Chương 7

Khi Cedric de Saxon thấy con trai mình ngã ngựa trên trường đấu Ashby, phản xạ đầu tiên của ông là lệnh cho gia nhân chạy ra cấp cứu con; nhưng lệnh đó vội tắt trên môi ông.
Ông không thể thừa nhận công khai người con đã bị đuổi ra khỏi nhà. Tuy nhiên ông căn dặn Oswald phải để mắt tới Ivanhoé, phải chở anh đi ngay Ashby một khi đám đông đã giải tán.
Nhưng Oswald không thực hiện được lệnh của chủ. Một lúc sau, đám đông có giải tán đi thật; nhưng đã có những bàn tay khác khiêng chàng hiệp sĩ bị thương đi nơi khác: Oswald mất công tìm mãi Ivanhoé trong các lều nhưng chỉ thấy những vết máu, anh không thể biết giờ đây Ivan-hoé tình trạng ra sao: hình như có những nàng tiên đến bế anh đi.
Oswald dễ tin nhảm như những người Saxons khác có lẽ sẽ giải thích Ivanhoé biến đi bằng cách như vậy nếu anh không chợt nhìn thấy một người ăn mặc kiểu giám mã mà anh nhận ra là bạn anh, anh chăn lợn Gurth. Anh chàng này lo lắng cho số phận của thân chủ mình, tuyệt vọng vì bỗng nhiên chẳng thấy ông đâu, liền bổ đi tìm khắp nơi mà không hề lo lắng cho thân phận mình.
Oswald thấy bổn phận mình phải bắt Gurth là một nông nô bỏ trốn; Gurth ắt sẽ bị ông Cedric trị tội.
Tuy nhiên Oswald vẫn ra sức thăm dò tin tức về số phận của Ivanhoé, nhưng chỉ được mỗi một tin là chàng đã được các kẻ hầu ăn mặc tử tế khiêng lên chiếc kiệu của một bà đến xem rồi khiêng ra khỏi trường đấu. Nhưng họ đã đi theo lối nào thì không ai trả lời anh được. Vậy là anh về báo tin ấy cho chủ và làm cách cho Gurth đi theo, người anh coi như kẻ đào ngũ.
Cedric rất lo lắng về số phận của con trai cho đến khi Oswald trở về báo tin trên nhưng ông không biết là Isaac và cô con gái Rebecca là những người đã săn sóc, giúp đỡ con trai mình.
Cả hai đều đội ơn chàng hiệp sĩ đã giúp đỡ họ.
Với Isaac, chàng đã ngăn không cho Brian de Bois-Guilbert bắt giữ, với cô gái Rebecca, chàng đã giữ lại cho cô một người cha mà cô rất đỗi yêu thương. Còn rất nhiều năm sau nữa, Cedric.và Ivanhoé hai cha con không biết đã sống gần nhau.
Cedric, Athelstane và lady Rowena cùng với một số gia nhân lên đường trở về nhà. Trong khi nhà quý tộc Athelstane chỉ nhớ tới bữa ăn đầy những thức ăn ngon ở lâu đài Asyby thì Ce-dric de Saxon sảng khoái khi nghĩ đến trận đấu mà một người Saxon đánh bại hoàn toàn năm hiệp sĩ Normanrd. ôi! Đương nhiên ông càng cảm thấy tự hào khi người đó chính là con trai ông, tuy nhiên, ông vẫn chưa tha thứ cho con ông đã yêu Rowena cũng như chưa tha thứ cho anh đã theo chân một ông vua đi phiêu lưu trận mạc, một ông vua anh dũng kiên cường có lẽ, nhưng là một kẻ tiếm quyền. Còn lady Rowena, nàng tư lự. Nỗi vui mừng được gặp lại người yêu giờ không bằng sự lo lắng về vết thương trầm trọng của anh. Anh không vượt qua được mối hiểm nghèo đó thì sao? ông dòng templier hằn học không tìm cách trả thù hèn nhát trong lúc anh đang suy yếu vì vết thương sao?
