Dịch giả: Thương Lan
Hồi 39
Vũ Lâm Đệ Nhất Nhân

Phương Bửu Ngọc nhìn về phía hậu.
Ngưu Thiết Oa vẫn còn vác con ngựa nơi vai, đứng bên vệ đường, tiểu công chúa đang cố gắng dựng con ngựa của nàng lên.
Phương Bửu Ngọc gọi to:
- Thiết Oa, ngươi đứng đó chờ ta nhé!
Ngưu Thiết Oa cao giọng đáp:
- Tự nhiên, Thiết Oa ở đây đợi đại ca rồi, song còn nàng? Thiết Oa không đủ sức giữ gìn nàng đâu!
Tiểu công chúa ngẩng đầu lên cười lạnh:
- Ngươi yên chí! Nếu ta muốn đi, ta đã đi từ lâu rồi, chẳng đợi đến lúc nầy đâu!
Phương Bửu Ngọc quay mình lại.
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Vậy xin mời đại hiệp!
Cả hai hướng về cánh rừng, đi sâu vào.
Tưởng Tiếu Dân đi trước dẫn đường, Phương Bửu Ngọc bình tỉnh theo sau.
Đi hơn mười trượng rồi, Tưởng Tiếu Dân không hề quay nhìn lại sau, mà cũng chẳng thốt tiếng nào.
Phương Bửu Ngọc định hỏi gì đó, song thấy Tưởng Tiếu Dân có thái độ nghiêm trang quá, chàng lại thôi.
Gió thu thỉnh thoảng lướt qua, lá vàng rơi rụng, chân bước lên những lá đó, lá mới đè lá cũ khô hơn, tiếng xào xào nhè nhẹ chen lẫn với tiếng rắt rắt càng tạo cho khung cảnh thêm lạnh lùng, sơ sác...
Ai nói thu là cảnh tiêu sơ, thật trong lúc nầy lời nói đó đúng vô cùng!
Tưởng Tiếu Dân từ từ chậm bước, vừa chậm bước, y vừa thốt:
- Kể từ hôm đó, huynh đài trở thành thiên hạ vũ lâm đệ nhất nhân, thật đáng mầng cho huynh đài mà cũng chia niềm vui đó với huynh đài!
Phương Bửu Ngọc khiêm nhượng:
- Nhân huynh quá khen!
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Tại hạ Ở đây chờ huynh đài quá lâu! Vì nguyên nhân nào, huynh đài có biết chăng?
Phương Bửu Ngọc điềm đạm:
- Mong nhân huynh chỉ giáo!
Tưởng Tiếu Dân thốt:
- Vì cái việc...
Đột nhiên, một tiếng soảng vang lên, một đạo kiếm quang chớp ngời, biến thành cái mống ngắn, đầu mống kiếm chiếu xuống Phương Bửu Ngọc.
Tưởng Tiếu Dân vừa thốt, vừa rút kiếm ra khỏi vỏ, vừa khoa lên vừa chiếu vào mặt Phương Bửu Ngọc, ngần ấy động tác chỉ diễn ra trong khoảng thời gian vừa vặn ba tiếng nói!
Thiết tưởng trên giang hồ, chưa có ai xuất thủ nhanh bằng y!
Dĩ nhiên, Phương Bửu Ngọc phải kinh hoàng vì sự tấn công bất ngờ đó.
Nhưng, làm gì Tưởng Tiếu Dân xuất thủ liền lại được đắc ý ngay?
Nhất là y xuất thủ trước một Phương Bửu Ngọc?
Cái phản ứng tự nhiên đã nhanh, cái tài của chàng cũng cao diệu, thì đừng nói chỉ một Tưởng Tiếu Dân xuất chiêu trước mặt, dù có thêm hai ba người nữa đồng thời xuất thủ, từ bên tả, từ bên hữu, từ phía sau, chàng vẫn tránh né được như thường.
Lập tức nhanh hơn cái chớp của làn điện, chàng vừa tạt người vừa lùi lại, đủ ngoài tầm kiếm thôi.
Bất quá, tay chàng phất lên, tay áo bay qua, tay áo chạm vào mủi kiếm, kiếm rọc tét một đường.
Từ lúc xuất hiện trên giang hồ, đây là lần thứ nhất chàng phải phản ứng hấp tấp vội vàng, song hấp tấp vội vàng vì bất ngờ hơn là phải gặp một kiếm thủ siêu việt.
Dù sao, chàng cũng phải nhìn nhận kiếm pháp của Tưởng Tiếu Dân đã đạt đến mức hỏa hầu.
Chàng tránh xong chiêu kiếm, buộc miệng tán:
- Kiếm pháp tuyệt diệu!
Hụt chiêu kiếm, Tưởng Tiếu Dân vẫn giữ nguyên bộ vị nghiêng nghiêng người, lạnh lùng thốt:
- Nữu Chuyển Càn Khôn Sát Thủ Kiếm, các hạ có nghe nói đến chăng?
Phương Bửu Ngọc giật mình:
- Tại hạ nghe từng nói, kiếm phái Hải Nam có chiêu Phản Thủ Sát, lợi hại phi thường, có thể cho là vô địch trong thiên hạ. Ngờ đâu hôm nay tại hạ may mắn được trông thấy tận mắt nhân huynh biểu diễn!
Tưởng Tiếu Dân lạnh lùng tiếp:
- Tưởng Tiếu Dân nầy chờ đợi các hạ tại đây rất lâu, là cốt dùng chiêu kiếm đó, lấy tánh mạng cát hạ, các hạ có biết như vậy chăng?
Y thở dài tiếp:
- Không tưởng là các hạ vẫn tránh được!
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Tại hạ với nhân huynh vốn không cừu oán, tại sao nhân huynh có ý đó đối với tại hạ?
Tưởng Tiếu Dân nhìn chàng một lúc lâu đáp:
- Khắp trong thiên hạ, bất cứ một kiếm phái nào hay thu hẹp hơn, bất cứ một kiếm thủ nào, cũng đều có một Sát Thủ pháp phòng thân, nếu chẳng gặp trường hợp bất khả kháng thì tuyệt nhiên không nên xử dụng, do đó khách giang hồ dù có nghe nói đến, chứ dể mấy ai mục kích tận tường?
Y lại cười lạnh mấy tiếng rồi từ từ tiếp:
- Không mục kích tận tường những Sát Thủ pháp bí truyền đó, là một đại hạnh phúc, bởi kẻ nào trông thấy, kẻ đó không thể sống sót.
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Khi các hạ thi triển đường kiếm đó rồi, chắc chẳng có mấy ai được thoát chết!
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Đường kiếm của tại hạ, đành rằng cay độc, song trên giang hồ, những đường kiếm cay độc hơn chẳng biết thực số như thế nào!
Phương Bửu Ngọc gật đầu:
- Các hạ nghĩ đúng, cho nên khó mà phân định được sự hơn kém, khó mà thừa nhận cái giá trị tuyệt đối của sát thủ pháp bí truyền của mỗi người, mỗi phái!
Tưởng Tiếu Dân bỗng nghiêm giọng thốt:
- Kể từ hôm nay, tại mỗi chặng đường, các hạ sẽ gặp một người, chờ đón như tại hạ, để xử dụng một sát thủ pháp của họ, nếu tránh được một sát thủ pháp, là các hạ biết ngay cách giải phá. Càng biết cách giải phá những đường bí truyền, các hạ sẽ nắm cái cơ tất thắng trong tay khi đối phó với người áo trắng trong tương lai.
Phương Bửu Ngọc thoáng biến sắc:
- Nếu không tránh được?
Tưởng Tiếu Dân quát:
- Thì sẽ như thân cây nầy!
Y quay phắt mình, thanh kiếm quét ngang, thân cây bên cạnh bị tiện hạ, chồi trơ ra đó, tàng trịch qua một bên rồi ngã xuống, một tiếng ầm vang lên.
Đoạn y cao giọng tiếp:
- Nếu không tránh nổi những sát thủ đó, các hạ phải bại nơi người áo trắng là cái chắc. Và như vậy, đời cần gì phải có một Phương Bửu Ngọc? Vũ lâm cần gì phải đặt kỳ vọng nơi Phương Bửu Ngọc?
Phương Bửu Ngọc sững sờ một lúc, rồi trầm giọng thốt:
- Những vị kiếm khách đó, nào có cừu hận chi với tại hạ? Bất quá họ muốn cho tại hạ phải thắng người áo trắng, họ quá nhiệt tình nên tiết lộ bí học, giúp tại hạ có một kiếm thuật tân kỳ!
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Các hạ hiểu được như vậy, là không uổng sự dụng tâm khổ sở của họ!
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Tuy nhiên tránh được thì tại hạ thu thập ích lợi, không tránh được thì tại hạ mất mạng! Dù sao, cái mỹ ý đó ngang bằng với ác ý!
Chẳng rõ, tại sao các vị ấy dồn tại hạ vào cảnh chết?
Tưởng Tiếu Dân rùn vai:
- Ngày nay các hạ đã trở thành đệ nhất danh kiếm trong thiên hạ, nếu có người thắng nổi cát hạ, người đó phải nổi tiếng ngay, phàm đã luyện kiếm thì có ai lại chẳng muốn mình được nổi tiếng? Đã muốn nổi tiếng thì những kẻ luyện kiếm có ai lại không muốn sát hại các hạ?
Thoáng nhìn qua các hạ cho là ác ý, song nghĩ kỹ, các hạ sẽ công nhận là lẽ công bình!
Phương Bửu Ngọc rợn người:
- Nhưng... việc ấy...
Tưởng Tiếu Dân mỉm cười:
- Việc ấy làm sao chứ? Trên thế gian nầy, có vật gì quý mà dễ chiếm đoạt đâu? Người ta đem sanh mạng đổi lấy chút danh dự, còn các hạ đem sanh mạng để đổi lấy bí học của người ta, kể ra cũng công bình, theo tại hạ nghĩ thì chẳng có gì đáng cho các hạ phải lấy làm thắc mắc!
Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút, lại bật cười dài:
- Đời là canh bạc, mà vật đánh cuộc là sanh mạng con người!
Chàng lại cười rồi tiếp:
- Phía sau sanh mạng của mỗi người, mới là cái đích chánh của một canh bạc, bởi thắng cuộc không hẳn để chiếm cái mạng sống của người gây cuộc đặt làm vật cuộc, mà để chiếm những cái gì do sanh mạng đó lưu lại.
Bỗng, Tưởng Tiếu Dân quát to:
- Phương Bửu Ngọc! Ta đã nói hết những gì muốn nói với ngươi!
Liều sống chết với nhau, hẳn phải công bình, nếu đường kiếm của ta không làm tổn thương đến ngươi, thì ta phải chết, ta chẳng khi nào trốn tránh cái chết!
Thanh kiếm trong tay y vụt chớp lên, biến thành một cái mống bạc, uốn vút xuống đầu Phương Bửu Ngọc.
Phương Bửu Ngọc hét:
- Dừng tay! Tại sao các hạ hành động như vậy?
Tưởng Tiếu Dân không đáp, cứ vung kiếm tấn công tới tấp.
Kiếm pháp của y quả đã luyện đến mức siêu thần nhập hóa, mỗi nhát kiếm lợi hại phi thường.
Huống chi, y quyết liều sống chết như y đã nói, nếu hạ được Phương Bửu Ngọc, thì thinh danh của y tức khắc vang rền, do đó y tận dụng tài năng và công lực để thủ thắng.
Cho nên đấu pháp của y cực kỳ ác liệt.
Phương Bửu Ngọc không có ý sát hại y, chàng không hề hoàn thủ, chỉ dùng thân pháp linh diệu tránh né thôi.
Vô Tình công tử, quả có kiếm pháp vô tình, song qua một lúc lâu, kiếm pháp đó chẳng làm gì nổi Phương Bửu Ngọc dù chàng chỉ tránh né.
Không một mủi kiếm nào chạm phải chiếc áo chàng, chứ đừng nói là chạm đến da thịt.
Ngày thu dần tàn.
Gió thu dần dần mạnh với đêm sắp về, gió rung chuyển cành cây, lá rơi chập chờn, phản ánh tà dương, kiếm quang chớp lên, khí khí chập trùng.
Chiều thu lạnh, càng thêm lạnh với tử khí càng phút càng tỏa rộng, càng nặng động.
Đột nhiên, Tưởng Tiếu Dân bật cười cuồng dại:
- Tốt lắm! Phương Bửu Ngọc ngươi không có ý giết ta! Tại sao hở Phương Bửu Ngọc? Ngươi muốn gì?
Phương Bửu Ngọc trầm giọng:
- Các hạ hãy đi đi!
Tưởng Tiếu Dân hừ một tiếng:
- Chạy đi? Con nhà võ đâu có thể chạy đi dễ dàng như vậy. Con nhà võ chỉ có một việc dễ dàng nhất, là chết! Mà trên đời nầy, ai không thích làm chuyện dễ dàng?
Một vòi máu vọt ra, vọt từ ngực y, vòi máu tiếp tục vọt.
Y đã hoành kiếm đâm thốc vào ngực.
Phương Bửu Ngọc hét lên:
- Tưởng huynh!... Tưởng Tiếu Dân! Huynh đài... huynh đài...
Trường kiếm cắm nơi ngực Tưởng Tiếu Dân còn rung rung, máu đã nhuộm đỏ chùm tơ nơi chuôi, gió phất qua chùm tơ rung rung, máu từ chùm tơ rõ xuống từ giọt, đều đều.
Nhưng, thân hình của Tưởng Tiếu Dân còn đứng sừng sững như pho tượng.
Máu ngưng vọt, nhưng lại chảy ròng ròng, nhuộm đỏ áo y, máu chảy xuống quần, ướt sũng trọn y phục nhanh chóng.
Máu càng chảy ra, gương mặt y càng biến nhợt nhạt.
Y chưa chết, y còn nói được, tuy giọng nói phều phào:
- Trí mạng với nhau, tất phải công bình, không còn chọn cách nào khác hơn, thắng là sống, bại là chết, chỉ có những kẻ hèn mới tham sống sau cái bại!
Y trừng mắt, cắn răng, đưa tay rút phăng lưỡi kiếm ra khỏi ngực.
Vết thương bỏ ngỏ, máu theo kiếm vọt ra mạnh hơn lúc đầu, mạnh để rồi ngưng lại ngay, và tiếp tục chảy xuống.
Đến bây giờ thân thể y mới chịu ngã, y ngã song đôi mắt chưa nhắm, y còn nhìn Phương Bửu Ngọc, giọng nói yếu ớt hơn nhiều:
- Phương Bửu Ngọc! Ngươi cũng là con nhà võ, ngươi nên xem trọng ta... Ta có việc yêu cầu ngươi... ngươi đừng quên...
Giọng nói đã bắt đầu khàn khàn, khó nghe lắm rồi, và lời nói hàm hồ quá, cuối cùng thì những lời nói y cốt đưa ra, là tắt ngay nơi cuống họng.
Tịch mịch! Tịch mịch đến lạnh lùng!...
Một cơn gió quét qua phất tung tà áo Phương Bửu Ngọc.
Nhưng chàng vẫn còn đứng đó. Chàng không thể cất bước liền trong trường hợp nầy!
Một khắc trước đây, chàng còn tin tưởng bằng hữu giang hồ thành thật với chàng, đặt trọn kỳ vọng nơi chàng. Tất cả đều một lòng thương mến chàng, hỗ trợ chàng trong mọi mặt, ủng hộ tinh thần tiếp giúp vật chất.
Giờ đây, chàng thức ngộ ra, tất cả đều có bề trái, và bề trái của những người chàng tin là bằng hữu đó, có chứa chất một ý chí trừ diệt chàng.
Với chiêu bài giúp chàng tinh tiến kinh nghiệm, chuẩn bị một trận tuyến đối phó với người áo trắng từ ngoài khơi Đông Hải sang năm, họ mong muốn thực hiện ý chí đó, không hơn không kém.
Họ dồn chàng vào tử địa, bắt chàng tự tìm cái sống trong cái chết, song họ vẫn cho mình là người ơn của chàng, cái ơn thành toàn kiếm thuật cho chàng!
- Trời!
Một cái ơn ngang giá sanh mạng! Muốn nhận cái ơn đó chàng phải đùa với tử thần!
Trên thế gian nầy, có ai thích nhận ơn theo lối đó chăng?
Nhưng, chàng không thể tránh loại ơn đó, chàng sẽ chui qua dưới lưỡi hái của tử thần, để tiếp nhận loại ơn đó, chui nhiều lần bởi có nhiều người sẵn sàng “Thi ơn” với chàng!
Bây giờ chàng nhận thức ra sự đối lập trên giang hồ quá tế nhị, càng tế nhị hơn là cái thế đối lập lại nằm trong phạm vi ơn nghĩa, dùng phương tiện ơn nghĩa để giữ vững cái thế đối lập!
Chàng cúi đầu lặng nhìn thi thể của Tưởng Tiếu Dân, tự nhiên lệ thảm trào dâng, thoát khỏi viền mi, từ từ kết thành giòng lăn dài xuống má, chàng lẩm bẩm:
- Các hạ chết! Cái chết như thế, cái chết có giá trị gì? Trừ cái chết ra, các hạ chẳng còn một phương pháp nào khác sao? Chẳng còn một lối nào khác cho các hạ sao? Các hạ kỳ quái, tất cả người trên giang hồ chẳng lẽ cũng kỳ quái như cát hạ? Các hạ yêu cầu việc gì...
Bỗng chàng thấy một mảnh giấy ló ra nửa phần nơi ống tay áo Tưởng Tiếu Dân.
oo Không, chẳng phải một mảnh giấy, mà là một phong thơ!
Phong thơ, hẳn là dành cho Phương Bửu Ngọc.
Phong thơ đó, đại để ghi những ý tứ như thế nầy:
- Xem thường sanh mạng cùng huynh đài khai diễn ác chiến, sống được là thành danh, nếu danh chẳng thành thì thân phải hủy diệt, huynh đài đã hiểu cái ý của tại hạ như vậy. Từ lúc ly gia đến đây chờ huynh đài, ra khỏi cửa là tại hạ thừa hiểu một đi vĩnh viển, đi không có ngày về, đi sống nhưng không về sống. Biết đó là chết, vẫn vui mà đi để được chết vui. Thời gian mấy mươi năm tuy đếm từng ngày thì dài thật, song qua rồi ngảnh mặt lại nhìn mới thấy chẳng có là bao, thì mấy phút ân tình, phỏng có giá trị gì bên cạnh hạn định một kiếp nhân sanh? Tại hạ ra đi, không hề lưu luyến tình nhà, song người ở lại sao khỏi hoài mong tin nơi phương trời xa thẳm? Cho nên trước khi lâm chung, chắc chắn là phải có phút lâm chung khi gặp huynh đài, tại hạ có mấy giòng nầy ghi sẵn, tại hạ tắt thở rồi, mấy giòng chữ sẽ hiện ra dưới mắt huynh đài, mấy giòng chữ thay tại hạ khẩn cầu huynh đài chuyển cái tin từ biệt nầy đến người đang dõi mắt trên đường trường chờ đón một bóng hình của kẻ một đi không trở lại.
Lời nói khẳng khái, tỏ rõ cái khí phách của một con người, lời nói tuy có khô khan nhưng chỉ là cái khô khan giả tạo của một con người, vì chí tang bồng bắt buộc phải quên những gì nồng ấm cần thiết cho con tim!
Phương Bửu Ngọc thở ra, than:
- Tưởng Tiếu Dân! Tưởng Tiếu Dân! Đã nặng quan hoài với người mình tha thiết, tại sao ngươi không tha thiết với sanh mạng của ngươi?
