giao được thong thả chiến đấu với một mình Mạc Vi Hầu.
Mạc lão Đại năm nay sáu mươi bốn tuổi, luyện kiếm từ thuở lên mười, đánh gọi là kiếm sĩ nhà nòi. Ông nhận ra vô số hầu hết các kiếm phái trong võ lâm Trung Nguyên, song không sao biết được lai lịch pho kiếm mà gã trẻ tuổi kia đang thi triển.
Sau trăm chiêu, Mạc Vi Hầu đã cảm nhận được sự sa sút chân nguyên của đối phương, mừng rỡ tấn công ráo riết, cố kết liễu trước khi Cuồng Vũ Đao rảnh tay, vì đã giết sạch bốn gã bang chúng Hồ Bang.
Gừng càng già càng cay!
Mạc Lão Đại đem hết cơ trí và kinh nghiệm ra thi thố, tạo nên một đấu pháp biến hóa linh diệu hơn hẳn em mình.
Cũng là những chiêu kiếm ấy, song Mạc Vi Hầu phối hợp nhuần nhuyễn, khéo léo, sứ dụng đúng lúc, đúng chỗ nên đường kiếm lợi hại bội phần.
Nam Cung Giao xuống sức song vẫn bình tâm vì cục diện đang có lợi cho phe chàng.
Cuồng Vũ Đao đã chém chết hai tên bang chúng, chẳng bao lâu nữa sẽ đến tiếp ứng chàng.
Do không cần để dành sức lực cho một trận đấu dài, chàng hào phóng dồn lực đạo vào những đòn sấm sét quyết chẳng chịu kém lão kiếm thủ cáo già.
Tiếng gào đau đớn của một trong hai gã bang chúng đã khiến Mạc Vi Hầu nóng ruột, hạ sát thủ ngay.
Lão bốc thẳng lên không trung dồn hết gần hoa giáp công lực vào thân kiếm, hóa thành đám mây sáng bạc, sa xuống đầu tiểu tử đáng ghét kia.
Đây là chiêu Kiếm Sơn Áp Đỉnh (Núi kiếm đè đầu) tuyệt học trấn gia của giòng họ Mạc đất Triệu, chỉ mình Mạc Vi Hầu được phép luyện, vì lảo là trưởng nam.
Khí thế của chiêu kiếm quả mãnh liệt như núi đổ, tốc độ nhanh tựa sao rơi, Nam Cung Giao thức ngộ được hiểm nguy, vội cắn răng cử kiếm đánh chiêu Lạc Điểu Hoan Nguyệt (Chim lạc mừng trăng).
Trường kiếm của chàng run rẩy liên tục, phát ra những tiếng líu ríu, và mũi kiếm vẽ nên vô số bóng ảnh hướng lên trời, đón lấy tảng mây kiếm khí lạnh lẽo ghê người.
Tuyệt học của Giao Châu quả là kinh thế hãi tục, phá được chiêu Kiếm Sơn Áp Đỉnh lừng danh.
Kiếm của Nam Cung Giao dài hơn kiếm đối phương một đoạn nên đã chọn mục tiêu trước.
Mạc Vi Hầu bị đâm thủng vai trái và bắp tay hữu, song thức kiếm cuối cùng của lão cũng soi được một lỗ trên ngực phãi đối phương.
Nam Cung Giao vung cước đá thẳng vào bụng dưới kẻ thù.
Mạc Vi Hầu kịp đưa tả thủ đỡ đòn nhưng cú đá quá mạnh đủ khiến lão lọi cổ tay, đau đớn tung mình ra xa gọi Nhị đệ đào tẩu.
Sách Hán Xương đã giết xong tên đao thủ cuối cùng.
Mộc Kính Thanh hớt hải chạy lại xem xét thương thế Nam Cung Giao.
May thay, vết kiếm thương không sâu vì thiếu lực đạo, chỉ cần điểm huyệt chỉ huyết bôi thuốc kim sang rồi băng bó lại là xong.
Nam Cung Giao nghe bàn tay mềm mại của Kính Thanh run rẩy khi chăm sóc vết thương cho mình, liền phì cười:
- Ngươi giết người cũng giỏi, sao lại bối rối trước một vết thương cỏn con như vậy?
Kinh Thanh cười hăng hắc:
- Tại tiểu đệ phải nín thở vì mùi hôi hám của thân thể đại ca đấy thôi!
Nam Cung Giao giả đò giận dữ:
- Ngươi chê hôi thì đêm nay ta sẽ ôm ngươi mà ngủ đấy! Lâu rồi ngươi sẽ quen dần, cũng như gia mẫu đã từng chê gia phụ nặng mùi, nhưng chẳng bao giờ chịu ngủ một mình cả!
Ba người cười vang, và Cuồng Vũ Đao tò mò hỏi:
- Nam Cung công tử là truyền nhân của vị minh sư nào mà lại có võ công cao siêu như vậy?
Sau khi chứng kiến chàng giết Nhị Lão Mạc Đắc Khoa, đuổi chạy Đại Lão Mạc Vi Hầu, Sách Hán Xương vô cùng khâm phục, một lòng tôn kính.
Lão quyết chí đi theo chàng đến cùng, dẫu phải chịu phận nô bộc cũng cam tâm.
Nam Cung Giao cười đáp:
- Tiền bối quá khen khiến tại hạ thêm hổ thẹn! Chút sở học gia truyền quả chưa đủ để ngang dọc Giao Châu, vì kiếm của Mạc Vi Hầu chỉ dài thêm một chút là tại hạ đã ra ma rồi!
Kính Thanh trợn mắt bác ngay:
- Đại ca chớ giả đò khiêm tốn làm gì cho uổng công! Nếu đại ca không hao tổn chân khí để giết Mạc Đắc Khoa thì lão Vi Hầu đã bõ mạng đương trường!
Cuồng Vũ Đao gật gù khen phải, tiếp tục tán dương khiến Nam Cung Giao hổ thẹn, nhẩy lên lưng ngựa, đốc hai bạn đồng hành rời khỏi vùng đất tanh mùi máu.
Họ chẳng còn tâm trạng đâu mà ghé vào ngoạn cảnh Hổ Khâu nữa!
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: 4VN.net
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---