Wamba và Gurth đi giữa đoàn tùy tùng.
Gurth tay bị trói nhưng không vì thế mà không cười đùa với anh bạn Wamba. Hai gã rất vui thích khi nghĩ cậu chủ đã được tuyên dương vô địch. Hình phạt Gurth phải chịu không làm anh lo lắng lắm. Wamba còn nhiều lần rút con dao găm rất sắc ra khỏi thắt lưng. Anh đưa mắt trông chừng những gia nhân cùng đi và ra hiệu cho Gurth biết anh đang chờ thời cơ cắt dây trói cho anh.
Các lữ khách của chúng ta vừa đi qua một cánh đồng lớn và họ sắp đi vào những cánh rừng có tiếng là nguy hiểm vì có nhiều tên outlaws mà họ sẽ là mục tiêu để chúng tấn công. Cedric và Athelstane không chút sợ hãi những tên ăn cắp vườn này dù họ phải đi một phần đêm trong rừng; số đông trong bọn họ là nông dân và là những yeoman gốc Saxon: thường người ta tin rằng chúng không cướp của và giết hại đồng bào chúng.
Bỗng nhiên các lữ khách nghe thấy những tiếng kêu rên rỉ không cách xa họ mấy làm họ chú ý. Họ đến nơi có tiếng kêu thì thấy một cái kiệu che kín, người ta mới tháo ngựa và dắt đi; một cô gái ăn mặc sang trọng kiểu áo Do Thái ngồi khóc bên cạnh kiệu và một ông già đội cái mũ không vành màu vàng hẳn cũng là một ông.già Do Thái. ông đi đi lại lại vẻ tuyệt vọng, tay xoắn lại như đang chịu những nỗi đau khổ dằn vặt to lớn nhất.
Athelstane và Cedric hỏi làm sao ông lại ở nơi này với cô con gái mà không có ngựa và gia nhân đi cùng; Isaac d’York - vì chính là ông ta - nói cho hai ông Saxons biết là ông có thuê ở Ashby sáu người vũ trang đi theo; họ sẽ đưa ông đến tận Doncaster, kiếm ngựa cho ông và cô con gái, mua la để thồ cái kiệu trong có người bị thương nhưng sáu tên khốn nạn đã bỏ rơi ông và cô con gái ở chỗ này. Chúng tháo ngựa đi vì sợ những tên outlaws mà một người đốn gỗ trước đó cho ông biết đã gặp một toán đông cách đây không xa.
Ông già Do Thái nói, vẻ khúm núm sợ sệt:
- Nếu các quan cho phép chúng tôi được núp dưới bóng các quan, đi cùng đường thì ơn ấy chúng tôi không bao giờ quên.
- Tên Do Thái chó má kia! - Athelstane nói.
- Nếu những tên outlaws chỉ ăn cướp của các người như nhà ngươi thôi thì ta cho họ là những người rất tử tế đấy vì ngươi còn ăn cướp của tất cả mọi người kia mà.
Câu mắng trên của Athelstane không làm vừa ý ông Cedric. ông nói:
- Tốt nhất là cho họ vài con ngựa để họ có thể tiếp tục lên đường và cử hai người đi với họ đến làng nào gặp đầu tiên thì thôi. Điều ấy làm lực lượng của ta bị giảm đi một chút; nhưng không sao, gặp trường hợp chúng ta bị tấn công, lưỡi kiếm của anh, của tôi, của tám người còn lại của chúng ta sẽ đủ đẩy lùi hai chục tên ăn cướp.
Lady Rowena nghe nói có một toán cướp outlaws đã thấy sợ nên tán thành mạnh mẽ ý kiến của cha đỡ đầu. Rebecca bỗng nhiên đứng dậy, chạy đến lady Rowena, quỳ một chân xuống đất, nâng vạt áo nàng lên hôn một cách kính cẩn.