Khinh thường sanh mạng của ngươi, là khinh thường cái lưu luyến của ai kia, ngươi lấy sự vô tình đối đãi lại sự hữu tình, ngươi chết đi, tròn mộng của ngươi, ngươi có nghĩ chăng người nấp bên cửa sổ chờ vó ngựa của ngươi trở về sẽ vỡ mộng, mộng vỡ rồi thì đời cũng vỡ luôn! Ngươi có nghĩ đến những ngày thừa thãi của kẻ kia sẽ âm u thê thảm bao nhiêu chăng, nếu vắng bóng một người? Vắng bóng ngươi dưới gầm trời nầy?
Bên trong phong thơ để cho Phương Bửu Ngọc, còn có phong thơ khác, nơi bì thơ, có mấy hàng chữ:
- Chủ nhân Tinh Tinh tiểu lâu tại Nhiễm Hồng sơn trang, tự tay mở xem!
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Nhiễm Hồng sơn trang? Ở đâu? Chủ nhân Tinh Tinh tiểu lâu là ai?
Rồi chàng lại nhìn thi thể của Tưởng Tiếu Dân, lẩm nhẩm:
- Tuy nhiên, ngươi yên tâm, Tưởng Tiếu Dân, vô luận làm sao ta cũng chuyển phong thơ nầy đến tay người có quyền mở xem!
Dĩ nhiên, chàng phải mai táng thi hài của Tưởng Tiếu Dân, chàng cũng chôn theo thanh trường kiếm của y, cho y vẫn còn là kiếm khách nơi dạ đài.
Tà dương xuống mau, gió thu lồng mạnh...
Nhìn cảnh thu thê lương, Phương Bửu Ngọc man mác tình hoài tưởng vọng về tương lai...
Chàng quay mình, từ từ trở lại vệ đường.
Nơi vệ đường, một số hào kiệt anh hùng đang bao vây Ngưu Thiết Oa, song phương đang cười cười nói nói với nhau.
Con ngựa bị ngã, đã chết, nằm lù lù một đống gần đó.
Nó chết, không vì ngã, mà vì tiểu công chúa đánh chết.
Và lúc đó, tiểu công chúa đang ngồi lên thi thể nó, mặt nàng ửng đỏ, như tinh thần đang phấn chấn, miệng nàng điểm phớt nụ cười, nàng có cái vẻ như đang nói với con ngựa:
- Bây giờ, thì ngươi chắc chắn không còn hất ta xuống đất nữa rồi vậy!
Phương Bửu Ngọc rùng mình, nhớ lại bảy năm về trước, tại con thuyền buồm ngũ sắc, chàng hơn một lần mục kích sự biểu lộ tánh tình của tiểu công chúa, thương là nâng niu như châu báu, ghét là hủy bỏ như cỏ rác, đã thế, nàng còn thoạt yêu thoạt giận, thành ra chẳng ai hiểu nổi lúc nào nàng vui vẻ, lúc nào nàng cáu kỉnh, và vui vẻ hay cáu kỉnh được bao lâu?
Đó cũng là một đoản kiếm, cũng như cái đoản kiếm của Tưởng Tiếu Dân!
Con người chịu quá nặng ảnh hưởng của sở đoản, thì khó mà thành tựu lớn lao trên đời.
Chàng thầm nghĩ:
- Nàng có một ngoại lệ nào đối với ta chăng? Hay nàng chỉ xem ta như tất cả mọi người?
Ngưu Thiết Oa vừa trông thấy chàng, sáng rực ánh mắt lên, vội bước tới:
- Đại ca ơi! Mấy vị nầy nghe tin gió mà đến, đến để nhìn mặt đại ca, người trên giang hồ sao mà dành nhiều ưu ái đối với đại ca quá như vậy chứ? Tôi nghĩ từ đây mà đi tới, chúng ta sẽ gặp nhiều điều khoái ý lắm!
Phương Bửu Ngọc còn nặng ảnh hưởng của cái chết vừa qua, cái chết của Tưởng Tiếu Dân, cái chết của con ngựa, chàng nhếch nụ cười thảm, thốt:
- Thật vậy hở, Thiết Oa? Chúng ta mong được như vậy!
oo Bình Âm, là một bến sông, sông là Huỳnh Hà.
Phàm là một thị trấn dù nhỏ, cũng có đông người, huống chi lại là một bến sông, địa điểm chiêu tập khách đường bộ lẫn khách đường thủy.
Khách sạn An Bình hướng mặt về giòng sông, ngồi nơi lầu cao khách sạn, nhìn rõ những lượn sóng bủa trập trùng, giòng sông chảy mạnh, sóng dợn theo, sóng sau đùa sóng trước chuyển động ầm ầm.
Sông rộng trải dài ngoài ngàn dặm, nhìn đuối mắt chưa thấy thân cây, mênh mang như biển.
Đêm nay, thành Bình Âm náo nhiệt hơn ngày thường, tất cả quán rượu phòng trà đều đông nghẹt khách hàng, đến cả những hiệu buôn cũng ồn ào khách vào ra.
Dĩ nhiên, phải có những khách từ phương xa đến, tăng phần náo nhiệt một nơi đã nhiệt náo rồi.
Khách, ngoài một số con buôn dừng chân qua các cuộc ngược xuôi, còn thì toàn là những người có tham dự trong cuộc đại hội Thái Sơn.
Sau ngày giải tán, họ tản mác ra bốn phương trời, và một phần lớn đổ về đây.
Nhưng, nhiệt náo ở bất cứ nơi nào trong thành thị, từ hang cùng hẻm cụt, đến các con đường lớn, khách ồn ào, riêng tại An Bình khách sạn thì hoàn toàn im lặng, đúng với cái tên An Bình của nó.
Bởi, nơi đó Phương Bửu Ngọc thuê phòng, và hào kiệt anh hùng không hẹn mà đồng, đều xem là một nơi đất cấm.
Những ai đi qua đó, đều phải im hơi lặng tiếng, cốt giữ sự yên tịnh cho vị thiếu niên anh hùng kỳ vọng của vũ lâm, nếu thắng được người áo trắng từ ngoài khơi Đông Hải, thì sẽ là cột trụ vũ lâm luôn.
Họ cố giữ sự yên tịnh cho chàng, để chứng tỏ lòng thành kính đối với chàng.
Đi ngang qua đó mà phải im lặng thì dù sao cũng có phần nào khó chịu, thà đi qua những con đường khác còn hơn.
Song ai ai cũng muốn đi, đi để có dịp may bất ngờ nhìn thấy bậc cao tài nhưng nhỏ tuổi.
Đêm đã xuống rồi, đêm xuống dần dần, rồi đêm về khuya, đêm xuống thì trăng lên, đêm xuống càng khuya, trăng càng sáng càng lạnh.
Cảnh ồn ào của thị thành cũng dần dần lắng dịu.
Phương Bửu Ngọc ngồi tựa mình bên trong cửa sổ, lòng miên man nghĩ ngợi mông lung.
Chàng nhìn ra giòng sông, sóng vẫn còn nhấp nhô tuy gió đã nhẹ lại rất nhiều, nước cuốn theo giòng đùa sóng xuôi về xa xăm, lòng chàng cũng cuộn chảy như con sông dài vô tận, sông chảy không ngừng, tâm tư chàng cũng dao động không ngừng!
Đột nhiên, trên giòng sông hiện ra một con thuyền nhẹ, con thuyền rẽ nước tiến nhanh như tên, trạo phu hẳn phải là những tay suốt đời ăn gạo chợ, uống nước sông, quen thủy tánh như cơm hằng bữa.
Họ giữ con thuyền rất ổn, tuy sóng dập gió nhồi, gia dỉ họ có những cánh tay lực sĩ, đẩy mái chèo nhanh chóng phi thường.
Trên sông, dù là về đêm, thuyền xuôi ngược vẫn nhiều, không kể những chiếc neo giữa vời, neo gần bờ, thế mà con thuyền nhẹ đó lách qua lách lại, tránh né tài tình, dù tránh né vẫn giữ tốc độ như cũ chẳng hề chậm lại.
Nếu để ý một chút, tất nhận thấy con thuyền đó phải đặc biệt hơn cả mọi thuyền, bởi cái vẻ vội vàng lướt sóng của nó.
Khách thương hồ có ai gấp vội như thế đâu? Trừ phi chở bệnh nhân khẩn cấp, hoặc bị săn đuổi, thì có ai gắng sức như thế?
Phương Bửu Ngọc vốn tánh thận trọng, nhận định ngay cái vẻ khác biệt của con thuyền đó.
Nhận ra sự khác biệt của nó, đương nhiên chàng phải chú ý.
Nơi bờ sông, gần khách sạn An Bình, có bến nước, ngôi nhà che mưa nắng cho khách lên đò quá cũ kỹ, đến thềm đá cũng quá cũ kỹ.
Con thuyền nhẹ trên sông nhắm bến sông đó tiến đến, gần đến nơi bẻ lái ngoặt vào.
Phương Bửu Ngọc giật mình, dưới sông người trên thuyền đã quăng giây bám đầu trụ.
Thuyền vừa ngừng, từ trên thuyền, một đại hán phi thân lên bờinh tôi!
Âm thinh im bặt.
Ngưu Thiết Oa chờ đợi một lúc lâu, chẳng nghe người đó nói gì nữa liền cao giọng hỏi:
- Các hạ có nghe tôi nói không?... Hừ! Các hạ bảo rằng đến đây trò chuyện cho tôi đỡ tịch mịch, rồi lại nín thinh, tôi còn trò chuyện với ai?
Âm thinh vẫn im bặt.
Ngưu Thiết Oa hét:
- Các hạ không nói gì, tôi sẽ bước tới đấy nhé! Đừng trách tại sao tôi bước tới đấy nhé!
Đợi một lúc, chẳng nghe tiếng nói từ bụi cây vọng ra, Ngưu Thiết Oa bước tới liền.
Gã đưa cánh tay hộ pháp, sè hai bàn tay cứng như sắt ra trước mặt, vẹt cành cây, sục sạo một lúc, chẳng gặp ai cả.