Vẻ quý phái và trang nhã của cô gái Do Thái làm cô gái Saxons đẹp đẽ cảm động. Cô nói với cha đỡ đầu:
- ông già này tứ cố vô thân, lại thêm một người đau ốm trong kiệu nữa; mặc dầu họ là người Do Thái nhưng nếu chúng ta bỏ mặc họ trong cơn hoạn nạn này thì chúng ta không phải là những con chiên ngoan đạo. Tại sao chúng ta không cho phép họ cùng đi với chúng ta được?.Cedric tán thành ý kiến đó ngay; Athelstane chỉ nêu thêm một điều kiện là người Do Thái phải đi sau đám gia nhân.
Lady Rowena mời Rebecca lên cùng đi với mình.
- Việc đó không được. - Rebecca hạ mình trả lời, không phải không pha chút kiêu hãnh. -Là m như vậy cô nương làm ơn hóa ra bị mang tiếng đấy.
Trong khi họ nói chuyện, Gurth kêu cổ tay bị trói chặt quá nên rất đau. Wamba ra nới lỏng cho; nhưng không biết vô tình hay hữu ý anh buộc lại hết sức sơ sài khíên chẳng mấy chốc Gurth đã tìm cách cởi được trói. Trước khi mọi người tiếp tục đi, anh đã lẩn sâu vào trong rừng.
Con ngựa của Gurth vẫn cưỡi được trao cho ông già Do Thái; nếu đi tiếp, anh sẽ ngồi đằng sau một gia nhân nên ai cũng tưởng anh bị che lấp nên không để ý khi anh vắng mặt. Một việc khác làm mọi người bận tâm hơn là không biết lúc nào những tên ăn cướp xuất hiện.
Lối đi rất hẹp nên hai người không thể đi song song. Mặt đất dốc thoải. Đó là một khoảng bùn lầy có một con suối chảy qua; những cây liễu già mọc hai bên bờ suối. Cedric và Athelstane đi đầu đoàn nhận thấy rằng nơi này rất thuận lợi cho bọn cướp tấn công. Lội qua dòng suối nhỏ, họ mới đến bờ bên kia đã thấy chỗ nào cũng có người cầm vũ khí bao vây khiến họ khó lòng chống đỡ. Bọn cướp hô to: "Rồng bạch!
Thánh George và nước Anh đây!" để tỏ rõ chúng là những dân outlaws Saxons chính cống. Những tên khác chạy đến đông thêm như để tăng cường lực lượng.
Hai người đi đầu đoàn lữ khách bị bắt ngay nhưng mỗi người bị bắt trong những tình huống khác nhau phù hợp với tính cách của từng người.
Cedric phóng một cây lao vào tên cướp xuất hiện trước tiên, trúng đích một cách tuyệt vời. Vì tên cướp đứng trước một cây sồi, cây lao xuyên thủng qua người cắm phập y vào đó. ông cầm kiếm xông vào tên thứ hai, chém một nhát thật mạnh khiến lưỡi kiếm, gặp một cành cây lớn, gãy đôi.
Hai, ba tên khác lao ngay tới, xô ông ngã ngựa và trói nghiến. Về phần Athelstane thì khác.
Trong khi anh đang suy nghĩ không biết nên đánh địch trước mặt hay ở hai bên sườn thì đã bị tóm dây cương, thế là anh đành chia sẻ số.phận tù binh với ông Cedric vì không đủ thì giờ đứng ra nghênh chiến dù chỉ một phút tẻo teo chăng nữa.
Những gia nhân của hai ông vừa lúng túng giữa đám lừa và ngựa lủng củng các đồ, hàng trên lưng vừa ngạc nhiên và lo lắng cho số phận của hai thân chủ mình đã bị tước vũ khí một cách dễ dàng. Quân cướp bắt cả lady Rowena đứng giữa đám người và ngựa lộn xộn, bắt cả Isaac và cô con gái đi đằng sau.
Không người nào thoát khỏi tay bọn cướp, trừ mỗi anh rồ Wamba trong tình huống này lại tỏ ra can đảm hơn những người tự coi mình có đầu óc hoàn toàn bình thường hay minh mẫn.
Anh giật lấy thanh kiếm của một gia nhân, anh này hình như không còn nghĩ đến cách sử dụng nó nữa; Wamba đi những đường kiếm rất kín, rất hiểm khiến quân địch trông thấy phải nể; song nhận thấy quân cướp quá mạnh, quá đông và người nhà mình đều bị trói lại cả rồi, nên anh từ từ tụt xuống ngựa, lợi dụng đêm tối và người đang nhốn nháo, lẩn vào rừng mà không ai biết.
Tuy nhiên, anh rồ dũng cảm đi thoát bọn cướp không được mấy chốc đã tự hỏi không biết có nên quay về chia sẻ số phận với ông chủ xưa nay anh vẫn thật gắn bó hay không.
- Wamba! - Có tiếng gọi khe khẽ, thận trọng của người nào cách xa anh vài bước.
- Gurth, - Wamba hỏi bằng một giọng cũng rất khẽ, - có phải cậu đấy không?
- Đúng rồi, - Gurth tiến lại gần, trả lời, -nhưng có chuyện gì xảy ra thế? Có tiếng gươm, đao va chạm là thế nào?
- Một chuyện phiêu lưu như hàng ngày vẫn xảy ra ấy mà: cả nhà bị bắt rồi!
- Bị bắt? Những ai bị bắt?
- ông chủ này, lady Rowena này, Athelstane, Hundibert, Oswald và tất cả những người khác.
- Trời ơi! Ai bắt giam họ? Chuyện xảy ra làm sao?
- ông chủ chúng ta vội vàng chiến đấu quá, còn Athelstane không đánh mấy tí, những người khác chẳng đánh chút nào. Những kẻ bắt họ đều đội mũ màu xanh, đeo mặt nạ. Tất cả cánh nhà ta bị trói gô trên cỏ như những quả táo đằng ấy ném cho lợn của đằng ấy ăn đấy mà. Ta không biết ta nên cười hay nên khóc. - Nói rồi, Wamba khóc thành thật..Khuôn mặt của Gurth bốc lửa:
- Wamba! - Anh kêu lên. - Cậu có vũ khí và lúc này cậu phải có tấm lòng hơn lý trí chứ!
Chúng ta chỉ có hai đứa nhưng một cuộc tấn công bất thần có thể thành công. Cậu hãy theo tớ, chúng ta phải cứu ông Cedric.
- Nhưng Gurth ơi! Cậu đã quên cách đây một tiếng, cậu thề không bao giờ cậu tha thứ cho ông ấy đó sao?
- Đấy là lúc ông ấy không cần tớ cứu giúp.
Đi thôi, theo tớ.
Hai anh bạn sắp sửa chạy đi bỗng nhiên có một người xuất hiện và bảo đứng lại. Cứ theo cách ăn mặc và đeo vũ khí thì Wamba cho người ấy là một trong những người outlaws vừa bắt thân chủ của anh, vì họ chỉ khác người này ở chỗ họ đeo mặt nạ; nhưng nhìn cái dây đeo gươm sang trọng và chiếc tù-và cài ở đấy, nghe giọng nói bình tĩnh và oai nghiêm của người ấy thì Wamba trong đêm tối cũng nhận ra đó là Lock-sley, một yeoman đã thắng vẻ vang trong cuộc thi bắn cung.
- Thế nghĩa là thế nào? - Người lạ hỏi hai anh. - Ai ngang nhiên đi bắt người giam trong rừng này?
- ông cứ nhìn mũ họ đội thì biết, xem có phảa Brian.
Những tiếng reo hò của dân chúng tứ phía vang lên khi họ thấy hiệp sĩ Déshérité
- người đó chỉ báo cho quan tuyên cáo gọn thon lỏn mỗi cái tên - đã chọn tay thương đáng sợ nhất trong ngày làm địch thủ của mình.
Đáng sợ hơn nữa là anh lấy đầu sắt cộp rất mạnh vào cái khiên của nhà vô địch, có nghĩa là anh yêu cầu trận đấu quyết liệt, với mũi thương không bịt gỗ.
Brian tức khắc ra đứng ở cửa lều mình.