Gã càu nhàu:
- Quái! Hắn mới nói chuyện với ta đó rồi hắn biến đâu mất rồi?
Gã xô gã đẩy những cành cây ào ào, rột rạt, nhưng vô ích, gã chẳng gặp gì cả.
Gã bực dọc, lại sục sạo một lúc nữa, bất giác thấy một người ngồi thu hình dựa một gốc cây.
Gã bật cười ha hả:
- Đó! Đó! Các hạ định trốn đâu cho khỏi tay tôi chứ?
Gã bước tới gần một chút, bổng gã lùi lại liền, rồi gã đứng lại mồm há hốc, mắt trợn trừng, mặt xanh dờn.
Trước mắt gã, người ngồi đó có gương mặt như mặt quỷ, da sần sùi, có chỗ tét ra thành những đường ngắn trắng toát, mũi phồng to, mắt lồi ra.
Một mình gã, giữa đêm khuya, tại cảnh vắng, gặp một con người như vậy, dù gan lỳ Ngưu Thiết Oa cũng phải rợn người, huống chi gã chưa có gan lỳ?
Thân hình gã rung bần bật.
Lưỡi gã líu lại một lúc lâu, gã mới ấp úng hỏi:
- Ngươi... ngươi là cái quái gì?... Ngươi là người hay quỷ? Sống hay chết?
Người đó ngồi bất động, câm lặng.
Trong khi Ngưu Thiết Oa đăm đăm nhìn người đó, phía sau lưng gã, có người gọi:
- Thiết Oa! Ngươi đang nói chuyện với ai đó?
Đang sợ, nghe người gọi, Ngưu Thiết Oa càng sợ hơn, gã quay nhanh mình lại, nhận ra Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa đang nhìn gã.
Chẳng rõ họ xuất hiện từ lúc nào!
Ngưu Thiết Oa mầng như khát nước hai hôm gặp giòng suối mát, hấp tấp kêu lên:
- Đại ca! Đại ca đã trở lại! May quá, chính là đại ca! Nếu không phải đại ca, chắc tôi điên mất! Tôi chết mất!...
Phương Bửu Ngọc lấy làm lạ:
- Ngươi đã thấy gì?
Ngưu Thiết Oa đưa tay chỉ:
- Đại ca nhìn kia, bên gốc cây đó!
Phương Bửu Ngọc nhìn theo tay gã chỉ, bất giác hãi hùng, nhưng chàng trấn định tâm thần ngay, bước tới.
Ngưu Thiết Oa bước theo chàng ấp úng hỏi:
- Người đó... chết rồi hay... còn sống, hở đại ca?
Tiểu công chúa hớt đáp:
- Chỉ sợ hắn đã chết!
Phương Bửu Ngọc vụt hỏi:
- Cô nương xem kỹ, xem hắn là ai!
Ngưu Thiết Oa trố mắt:
- Đại ca nhận ra hắn?
Tiểu công chúa kêu lên thất thanh:
- Hắn! Thì ra chính là hắn! Chúng ta tìm mãi mà chẳng gặp, không ngờ hắn lại ở đây! Kẻ nào hạ độc thủ khiến hắn ra thân thể đó?
Ngưu Thiết Oa nhìn kỹ, vụt rú lên:
- Hắn! Hắn cầm đèn đỏ vừa rồi!
Đại hán bị hủy hoại gần như biến thể, bất quá họ bằng vào một vài đặc điểm của con người vừa ly khai, mà nhận ra thôi.
Tiểu công chúa căm hờn:
- Độc! Tàn độc thật!
Phương Bửu Ngọc cúi mình xuống quan sát kỹ hơn một chút, lẩm nhẩm:
- Kỳ quái! Kỳ quái! Thủ pháp phân cân dịch cốt!
Tiểu công chúa cười lạnh:
- Bây giờ ngươi mới thấy như vậy à!
Phương Bửu Ngọc thốt:
- Tại hạ đã thấy từ lúc đầu, song không tin lắm, bởi thủ pháp đó thuộc về vũ học của chánh tông nội gia, cứ theo chỗ hiểu biết của tại hạ, thì ngày nay trên giang hồ chỉ có mấy người trong các phái Vũ Đương, Thiếu Lâm, Nga My là biết xử dụng, số người đó rất hạn chế! Vậy ai đã hạ thủ?...
Tiểu công chúa lạnh lùng:
- Trong hàng đệ tử nội gia chánh tông, há chẳng có kẻ lòng lang dạ sói, lừa bạn, phản thầy sao? Ta chỉ ước mong kẻ nào hạ độc thủ, đừng chết gấp thôi, thì sớm muộn gì ta cũng biết được kẻ đó là ai!
Nàng cúi xuống, đập tay vào mấy huyệt đạo, đại hán rung chuyển mình, thân thể co rút lại.
Sau cùng, hắn kêu lên một tiếng, tỉnh lại.
Hắn tỉnh lại nhưng tỏ vẻ đau đớn phi thường. Chừng như cái đau đớn hành hạ hắn quá độ, chịu không nổi, hắn tỉnh lại.
Ngưu Thiết Oa mọc ốc đầy mình, Phương Bửu Ngọc bất nhẫn quá.
Nhưng, tiểu công chúa thản nhiên như thường, thần sắc chẳng hề biến đổi.
Nàng lạnh lùng nhìn đại hán, hỏi:
- Tỉnh lại rồi phải không? Sao chưa mở mắt?
Đại hán mở mắt ra, trông thấy tiểu công chúa, mặt lộ vẻ hân hoan ngay, song trong vẻ hân hoan có ẩn ước niềm kinh hải.
Hắn rung giọng thốt:
- Tôi chẳng có nói gì cả! Tôi không có nói chi hết!...
Phương Bửu Ngọc giật mình:
- Người đó muốn các hạ nói gì?
Đại hán cứ kêu lên:
- Tôi chẳng có nói gì cả! Tôi không có nói chi hết!...
Phương Bửu Ngọc cố kiên nhẫn:
- Ai hạ thủ hãm hại các hạ?
Đại hán vẫn rung giọng:
- Tôi không biết! Tôi chẳng biết việc gì cả!
<.
Dưới ánh trăng đại hán hiện ra với thân pháp cực kỳ nhẹ nhàng, cử động nhanh nhẹn, y chớp chớp đôi mắt, ánh chớp sáng lạ thường, y nhìn ra bốn phía, y bắt gặp bóng Phương Bửu Ngọc bên trong cửa sổ vội bước thẳng đến.
Biết vậy,chàng vẫn trấn định tâm thần, thử xem đại hán đó sẽ làm gì.
Đại hán đi thẳng đến cửa sổ, cửa cao y đứng ở bên ngoài đầu ngang bệ, y nhìn Phương Bửu Ngọc một chút, đoạn nghiêng mình trầm giọng hỏi:
- Phương đại hiệp phải không?
Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:
- Chẳng dám nhận hai tiếng đại hiệp! Các hạ có điều chi chỉ giáo?
Đại hán không đáp, bước tới gần hơn một chút lấy trong mình ra một phong thơ, hai tay trao lên đồng thời đáp:
- Tiểu nhân vâng lệnh thượng cấp, mang đến trình đại hiệp!
Phương Bửu Ngọc tiếp lấy phong thơ, nhìn thoáng qua bên ngoài.
Đại hán cúi đầu:
- Tiểu nhân xin cáo thoái!
Y lui ba bước, toan quay mình, Phương Bửu Ngọc quát khẽ:
- Hãy khoan!
Đại hán hỏi:
- Phương đại hiệp còn điều chi phân phó?
Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút:
- Các hạ đợi một chút, biết đâu tại hạ chẳng cần hồi âm?
Chàng mở phong bì, bóc thơ xem liền.
Tờ thơ chỉ có mấy chữ:
- Canh tư, qua sông Hoàng Hà có thuyền đèn đỏ đón!
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Chủ nhân các hạ sao chẳng chỉ rõ địa điểm, để tự tại hạ đi? Bày vẽ cái lối mỗi đoạn đường mỗi gởi tin như thế nầy? Không ngại làm lụy phiền người ta sao chứ? Mà còn lụy phiền cho mình nửa đấy!
Đại hán nghiêng mình:
- Tiểu nhân chỉ biết có mỗi một việc mang thơ, ngoài ra thì không dám hiểu gì khác!
Phương Bửu Ngọc lại hỏi:
- Hành động như vậy, hẳn chủ nhân các hạ có điều gì ẩn bí chứ?
Đại hán nghiêng mình:
- Tiểu nhân không dám biết gì hơn ngoài nhiệm vụ được ủy thác!
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Được rồi! Các hạ cứ đi!
Đại hán nghiêng mình lần cuối:
- Xin cáo từ đại hiệp!
Hắn đi nhanh xuống thuyền, mở giây, gảy chèo.
Con thuyền rẽ nước lướt đi, vẫn tốc độ như trước, chừng như hắn tranh thủ thời gian, chừng như hắn thuộc một tổ chức mà bất cứ hành động nào cũng có tánh cách khẩn cấp.
Nhìn con thuyền ra giữa giòng sông rồi, Phương Bửu Ngọc tự thốt:
- Tại sao đến hôm nay mà Hỏa Ma Thần vẫn còn giữ vẻ bí ẩn với ta? Lão có mưu toan một điều gì bất lợi cho ta chăng!
Vừa lúc đó, con thuyền khác, cũng thuộc loại thuyền nhẹ nhưng lại có buồm, cánh buồm trương ra, bọc no gió từ thượng lưu xuôi xuống, nhanh như tên bắn.
Bình sanh, Phương Bửu Ngọc chưa từng thấy thuyền nào lướt nhanh bằng.
Một tốc độ kinh khủng!
Tuy còn xa, tuy đang đêm, Phương Bửu Ngọc vẫn thấy mờ mờ ba bóng người.
Con thuyền sau nhắm con thuyền trước mà tiến tới.