- Anh đã sẵn sàng chịu chết không đấy? -Brian giễu cợt hỏi. - Hãy ngẩng đầu lên mà nhìn trời lần cuối, và hãy chuẩn bị hồn siêu về Chúa.
- Cám ơn anh quá lịch sự, nhưng anh hãy chú ý nhé, anh đã hạ ngã nhiều người nhưng anh hãy coi chừng; anh hãy chọn một con ngựa mới, một cái thương mới đi! Tôi lấy danh dự mà thề, anh sẽ cần chúng đấy!
Hiệp sĩ Déshérité cho ngựa đi giật lùi xuống dốc trường đấu; anh điều khiển khéo léo và ngồi trên mình ngựa gọn gàng đến mức làm cho khán giả, - lẽ đương nhiên là trừ các khán giả người Normanrd, - coi ngay anh là chàng hiệp sĩ thương yêu của mình.
Cedric nhoài người ra đằng trước và hồi hộp nhìn chăm chú chàng hiệp sĩ mà vành mũ kéo xuống làm ông không nhận ra rõ nét mặt.
- Cái dáng điệu ấy, cái cách thức cưỡi ngựa ấy... Trời ơi! Có phải là con trai ta không?
Lady Rowena không kém phần cảm động; nàng như mê sảng vặn xoắn cái khăn tay viền đăng-ten tinh tế trong đầu ngón tay mình.
Thách đấu quyết liệt do hiệp sĩ Déshérité đưa ra làm cho Brian tức điên người. Thế nên ông quyết định chọn một con ngựa khác lanh lợi và đầy sát khí, một cái thương mới vì sợ rằng cái cũ qua ba trận đấu, chuôi gỗ dễ bị rạn. Người giám mã trình ông một cái khiên khác.
Các khán giả nóng lòng chờ đợi hai kỳ phùng địch thủ gặp nhau; mặc dầu thiện cảm thiên về phía hiệp sĩ còn chưa ai biết họ, biết tên, nhưng rất ít người tin anh là người thắng cuộc. Bây giờ hai địch thủ đứng hai đầu trường đấu. Khi kèn tơ-rông-pét nổi lên báo hiệu trận đấu bắt đầu, hai đối thủ phi ngựa nước đại vào nhau, cây thương đưa về phía trước. Sự va chạm thật khủng khiếp: cả hai người đều bị gãy thương, các mảnh vỡ bay đến tận chỗ khán giả. Ngựa của họ chân sau khuỵu xuống nhưng chủ của chúng là những kỵ mã giỏi, điều khiển chúng rất khéo. Hai đấu thủ giờ lại sẵn sàng, mỗi người một thương mới cầm tay. Các khán giả thích thú đến độ không tiếc sức hò hét và cổ vũ cho hiệp sĩ Déshérité.
Các bà cởi khăn quàng phất lên trước gió để tỏ lòng vui sướng. Sau vài phút nghỉ, kèn lại thổi báo trận đấu tiếp tục! Thương của Brian trúng giữa khiên của chàng hiệp sĩ lạ mặt rất mạnh và chính xác làm anh phải ngả người ra đằng sau mới không ngã. Về phía mình Brian bị một động tác lừa nên phải nhận ngay một miếng đòn đánh vào đỉnh mũ. Đó là một đòn rất khó nhưng Déshérité thực hiện được. Do đó, ông dòng tem-plier, mặc dầu võ nghệ cao cường, cũng phải lăn kềnh xuống đất cùng với ngựa và giữa những tiếng hoan hô, các quan viên trường đấu tuyên bố Déshérité thắng cuộc. Nhưng Brian nhỏm ngay dậy, rút gươm, định tiếp tục đánh nhưng không được phép. Brian nói:
- Ta hy vọng có ngày chúng ta sẽ gặp nhau mà không có trọng tài ngăn cản.
Tùy anh. Đấu dưới đất, trên mình ngựa, đấu thương hay đấu kiếm, tôi luôn sẵn sàng đọ sức với anh. - Hiệp sĩ lạ mặt kiêu hãnh trả lời.
Trong khi ông dòng templier rút về lều mình để che giấu sự tức giận và hổ thẹn thì người thắng trận đấu vừa rồi tiếp tục ra đấu với người trong nhóm của Brian de Bois-Guilbert. Người thứ nhất, Fron-de-Boeuf ngã ngựa ngay và bị tuyên bố thua cuộc; số phận của Philippe de Malvoisin không hơn gì: mũ của anh bị hất tung.ngay khi vừa va chạm và các quan hầu cuộc thi tuyên bố người thắng cuộc là người vừa làm các khán giả ngạc nhiên vì lòng dũng cảm và sự táo bạo của mình. Người thách đấu cuối cùng đi vào đấu trường: đó là Hugues de Granfmesnil. Khi đang chạy, con ngựa của anh ta, non tuổi và hung hăng, bỗng chồm lên đứng trên hai chân sau làm anh ta không giữ được ngang bằng cây thương trước mặt; tức thì hiệp sĩ Déshérité chứng minh ngay tính lịch sự cùng sự khéo léo của mình trong cách đánh chính xác: anh hướng thẳng mũi thương vào đầu địch thủ nhưng vừa chạm anh đã nhấc nhẹ lên tha đòn cho Grantmesnil. Tất cả mọi người đều hoan nghênh cử chỉ đó. Các quan hầu đề nghị hai bên đấu lại. Nhưng Hugues tự nhận thua cuộc do bái phục tính cao thượng cũng như tài nghệ của đối phương.
Người thắng cuộc trong ngày được xác định:
chính là hiệp sĩ Déshérité chứ không ngoài ai khác. Theo thông lệ, anh được mời một chén rượu. Nhấc phần dưới chiếc mũ lên, anh uống sau khi nói mấy câu sau đây:
- Tôi uống chúc mừng những ai thực sự là người Anh dũng cảm, tôi uống nguyền rủa những tên tàn bạo ngoại bang, chúng phải thất bại và hổ thẹn nhục nhã!
Trong khi các quan hầu chăm lo trận đấu chúc mừng người vừa giành thắng lợi thì hoàng tử Jean và những người cùng đi hết sức ngạc nhiên về việc hiệp sĩ Déshérité khăng khăng không chịu cho biết mình là ai. ông De Bracy, ông Waldemar Fitzurse hay bất cứ một quan cận thần nào khác, không ai tìm được tên gán cho người có sức mạnh và can đảm phi thường đó.
Tuy nhiên họ vẫn vô cùng kinh ngạc khi thấy những người vô địch của họ như ông dòng tem-plier, Front-de-Boeuf, Philippe de Malvoisin bị hạ bằng miếng đánh như trời giáng nhưng được thực hiện vô cùng lẹ làng và khéo léo.
Ngay lúc đó có người gợi ý: "Hay chính là Richard Coeur de Lion chăng?" Nghe vậy, hoàng tử Jean và các cận thần nín tiếng và tái mặt.
- Không phải, - Fitzurse nói. - Các ngài biết thân hình cao lớn của đức vua; các ngài hãy so sánh chiều cao của hiệp sĩ lạ mặt này, thấy khác ngay..Điều nhận xét đó trấn an hoàng tử Jean và làm bớt nỗi lo thể hiện trên tất cả các khuôn mặt.
Lúc đó người thắng cuộc được giới thiệu với hoàng tử; ông khen ngợi nhưng lòng vẫn sợ khi nhận ra trong giọng nói của n thỏ, nửa vẻ chó ngao, đứng bên cạnh và hình như chỉ chờ lệnh của chủ là nhảy xổ vào cắn người khách lạ.
Nhưng nhờ vào bó đuốc, nhà ẩn sĩ thấy một hiệp sĩ gươm giáo đầy đủ, liền thay đổi ngay ý kiến; rồi đuổi chó đi, ông bỗng nhiên lễ phép mời hiệp sĩ vào nhà đồng thời tìm cách xin lỗi, nói rằng ông không bao giờ mở cửa cho ai vào lúc đêm tối như thế này sợ là kẻ trộm hoặc những tên outlaws  đầy rẫy trong rừng.