Đại hán trên thuyền trước kinh hãi, hấp tấp lái thuyền mình tránh qua một bên, đồng thời quát lên:
- Các ngươi đã điên hết rồi chăng? Cấp tốc quay thuyền lại!
Từ bên thuyền sau, hai đường giây cảo được quăng sang, đầu giây cảo dĩ nhiên có móc câu, trong thoáng mắt, hai con thuyền được liên kết với nhau liền.
Đại hán kêu lên kinh hãi:
- Phương đại hiệp! Xin cứu mạng!
Tiếng kêu của hắn còn âm hưởng trong không gian, Phương Bửu Ngọc đã vọt mình ra cửa sổ, nhưng đại hán đã bị kéo qua con thuyền kia rồi.
Cấp tốc con thuyền đó quay mũi, xuôi giòng, thuyền lướt đi như tên bắn.
Thuyền lướt đi, hai đường giây cảo còn lại đó, giây cảo dính vào con thuyền không bập bềnh trên giòng nước.
Sự việc diễn ra trong khoảng một cái nháy mắt, Phương Bửu Ngọc đứng trên bờ, nhìn theo hút con thuyền, lòng hết sức kinh dị.
Chàng tự hỏi, ba bóng người trên thuyền là ai? Sao lại bắt gã thuộc hạ của Hỏa Ma Thần?
Bắt gã đó để làm gì?
Hỏa Ma Thần hành sự vô cùng bí ẩn, không lẽ sự bí ẩn đó chỉ có một lý do là tránh né ba người nầy?
Và nếu lo sợ như vậy, tại sao Hỏa Ma Thần không chỉ ngay địa điểm gặp nhau cho chàng, lại chỉ từng giai đoạn một làm chi? Từ Vạn Trúc sơn trang, đến Bình Âm thành, rồi từ Bình Âm thành sang bên kia bờ Hoàng Hà? Rồi từ bờ kia, có người đưa đến nơi nào khác nửa?
Tại sao lão làm như thế?
Nếu lão chỉ ngay địa điểm, chỉ một lần thôi, thì đã tránh được bao nhiêu phiền phức chăng?
Lão bỏ cái dể làm cái khó, thế là nghĩa lý gì? Thật chẳng làm sao đoán định được ý tứ của lão.
Phương Bửu Ngọc dù thừa thông minh, gặp trường hợp nầy vẫn chịu thôi chẳng làm sao suy ra lẽ.
Chàng quay đầu nhìn lại thấy tiểu công chúa đã ra đến nơi chẳng rõ từ lúc nào.
Gió sông thổi mạnh, phất bay tà áo trắng của nàng, tà áo uốn lộn như sóng lượn nhồi nhồi, tà áo trắng phản ảnh với suối tóc đen cùng buông trôi theo làn gió.
Giữa hai màu đen trắng đó, gương mặt trắng hồng của nàng hiện ra, đẹp vô cùng, đẹp ảo huyền mông lung.
Càng đẹp hơn là đôi mắt đen lay láy, chớp sáng ngời như hai vì sao trời gắn bên cạnh đường mi cong xanh mượt...
Nàng đứng đó bất động, nàng cũng chẳng thốt tiếng nào.
Nàng hiện ra ảo huyền, nàng lại im lặng như bóng ma, sự xuất hiện của nàng càn sẽ chỉ dẫn lộ đồ cho ngươi, do đó, kẻ kia dùng đủ mọi thủ đoạn, bắt những người mang tin đến cho ngươi, để bắt các người ấy cung khai địa điểm Ma cung Ngũ Hành. Còn như cái việc ngăn trở ngươi đến đó, thì ta không tưởng kẻ kia quá chú trọng.
Phương Bửu Ngọc lắc đầu:
- Cô nương có nhận xét của cô nương, tại hạ có sở kiến của tại hạ.
Dù sao thì tại hạ cũng nghĩ rằng người ấy có ý định ngăn trở tại hạ.
Tiểu Công Chúa cau mày:
- Tại sao người ấy muốn ngăn trở ngươi?
Phương Bửu Ngọc đáp:
- Giả sử người đó có muốn biết Ngũ Hành Ma Cung ở tại chỗ nào, thì cứ theo dõi chúng ta, hà tất phải xuất lực hạ thủ ở mỗi trạm dừng?
Hà tất phải đi trước chúng ta?
Tiểu Công Chúa trầm ngâm một lúc:
- Ngươi có lý!
Ngưu Thiết Oa vụt kêu lên:
- Kỳ quái! Kỳ quái!
Tiểu Công Chúa day qua gã:
- Cái gì nữa đó, ngốc tử?
Ngưu Thiết Oa thốt:
- Đại ca và cô nương cứ nói mãi về Ngũ Hành Ma Cung, làm như nơi đó là thiên đàng, ai ai cũng muốn tới! Tôi tự hỏi, nơi đó có gì hấp dẫn khiến thiên hạ thích đến chứ?
Tiểu Công Chúa mỉm cười:
- Nơi đó chẳng có gì hấp dẫn cả, chẳng những từ xưa đến nay, không có ai tới được, mà dù có tới được nơi đó rồi cũng không thể sống sót mà trở về. Vậy mà vẫn có người muốn tới đó, Thiết Oa ạ!
Ngưu Thiết Oa trố mắt:
- Cô nương biết tại sao chứ?
Tiểu Công Chúa không đáp, Phương Bửu Ngọc cất tiếng:
- Trong Ngũ Hành Ma Cung có Thanh Mộc chủ nhân, ngày trước là một vị minh chủ võ lâm, tóm thâu quá nhiều tài vật, nếu kê khai số bạc vàng châu báu của lão ấy, người đời chỉ nghe thôi cũng đủ xanh mặt rồi, chẳng đợi gì phải nhìn thấy mà choá cả mắt đến mù luôn.
Tiểu Công Chúa gật đầu:
- Đúng vậy! Người, vì tiền mà chết, chim vì mồi mà chết, ai ai cũng biết như vậy, song trên đời chẳng ai dè được lòng. Nhưng, ngoài Thanh Mộc chủ nhân ra, ngươi còn biết chi nữa chăng?
Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một lúc:
- Theo lời truyền thuyết trên giang hồ, thì dưới tay Kim Hà Vương có bọn Huỳnh Kim ma nữ, chúng tuổi trẻ, đẹp người vóc dáng yểu điệu, lại có cái thuật dụ dẫn ai tiếp cận với chúng...
Chàng không thể dứt câu tròn ý, bởi đoạn cuối của câu khó nói thành lời, bởi nó thô tục nó ti bỉ vô cùng, bởi sự thật là nếu ai giao tiếp với bọn Huỳnh Kim Ma Nữ, sướng thì sướng hơn tiên, mà rồi cái khổ theo liền, khổ còn hơn sa địa ngục.
Chàng không nói, Tiểu Công Chúa cũng thừa hiểu, nàng đỏ bừng mặt, xì một tiếng lớn:
- Ngươi chưa tròn một tuổi giang hồ mà đã hiểu quá nhiều sự việc, nghe nhiều quá truyền thuyết! Thì ra ngươi...
Nàng lại hừ một tiếng, đoạn tiếp:
- Cho ngươi biết, những điều ngươi tiêm nhiễm trong đầu óc thuộc loại dơ dáy, thì ra ngươi chẳng phải là một kẻ tốt chi đó...
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Thiên hạ nói làm sao, tại hạ thuật lại làm vậy, cô nương đã hỏi, tại hạ phải nói...
Tiểu Công Chúa lại hừ thêm tiếng nữa:
- Tốt! Tốt! Ta cũng cho là ngươi có lý, lỗi là tại khách giang hồ truyền thuyết cái dơ dáy cho nhau nghe, vô hình trung, ngươi lại nghe!
Ta hỏi ngươi, ngươi còn biết điều chi nữa chăng, nếu còn thì cứ nói luôn, đừng ấm ớ!
Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:
- Tiền tài, sắc dục, hai điều đó còn chưa đủ sao?
Tiểu Công Chúa bĩu môi:
- Việc gì, ngươi cũng biết, biết hết, thế tại sao ngươi chẳng biết tiền tài, sắc dục, tuy có sức hấp dẫn, song chỉ hấp dẫn bọn hạ đẳng cùng lưu, bọn phi nhân phi nghĩa, bọn vong bổn vong tông, bọn lòng thú hình người? Phàm những ai từng nói đạo đức, từng học cao minh, thì khi nào lại xem mấy lượng bạc, một vài ánh mắt, một vài nụ cười có giá trị ngang một lương tâm đâu? Con người ta, nào phải tất cả đều là chó, mà thấy thịt quăng liền nhào tới, táp liên hồi?
Nàng nhấn mạnh thêm:
- Nữ sắc, chung quy rồi ra sao? Bất quá, con người đẹp đến đâu hấp dẫn đến đâu, lúc sống thì được thiên hạ nâng niu, chuyền tay như châu báu. Khi chết rồi, thịt rữa, xương thối, ai ai cũng bịt mũi mà qua, ai ai cũng nhăn mày mà ngoảnh mặt, thì nữ sắc có phải là quý, vĩnh viễn quý đâu?
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Không vì tiền tài, không vì sắc dục, thế hạng người cao minh như cô nương vừa nói đó quý, muốn gì?
Tiểu Công Chúa trầm giọng:
- Không lẽ ngươi chẳng nghe giang hồ truyền thuyết chủ nhân Mậu Thổ Cung là một kẻ phong nhã, thu nhặt tất cả những bức họa từ nghìn xưa, tích trữ trong cung, ngoài ra không tiếc tiền mua tất cả những đồ vật xưa, kể ra, những đồ vật và những bức danh họa đó, có giá trị ngang với cơ nghiệp một quốc vương. Lại còn Hỏa Ma Thần chế luyện những hỏa khí vô song, bất cứ một vị vương đế nào muốn có đầy đủ phương tiện để giữ vững giang san, cũng tha thiết mong chiếm được những hỏa khí đó. Người ta ham thích, người ta muốn đến tận Ngũ Hành Ma Cung, chiếm đoạt những vật đó, hơn là tiền tài, hơn là nữ sắc, bởi nữ sắc, nơi nào cũng có, tiền tài lại dễ tìm ra, còn những vật kia thì cầm như hi hữu. Song người ta không biết đường đi đến Ngũ Hành Ma Cung, người ta cũng chẳng dám va chạm đến Hỏa Ma Thần.. Phương Bửu Ngọc mỉm cười:
- Cô nương nói đúng! Những vật trong Mậu Thổ Cung rất quý, những hỏa khí của Hỏa Ma Thần còn quý hơn!