Sau khi vào nhà và đảo mắt nhìn quanh, hiệp sĩ chỉ thấy một chiếc giường trải lá làm ổ, một cây thánh giá bằng gỗ sồi gọt đẽo sơ sài, một quyển sách kinh, một chiếc bàn làm bằng các tấm ván không bào, hai chiếc ghế đẩu ba chân và một vài dụng cụ nấu nướng; anh nói:
- Thưa cha, cha sống khổ sở thế này thì sợ gì kẻ cướp, chưa kể có hai con chó trung thành đủ sức vật nổi một con hươu, còn đối với người thì tôi tưởng ít có người chống cự nổi chúng.
Khi nhà ẩn sĩ đã mời hiệp sĩ vào nhà, ông cài cây đuốc lên một que sắt đóng sâu vào một trong những thân cây dùng làm tường nhà. Rồi bỏ thêm củi vào bếp cho bốc lửa, ông ngồi lên một chiếc ghế ba chân bên cạnh bàn và ra hiệu cho hiệp sĩ cùng ngồi.
Hai người ngồi xuống, người nọ nghiêm trang nhìn người kia một lúc lâu, mỗi người chắc hẳn đều nghĩ mình chưa bao giờ giáp mặt với một người trông khỏe hơn và quyết đoán hơn thế.
Sau cùng hiệp sĩ nói:
- Thưa ngài ẩn sĩ kính mến, nếu không phiền nhiễu ngài khi đang buổi cầu kinh thì tôi xin hỏi ngài ba điều: một là tôi phải dắt ngựa vào đâu, hai là ngài có cho tôi chút cơm cháo gì không, ba là đêm nay tôi ngủ ở chỗ nào.
ẩn sĩ trả lời:
- Tục lệ của tôi đã thành bổn phận: tôi chỉ trả lời khi thật cần thiết: bởi vậy tôi sẽ trả lời anh chừng mực nào có thể. - Nói xong ông lần lượt chỉ vào hai góc lều: - Đây là chuồng ngựa; kia là giường của anh. - Sau lấy trên tấm ván một cái đĩa đựng hai nắm hạt đậu khô rồi đặt trên bàn trước mặt khách: - Còn đây là thức ăn của anh.
Hiệp sĩ nhún vai, bước ra khỏi lều, dắt ngựa vào, buộc vào một thân cây. Anh tháo yên cương, cởi áo choàng của mình ra đắp lên lưng ngựa.
Có thể nhà ẩn sĩ nhìn thấy chàng hiệp sĩ săn sóc con ngựa của anh như vậy thì cảm động lắm.
Ông làm như chợt nhớ ra hôm nọ người gác rừng đến thăm còn để lại ít cỏ khô; ông đi ra phía cửa sau, đem vào một bó rơm thơm vàng và một đấu yến mạch cho ngựa. ông ra lần nữa, đem vào một tải lá cành khô đặt vào một xó rồi ra hiệu là chỗ ngủ của chàng hiệp sĩ. Hiệp sĩ cảm ơn ông đã có lòng giúp đỡ; sau đó hai người lại.ngồi vào chiếc ghế cạnh bàn, trên đó vẫn còn cái đĩa đựng hạt đậu khô. Nhà ẩn sĩ đọc kinh trước bữa ăn có lẽ trước kia bằng tiếng la-tinh nhưng bây giờ khó nhận ra đó là thứ tiếng ấy trừ có vài tiếng hay vài câu chỗ này chỗ nọ giọng đọc kéo dài ra. Nhà ẩn sĩ thấy cần ăn trước để ông khách ăn theo nên ông lấy ba hay bốn hạt đậu bỏ vào miệng để lộ ra hàm răng rất khỏe, vừa nhọn vừa trắng như răng con lợn lòi.