Tiểu Công Chúa tiếp:
- Nhưng, nhân vật chân chính cao thượng là không xem những thứ đó là quý, họ còn nhìn xa hơn!
- Phải!
Người đó tiếp:
- Xin mời xuống thuyền!
Thốt xong, hắn lấy ngọn đèn xuống, thổi tắt liền.
Trong thuyền có ba người, áo ngắn, chân không, có vẻ là trạo phu ngồi nơi một góc.
Hiển nhiên cả ba đều bị điểm huyệt.
Bọn Phương Bửu Ngọc xuống thuyền rồi, một người ở bên ngoài gảy chèo, một người ở bên trong đốt lên ngọn đèn khác.
Nhìn ba đại hán nơi góc thuyền, Phương Bửu Ngọc hỏi người kia:
- Chính các vị hạ thủ?
Người đó đáp:
- Phải!
Phương Bửu Ngọc thở dài:
- Các vị không chuẩn bị thuyền, lại tùy ý đoạt thuyền của người khác, hẳn có mục đích tạo cái vẻ huyền bí cho hành động, để cho thiên hạ không ai biết thế nào mà truy nguyên ra!
Người đó lạnh lùng:
- Phải!
Phương Bửu Ngọc hỏi:
- Các vị làm thế, hẳn cố trốn tránh một người. Người mà các vị trốn tránh là ai?
Người đó không đáp, cầm chiếc giỏ cung cung kính kính trao cho Tiểu công chúa.
Tiểu công chúa cau mày:
- Cái gì đấy?
Người đó cung kính thốt:
- Những thực vật cô nương thích dùng nhất!
Tiểu công chúa lộ vẻ hân hoan:
- Ạ! Thật vậy sao?
Nàng tiếp chiếc giỏ, mở nắp ra, thấy trong đó có đôi đũa và cái chén bằng bạc, ba cái thố bằng ngọc xanh, giỏ vừa mở nắp, từ bên trong một mùi thơm phưng phức bốc ra.
Tiểu công chúa vỗ tay cười lớn:
- Đúng là vật ta thích dùng!... Các vị còn nghĩ đến tôi, thật may mắn cho tôi biết bao nhiêu! Người ta hầu như bỏ đói tôi mấy hôm nay đấy!
Nàng trừng mắt nhìn căm căm Phương Bửu Ngọc gằn giọng:
- Ngươi thấy chưa, người khác đối xử với ta rất tốt, còn ngươi, ngươi chỉ cho ta ăn cái loại mì mà đến chó cũng nuốt không trôi!
Rồi nàng cầm đũa, ăn liền, ăn không nhìn ai, không mời ai.
Phương Bửu Ngọc giật mình, thầm nghĩ:
- Hỏa Ma Thần đưa đồ ăn đến, có cái ý tỏ ra săn đón nàng, mà cũng có luôn cái ý muốn thị Oai với ta, lão cho ta biết rằng nhất cử nhất động gì của ta, không lọt được tầm mắt của lão. Đến cái việc ta mua mì cho nàng ăn, lão cũng biết rõ! Hừ, sao thủ hạ của lão đông thế, nơi nào cũng có mặt cả?
Ngưu Thiết Oa nghe Tiểu công chúa nhai nhóc nhách, nuốt ừng ực, bất giác lấy làm lạ, ngóng cổ nhìn.
Những gì trong ba chiếc thố, có đủ màu xanh, đỏ, trắng, vàng chừng như thơm và ngon lắm vậy.
Chỉ nhìn thôi, cũng đủ rõ dãi rồi, chẳng đợi gì ngửi đến.
Gã thầm nuốt nước bọt, nhưng lại càu nhàu:
- Tưởng gì, chứ như vậy thì sao gọi là ngon?
Tiểu công chúa bật cười khanh khách:
- Vật gì mà mình không ăn được, dĩ nhiên vật đó sẽ là không ngon!
Bởi làm sao ăn được mà biết ngon? Không ăn được nên chẳng bao giờ khen ngon! Nếu ta cho ngươi ăn một miếng, chắc chắn là ngươi không chê nữa vậy!
Ngưu Thiết Oa chớp mắt, cười hì hì:
- Muốn cho tôi tin, ít nhất cũng phải để cho tôi ăn một miếng chứ!
Tiểu công chúa lại cười:
- Ngươi có vẻ ngốc đấy, nhưng cũng biết lừa người! Được rồi, ngươi muốn nếm thử, ta cho liền!
Ngưu Thiết Oa thoáng đỏ mặt, len lén đưa mắt nhìn sang Phương Bửu Ngọc.
Phương Bửu Ngọc không để ý đến gã.
Gã liếm môi, mặt ửng đỏ hơn thốt:
- Tôi chỉ ăn một miếng nhỏ, rất nhỏ thôi!
Tiểu công chúa gắp một đũa đưa qua cho gã nhưng đưa đến nửa vời, nàng rụt tay về rồi chỉnh sắc mặt thốt:
- Không được! Vật nầy sánh sao được cái món mì hôm nọ? Ngươi không nên ăn làm gì, có ăn cũng chê thôi!
Ngưu Thiết Oa lần nầy thì đỏ mặt quá chừng.
Tiểu công chúa gập lưng xuống mà cười.
Cười một lúc, nàng lại đưa đũa ra nín cười thốt:
- Đây, lần nầy thì ta cho ngươi ăn thực sự! Ăn một miếng thôi nhé!
Ngưu Thiết Oa quay mặt nơi khác, hận:
- Tôi không ăn!
Nhưng gã lại quay mặt trở lại, nhìn hỏi:
- Món... món đó là món gì thế!
Tiểu công chúa bĩu môi:
- Khi nào ngươi biết được cái món nầy là gì mà hỏi? Đừng nói là có ăn qua, đến cái tên của nó, ngươi cũng chưa từng nghe nói đến nữa mà!
Ngươi biết không, món nầy là măng mọc mùa đông, nấu với lưỡi chim anh vũ, dùng óc cá làm đậu hũ, gia vị...
Ngưu Thiết Oa trố mắt:
- Những mảnh đỏ đỏ đó, là lưỡi chim anh vũ?
Tiểu công chúa gật đầu:
- Đúng vậy.
Ngưu Thiết Oa kêu lên:
- Trời! Nấu được một thố như thế, phải giết bao nhiêu anh vũ?...
Tiểu công chúa điềm nhiên:
- Không bao nhiêu, độ trăm con thôi!
Ngưu Thiết Oa biến sắc:
- Cô nương... tại sao... lại thích ăn...
Tiểu công chúa thốt:
- Cái lưỡi của chim anh vũ, linh hoạt phi thường, cho nên ăn rất ngon. Không tin, ngươi cứ nếm thử đi, chỉ ăn một miếng thôi, ngươi sẽ nhớ hương vị của nó suốt đời!
Ngưu Thiết Oa đột nhiên đứng lên, mặt lộ sắc giận:
- Tàn nhẫn! Cô nương thật là tàn nhẫn! Muốn ăn một thố như vậy, phải giết hàng trăm con anh vũ, mà giết rồi, không ăn thịt chỉ ăn cái lưỡi thôi! Giả như có người x;'>
Phương Bửu Ngọc khẽ dặng hắng một tiếng, cất cao giọng hỏi:
- Trong nhà có ai chăng?
Gió thổi qua, gió luồn đến cửa, gió rít qua khe trúc, nghe vu vu.
Phương Bửu Ngọc lại hỏi một lượt nữa.
Bên trong nhà chẳng có ai hồi đáp.
Ngưu Thiết Oa trầm giọng:
- Hay chẳng phải nơi nầy?
Phương Bửu Ngọc cũng hoài nghi, lẩm nhẩm:
- Tấu xảo chăng? Ngọn đèn đỏ nầy, vô ý trung mà có, chứ chẳng phải do Hỏa Ma Thần nêu lên?
Tiểu công chúa lắc đầu:
- Làm gì có sự tấu xảo như thế được?
Nàng xô cửa, ngang nhiên bước vào nhà.
Ngôi nhà đó gồm ba gian, gian có cửa, gian giữa là một khách sảnh, nơi đó có một cái bụt thờ, và thần tượng là Quan Âm Đại Sĩ, và một bức tượng Quan Thánh Đế Quân.
Trước bụt thờ, có bàn Bát Tiên, trên bàn có ba bộ chén đũa, có một chiếc giỏ, trong giỏ mường tượng có mấy cái thố, dĩa, bình trà.
Bên tả, có một cái cửa ăn thông qua ngọa phòng, trong đó có một chiếc giường gỗ, xem chừng nặng lắm, trên giường có mấy chiếc chăn, mấy cái gối.
Mùi cơm nóng xông ra phưng phức, từ cửa hậu đưa tới.
Củi cháy từ nơi bếp vang lên lách tách, nghe rõ ràng.
Gian khách sảnh ấm áp vô cùng.
Nhìn cách bày trí trong nhà, vật dụng tất cả đều thích hợp với nếp sống một nông phu, dù khó tánh đến đâu cũng không ai tìm được một đặc điểm gì để có thể nghi ngờ đây là một ngôi nhà ngụy trang cả.
Nhà không có người.
Họ đi qua một vọng cửa, họ sang tả, qua hữu, vào tận sau bếp họ chẳng thấy một bóng người.
Đến bây giờ, tiểu công chúa mới lộ vẻ kinh dị.