Chàng hiệp sĩ bắt chước ông, liền bỏ mũ, cởi áo giáp ngoài, tháo bỏ bớt phần lớn các cân đai khiến nhà ẩn sĩ thấy anh có bộ tóc màu nâu xoăn một cách tự nhiên, nét mặt đầy đặn, đôi mắt tinh nhanh, hàng ria mép sẫm hơn bộ tóc chứng tỏ anh là một người gan dạ, dám nghĩ dám làm, y như cái thân hình cao lớn của anh đã mách bảo.
Nhà ẩn sĩ như muốn đáp lại sự tin cậy của người khách liền hất cái mũ trùm đầu ra sau, để lộ một cái đầu tròn của người đang ở tuổi thanh xuân. Tóc ở đỉnh đầu khoanh gọt, chung quanh là một vòng tóc đen cứng và xoăn làm người ta liên tưởng đến một cái sân làng xung quanh có hàng rào chắn cao. Nét mặt ông không mang dấu vết gì gọi là khắc khổ của đời sống tu hành hay dấu vết của việc ăn đói nhịn khát nghiêm trọng. Khuôn mặt cộng thêm cái thân hình đẫy đà của người nhà thánh cho thấy khẩu phần của ông phải là những miếng thịt bò hay thịt lợn bổ béo chứ không phải là những hạt đậu khô hay lá rau lá cỏ này đâu. Chàng hiệp sĩ không phải không có sự nhận xét ấy. Cố nghiền vất vả được năm hay sáu hạt đậu, anh hỏi chủ nhân xem có nước cho anh xin một hụm để chiêu miếng ăn không.
Người ẩn sĩ đến đặt trước mặt người khách một hũ nước đầy trong và mát. Anh đưa lên miệng, uống một hụm.
- Thưa cha quý mến, - hiệp sĩ nói, - tôi thấy cha ăn rất ít thứ đậu khô này, cha cũng không uống nhiều lắm cái thứ nước trong sạch này, vậy mà chúng có một tác dụng diệu kỳ đối với sức khỏe của cha. Trông cha có thừa khả năng rượt đuổi đến cùng một con hươu hay vật ngã dễ dàng một địch thủ hơn là một nhà ẩn sĩ ở chỗ quạnh hiu này để hàng ngày cầu kinh hay hát những bài thánh ca.
Nhà ẩn sĩ đáp:.- Thưa hiệp sĩ, những ý nghĩ của ngài không nói theo phần hồn mà giống như của những người vô đạo. Tôi tự cho phép ăn những thức ăn trên là làm theo ý của thánh Nữ Đồng Trinh và thánh Dunstan, những thánh đã gia ân cho tôi. Nhưng, thưa hiệp sĩ, - ông nói tiếp, - tôi nhớ ra hình như lần trước ông gác rừng hảo tâm đến thăm tôi, ngoài bó rơm kia ông còn để lại một số thức ăn mà tôi không đụng đến do tinh thần tôn trọng kỷ luật của tôi thì phải; và tôi lúc nào cũng bận suy tư học đạo nên tôi quên khuấy mất, không lấy ra mời ông ăn.
- Tôi cam đoan là ông ấy có để lại mà! -Chà ng hiệp sĩ kêu lên. - Ngay lúc ông lật mũ ra trông đầu ông, tôi tin nhất định nơi ông ở phải có một thức ăn gì bổ béo hơn thứ đỗ này.
Nhà ẩn sĩ nhìn trừng trừng ông khách rồi đi về cuối lều, mở cánh tủ được che đậy khéo léo và kỹ càng, lấy ra một gói patê to tướng đặt lên bàn. Chàng hiệp sĩ rút con dao găm ở thắt lưng ra mở phăng gói patê và không để mất thì giờ lấy một miếng thật to nếm thử.
Nhà ẩn sĩ buồn rầu nhìn ông khách tấn công mạnh vào gói patê mà mình đành chịu không làm được như ông khách vì vừa rồi đã chót nói ra mình chẳng ăn gì chỉ có ăn chay. Chàng hiệp sĩ ngừng ăn nói:
- Về việc này, khi ở Palestine, tôi th
  • Chương 11
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---