Phần Phương Bửu Ngọc thì tự hỏi chẳng rõ Hỏa Ma Thần muốn giở một trò chi nữa đây.
Tiểu công chúa cứ đi vòng quanh nhà, từ trước ra sau, từ tả sang hữu, đi như thế đến mấy lượt, vừa đi vừa lẩm nhẩm:
- Không lý họ chưa đến?
Ngưu Thiết Oa không để ý đến vật gì ngoài cái giỏ có đựng mấy cái thố, dĩa, giỏ để bên trong chiếc lồng bàn to lớn.
Gã lại còn hểnh mũi hít hít mùi cơm thơm phức, mắt gã chớp liền liền.
Nếu có ai đứng gần gã, hẳn nghe trong ruột gã có tiếng rột rột, như con ma đói đang gào trong đó.
Sau cùng không dằn được cái nhột nhạt nơi dạ dày, gã đưa tay giở chiếc lồng bàn lên.
Bỗng, gã rú lên một tiếng kinh khủng, rồi lùi nhanh hai bước.
Gã ngã xuống nền nhà, mang luôn chiếc lồng bàn trong tay.
Phương Bửu Ngọc giật mình, hỏi gấp:
- Cái gì thế?
Ngưu Thiết Oa lí nhí:
- Đại ca xem... đại ca xem... ai... ai...
Trong chiếc giỏ, có một cái thố, cũng đựng thức ăn nấu bằng lưỡi chim anh vủ màu đỏ hiện ra trước mắt, hòa lẫn với màu trắng màu vàng của vài vật gia vị.
Phương Bửu Ngọc nhìn thoáng sang Tiểu công chúa, thốt:
- Họ đã đến đây rồi!
Tiểu công chúa điềm nhiên:
- Họ đã đến, là họ còn ở quanh đây, chưa đi đâu xa!
Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút:
- Lửa còn cháy, cơm chưa dọn lên, điều đó chứng tỏ họ chưa đi đâu xa, nhưng họ đi như thế, là có vẻ vội vàng.
Chàng lẩm nhẩm tiếp:
- Tại sao họ bỏ đi? Họ còn đi đâu nửa?
Tiểu công chúa hừ một tiếng:
- Ngươi không đoán ra được, thì ngồi đây mà chờ, chờ họ đến mà hỏi, chứ lí nhí cái gì?
Phương Bửu Ngọc cau mày:
- Chừng nào họ mới trở lại? Biết họ có thể trở lại hay không?
Tiểu công chúa bĩu môi, nhìn chiếc giỏ, rồi hỏi:
- Tại sao lại không trở lại? Dĩ nhiên họ phải trở lại, bởi họ chưa gặp ngươi kia mà!
Nàng chép miệng:
- Trông thấy cái giỏ nầy, ta nghe đói liền. Chúng ta cứ ăn, ăn no rồi hãy tính.
Ngưu Thiết Oa vỗ tay cười lớn:
- Phải! Ẩm thực vi tiên! No bụng rồi, hãy nghĩ đến chuyện dùng óc.
Cái chủ ý đó, đáng ngợi lắm lắm!
oo Họ ăn xong, là đêm xuống hoàn toàn.
Đêm thu nào cũng lạnh, và đêm thu nào cũng sáng, không trăng thì có sao, huống chi có trăng?
Sao và trăng, sang mùa thu, chừng như hợp mùa, nên nhả sáng rất dồi dào.
Phương Bửu Ngọc lấy một chiếc ghế, đặt dựa cửa, ngồi xuống đó.
Chàng nhìn trời, chàng nhìn cây, tâm tư dao động mạnh.
Chàng suy nghĩ, nghĩ về dĩ vãng, nghĩ việc hiện tại, nghĩ đến tương lai, đến viễn ảnh cuộc chạm trán với người áo trắng lúc sang xuân.
Càng nghĩ, chàng càng thấy tâm trí rối loạn vô cùng.
Tiểu công chúa ngồi gần bụt thờ, tay chỏi má, mắt đăm đăm nhìn bức tượng Quan Âm xuất thần.
Ngưu Thiết Oa đang cho con chó ăn.
Gió thu thổi rì rào. Sao thu chơm chớp trên nền trời, ánh sao sáng xuyên qua cành lá, rải châu ngọc khắp nơi, không gian có lạnh song cái lạnh dìu dịu, mơn man êm đềm.
Phương Bửu Ngọc nhìn trời, nhìn cảnh, rồi nhìn tiểu công chúa, nhìn ngôi nhà trang trí nhả khiết...
Chàng có cảm nghĩ là mình được ưu đãi nhất đời, bởi bên mình có bạn hiền trung hậu, có người vợ đẹp, ngoan, tất cả đều lồng trong một khung cảnh thanh khiết...
Nhưng, cảm nghĩ bao giờ cũng là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì rất khó thành sự thật, dù hiện tại có giao niềm tin cho chàng, song với thời gian, bao nhiêu nước chảy qua cầu?...
Bỗng, tiếng chó sủa vang, kéo chàng
- Đại ca có biện pháp gì chăng?
Phương Bửu Ngọc đáp:
- Việc nầy...
Đột nhiên, có tiếng dặng hắng vang lên đâu đây, tiếng dặng hắng vừa nhỏ vừa ngắn nhỏ hơn cả tiếng con thạch sùng tặc lưỡi.
Nhưng, ai ai cũng nghe lọt dù họ đang nói chuyện với nhau.
Tiếng dặng hắng rất bình thường.
Nhưng chẳng rõ tại sao mọi người đều nghe như không bình thường chút nào.
Tiếng dặng hắng mường tượng bao hàm một cảnh báo, một khiêu khích...
Phương Bửu Ngọc ngưng ngay câu nói.
Tiểu Công Chúa đảo mắt nhìn quanh.
Ngưu Thiết Oa hét lên:
- Ai dặng hắng đó?
Bên ngoài cửa, có người hỏi vọng vào:
- Có Phương thiếu hiệp trong nhà này chăng?
Ngưu Thiết Oa reo lên:
- Đến rồi! Đến rồi! Chúng ta khỏi chờ nữa!
Gã vọt ra trước chẳng thấy gì.
Xa xa, dưới tàng cây có một bóng người.
Người đứng đó bất động như pho tượng, tàng cây rủ bóng che khuất y. Ngưu Thiết Oa trông thấy lờ mờ, không làm sao nhận diện được.
Nhưng chẳng rõ làm sao, quanh mình người đó sát khí tỏa lan rộng ra, sát khí càng phút càng bốc mạnh, lan dày, Ngưu Thiết Oa là con người đần độn cũng nhận ra điều đó.
Gã kinh khiếp cơ hồ hơi thở ngừng lại.
X Đêm, vẫn là đêm thu, nơi thôn dã khung cảnh tịnh mịch vô cùng.
Lá thu rơi, sao đêm chớp, lúc đó chừng như bị sát khí ngưng đọng, lá không rơi, sao không chớp nữa.
Dĩ nhiên, gió cũng dừng.
Sát khí tại chiến trường, tại cuộc đấu, sát khí nào lại chẳng nói lên sự giết người? Sát khí làm sao có sự khác biệt, ở nơi này so với nơi khác?
Bởi chung qui vẫn là sát khí.
Lạ lùng thay, trong giờ phút nầy, tại đây, sát khí lạ thường, tuy chẳng ai giải thích nổi cái điểm lạ thường đó.
Dù vậy, họ vẫn nhận thấy cái điểm khác thường. Chẳng qua khung cảnh tạo ra cảm giác, cảm giác sanh ảo tưởng và chính ảo tưởng của họ khác thường, nên họ có ý nghĩ là sát khí lạ thường.
Một con người xuất hiện, phát ra sát khí lạ thường, hắn con người đó không phải tầm thường vây!
Phương Bửu Ngọc trầm giọng nói:
- Các hạ là ai?
Từ người đó bỗng có hai điểm sáng chớp lên, hai điểm sáng đó là đôi mắt của y, trước khi Phương Bửu Ngọc hỏi y đôi mắt đó nhắm lại sau khi chàng nói, đôi mắt đó mới mở ra.
Y mở mắt ra rồi, y vẫn bất động, chẳng thốt một tiếng nào...
Con chó vàng nằm im từ lâu, lúc đó đứng lên, đuôi dựng lên, tai dựng lên, toàn thân thể nó như bứng một thứ nhựa mới.
Ánh mắt đó chớp, nó sủa vang lên, rồi nó vọt tới.
Phương Bửu Ngọc sợ cho nó quát:
- Chó! Dừng lại, chó!
Nhưng con chó làm gì biết nghe? Làm gì nó chịu dừng lại theo lời chàng?
Một làn sáng chớp lên, xẹt tới.
Con chó vàng không kịp kêu lên một tiếng nhỏ, thân hình nó bị tiện làm đôi.
Sát khí đã phát động rồi, sát khí đã kết tinh rồi, biến thành máu, bắt đầu bằng máu chó.
Máu nào cũng máu, máu nào chẳng tanh? Sự giết chóc đã khơi màu, bắt đầu trên xác một con chó.
Ngưu Thiết Oa sững sờ.
Gã muốn mắng một câu, mắng rằng con người đó tàn nhẫn quá, hiếu sát quá, đến một con chó cũng chẳng dung tha!
Song, lưỡi gã như cứng lại, lưỡi cứng thì làm sao phát ngôn được?
Từ trong bóng tối, người ẩn nấp đã thủ nơi tay một thanh đao dài.
Nói là đao, bởi vũ khí đó có hình thức là đao, hoặc giả người xử dụng nó thích gọi là đao, chứ nó giống một thanh trường kiếm. Bởi từ chuôi đến mũi nhọn, nó thẳng tắp, chẳng hề uốn cong tại một khoảng nào.
Nhưng nó là đao! Đao chỉ bén có một bề, chứ không bén cả lưỡi lẫn sống.
Phương Bửu Ngọc nhìn thanh đao, ánh mắt của chàng ngời lên địch ý. Cái ý đó nổi lên thành khí chống lại sát khí của đối phương.
Chàng nhìn một lúc lâu, buột miệng thốt:
- Đao tốt quá!
Người đó cũng thốt:
- Đao tốt quá!
Phương Bửu Ngọc tiếp:
- Đao của họ Bành, Ngũ hổ đoạn môn đao, có bản rộng, còn loại đao tại Sơn Tây, vùng Thái Hanh, thì thân ngắn, trừ hai lại đao đó, còn thì các loại đao khác đều có hình thức uốn cong cong.
Người đó gật đầu:
- Đúng vậy.
Phương Bửu Ngọc lại tiếp:
- Thanh đao này không có tại Trung Thổ!
Người đó gật đầu.
Phương Bửu Ngọc tiếp luôn:
- Đao này xuất phát từ Đông Doanh!
Người đó gật đầu:
- Đúng vậy!
Phương Bửu Ngọc vụt quát to:
- Bằng hữu là ai?
Người đó cười lên mấy tiếng, đoạn rời bóng tối, bước ra.
Dưới ánh sao, y hiện ra trong bộ y phục đen bó sát người, đầu vấn khăn đen, trùm cả mặt, chỉ còn chứa hai lỗ vừa đủ cho một đôi mắt nhìn, đôi mắt của y sáng lạ lùng, tuy đôi mắt chưa mở rộng như thường.
Phương Bửu Ngọc quát:
- Bằng hữu là ai?
Người đó bật chuỗi cười dài, cười một lúc, rồi thốt:
- Đã không là bạn mới, đã không là bạn cũ. Lại chẳng phải thù nhân, hỏi tên nhau làm làm gì? Có nói ra, các hạ cũng chắng hiểu!
Phương Bửu Ngọc trầm giọng:
- Các hạ đến đâyClick="noidung1('tuaid=1881&chuongid=5')">Hồi 05
  • Hồi 06
  • Hồi 07
  • Hồi 08
  • Hồi 09
  • Hồi 10
  • Hồi 11
  • Hồi 12
  • Hồi 13
  • Hồi 14
  • Hồi 15
  • Hồi 16
  • Hồi 17
  • Hồi 18
  • Hồi 19
  • Hồi 20
  • Hồi 21
  • Hồi 22
  • Hồi 23
  • Hồi 24
  • Hồi 25
  • Hồi 26
  • Hồi 27
  • Hồi 28
  • Hồi 29
  • div style='height:10px;'>
    Tiểu công chúa hừ một tiếng:
    - Tại sao ta phải mắng ngươi?
    Ngưu Thiết Oa đáp:
    - Tại vì tôi làm lỗi!
    Tiểu công chúa cười nhạt:
    - Ta mắng một người nào, là người đó xứng đáng cho ta mắng, chứ như ngươi thì...
    Nàng lắc đầu, nhìn ra xa xa...
    Nàng không nói tiếp, nàng nín lặng, nhưng cái nín lặng của nàng còn nặng, còn khó chịu hơn một lời mắng.
    Nhưng, Ngưu Thiết Oa đâu phải là con người sống về tâm lý, gã làm sao hiểu được cái lối mắng người mà chẳng cần dùng ngôn ngữ? Gã làm sao thấm được cái lối mắng câm?
    Gã hỏi:
    - Cô nương không mắng à? Phải mắng chứ, nếu cô nương không mắng thì tôi xốn xang lắm đó! Mắng đi! Phải mắng tôi vài câu, tôi mới yên tâm, cô nương ạ!
    Tuy giận tràn lòng, tiểu công chúa cũng phải bật cười:
    - Ngu như trâu!...
    Phương Bửu Ngọc ngưng trọng thần sắc, từ lúc đầu, cau mày suy tư, bây giờ trầm giọng nói:
    - Người đó tinh thông thủ pháp phân cân dịch cốt, kiếm pháp lại lợi hại phi thường, lại biết rõ sự tình giữa tại hạ và Ngưu Thiết Oa, người đó là ai chứ?
    Chàng hỏi, vì cái ý phải được nêu ra bằng một câu hỏi, chứ thực sự chàng có hỏi nơi ai, nếu không là chàng hỏi chính tâm tư chàng?
    Chỉ có tâm tư chàng mới đáp được câu hỏi đó!

    Xem Tiếp: Hồi 41

    Truyện Ân Thù Kiếm Lục Hồi 01 Hồi 02 Hồi 03 Hồi 04 Hồi 05 Hồi 06 Hồi 07 Hồi 08 Hồi 09 Hồi 10 Hồi 11 Hồi 12 Hồi 13 Hồi 14 Hồi 15 Hồi 16 Hồi 17 Hồi 18 Hồi 19 Hồi 20 Hồi 21 Hồi 22 Hồi 23 Hồi 24 Hồi 25 Hồi 26 Hồi 27 Hồi 28 Hồi 29 Hồi 30 Hồi 31 Hồi 32 Hồi 33 Hồi 34 Hồi 35 Hồi 36 Hồi 37 Hồi 38 Hồi 39 Hồi 40 Hồi 41 Hồi 42 Hồi 43 Hồi 44 Hồi 45 Hồi 46 Hồi 47 Hồi 48 Hồi 49 Hồi 50 Hồi 51 Hồi 52 Hồi 53 Hồi 54 Hồi 55 Hồi 56 Hồi 57 Hồi 58 Hồi 59 Hồi 60
    Truyện Cùng Tác Giả Âm Công Ân Thù Kiếm Lục Anh Hùng Vô Lệ Bá Vương Thương Bạch Cốt Lâm BẠCH NGỌC LÃO HỔ Bất Tử Thần Long
    Bất thình lình y cười mấy tiếng, nụ cười, tiếng cười ảm đạm bi thương.
    Y tiếp:
    - Thực ra, cũng chẳng phải tại hạ bức các hạ. Chính là cái chiêu đao bức các hạ mới đúng hơn. Tại hạ đã nói, chiêu đó xuất phát rồi thì ánh máu ngời lên, và phải có người táng mạng.
    Phương Bửu Ngọc thở dài:
    - Các hạ... chẳng lẽ các hạ biết trước là cái chiêu đó...
    Người áo đen lại chận lời:
    - Phải! Tại hạ biết trước. Cái chiêu đó phát xuất, một trong hai chúng ta phải chết, Không thể có trường hợp khác được.
    Phương Bửu Ngọc thở dài:
    - Nhưng tại sao các hạ vì người khác mà tự chuốc lấy cái khổ vào mình? Các hạ đem sanh mạng làm vậy thực nghiệm cho người ta, thế là có ý tứ gì?
    Người áo đen thở ra:
    - Trước khi truyền cái chiêu thức đó cho tại hạ, người áo trắng có nói, nếu chẳng có ai phá nổi chiêu đó, thì tại hạ đương nhiên trở thành vô địch trên giang hồ, tùy ý tung hoành, bằng ngược lại, có ai đó phá được chiêu đó thì tại hạ phải táng mạng. Tại hạ có suy nghĩ rất kỹ, sau một thời gian lâu mới quyết tâm tiếp nhận cho người áo trắng truyền dạy cái chiêu tuyệt diệu. Tại hạ cam tâm tình nguyện, thì còn oán trách được ai.
    Phương Bửu Ngọc mơ màng một lúc lâu, buông giọng não nùng:
    - Lấy sanh mạng vô giá của một con người, đổi lấy một chiêu đao.
    Trời! Tại sao các hạ khinh thường chuỗi ngày do tạo hóa ban cho? Có cái ích lợi chi, khiến các hạ phải động tâm mà chấp nhận một cuộc đổi chác thê thảm như thế chứ?
    Người áo đen hừ một tiếng:
    - Các hạ cho là sự cam tâm của tại hạ không có giá trị gì?
    Phương Bửu Ngọc không đáp câu đó, chỉ thốt lên cái cảm nghĩ của mình:
    - Chiêu đao quả thật lợi hại, quả thật kinh thiên động địa, có thể làm cho quỷ khóc, thần sầu, chiêu đao tạo sát khí quá nhiều. Song, bởi sát khí quá nhiều, quá dày, tại hạ mới phá nổi. Nếu sát khí vơi vơi lỏng lẻo, thì chắc chắn là tại hạ vô phương đối phó.
    Chàng nêu lên một điểm triết lý của võ học, chỉ có những người võ học cao thâm, mới thấu triệt được.
    Người áo đen trầm ngâm một lúc lâu đoạn gật đầu:
    - Đúng!... Đúng!.... Sát khí quá dày, dày là phải cứng, chiêu đưa ra, cái khí cũng cứng theo, khi gần như thành vật hữu thể, ngươi dễ thấy cái vật hữu thể đó, giả dĩ sát khí loãng thì mờ mờ khó thấy sơ hở, sát khí dày thì ánh mắt rà theo, để tìm chỗ sơ hở, sát khí bốc ra, cuồn cuộn, trong chỗ cuộn phải có mối tiếp giáp nhau, đối phương, cứ nhắm vào chỗ tiếp giáp mà công vào. Nơi tiếp giáp, bao giờ cũng kém kiên cường hơn chỗ liên lạc.
    Bỗng y hét lên, hét xong một tiếng y lại tiếp:
    - Nhưng trên thế gian này, trừ một Phương Bửu Ngọc ra còn ai phá được chiêu đao của tại hạ?
    Y thở dài kết thúc:
    - Chỉ có một các hạ! Duy nhất các hạ mà thôi!
    Tiểu công chúa hừ lạnh một tiếng chen lời:
    - Chưa chắc!
    Người áo đen cao giọng:
    - Chưa chắc? Cô nương có biết lai lịch của chiêu đao đó chăng?
    Tiểu công chúa ngẩng mặt lên không bĩu môi:
    - Thế ngươi biết?
    --!!tach_noi_dung!!--


    Nguồn: Vietkiem
    Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
    vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

    --!!tach_noi_dung!!--
    Hồi 40
    --!!tach_noi_dung!!--
    Hồi 42
    --!!tach_noi_dung!!-- ---~~~mucluc~~~---