Nam Việt Úy Đà liệt truyện

V ua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải. Đến đời Nhị Thế, quan úy ở Nam Hải là Nhâm Ngao, ốm sắp chết, mời huyện lệnh Long Xuyên là Triệu Đà đến nói;
- Tôi nghe bọn Trần Thắng làm loạn. Nhà Tần làm điều vô đạo, thiên hạ khổ cực. Bọn Hạng Vũ, Lưu Quý, Trần Thắng, Ngô Quảng đều dấy binh tụ tập quân sĩ, tranh giành thiên hạ. Trung Quốc loạn lạc chưa biết lúc nao yên. Những người hào kiệt phản Tần đều đứng lên cả. Nam Hải ở nơi xa lánh, tôi sợ quân giặc xâm lấn đến đây, nên định dấy binh chặn đứt con đường mới (l) để tự phòng bị, đợi chư hầu có sự thay đổi. Nay gặp lúc ốm nặng. Đất Phiên Ngang nhân thế núi hiểm trở, đất Nam Hải Đông Tây rộng vài ngàn dặm, lại có người Trung Quốc giúp, cũng là nơi chủ chốt của một châu có thể lập thành nước được. Các trưởng lại trong quận không ai có thể cùng bàn việc ấy nên tôi mời ông đến để nói.
Ngao liền làm chiếu giả cho Đà làm công việc của quan úy quận Nam Hải. Ngao chết, Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàn Khê rằng:
- Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ.
Rồi dần dần ông dùng hình pháp giết các trưởng lại do nhà Tần đặt ra, dùng những người đồng đảng để thay thế. Khi nhà Tần đã bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương.
Sau khi Hán Cao Đế bình định được thiên hạ, thấy Trung Quốc mới khổ nhục, cực nhọc, nên tha Đà không trị tội. Năm thứ 11 (năm 196 trước Công nguyên), Hán sai Lục Giả sang, nhân tiện phong cho Đà làm Nam Việt Vương, chặt phù để làm tin, cho phép phái sứ giả đi lại với Trung Quốc, bảo phải hòa hợp với Bách Việt, không được gây việc lo ngại ở biên giới phía Nam.
Nam Việt giáp giới với quận Trường Sa. Thời Cao Hậu, quan đương sự xin cấm không cho người Nam Việt vào mua đồ sắt. Đà nói:
- Cao Đế lập ta làm vương, cho sứ giả cùng hàng hóa được đi lại. Nay Cao Hậu nghe lời bọn bầy tôi gièm pha, cách biệt man di, cấm đứt khí vật,. Đó chắc là mưu kế của Trường Sa Vương. Ông ta muốn tìm cách dựa vào Trung Quốc, tiêu diệt Nam Việt để làm vua cả đất của ta. Đà bèn tự tôn là “Nam Việt Vũ Đế”; đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa, đánh bại mấy huyện rồi đi. Cao Hậu sai tướng quân Lâm Hi Hầu tên là Táo đến đánh. Gặp lúc trời nắng khí ẩm, quân lính bị bệnh dịch rất nhiều, nên quân Hán không qua được núi Dương Sơn. Được hơn một năm, Cao Hậu mất, liền bãi binh.
Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới,  đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh  gọi là “chế”(2), chẳng kém gì Trung Quốc.
Năm đầu thời Hiệu Văn Đế, thiên hạ mới yên. Nhà vua sai sứ đi bá cáo chư hầu, tứ di biết rằng nhà vua ở đất Đại (3) về lên ngôi, ý muốn nêu cao đạo đức của nhà vua. Nhân Đà có mồ mả cha mẹ ở huyện Chân Định, nhà vua bên đặt người giữ ấp để hàng năm đến ngày giỗ thờ cúng. Đối với anh em họ của Đà, nhà vua ban ơn cho họ làm quan to và thưởng cho nhiều của. Nhà vua xuống chiếu cho bọn thừa tướng là Trần Bình cử người có thể đi sứ sang Nam Việt. Bình nói:
- Có Lục Giả người huyện Hảo Chỉ, thời tiên đế đã quen đi sứ Nam Việt.
Vua Hán bèn triệu Giả phong làm thái trung đại phu để đi sứ, nhân đấy trách Đà đã tự lập làm “đế” mà không hề phái sứ giả sang báo tin.
Lục Giả đến nơi, Nam Việt Vương sợ hãi, làm giấy tạ tội rằng: “Thần tên là Đà, là một kẻ già ở man di. Ngày trước Cao Hậu gạt bỏ Nam Việt, thần trộm ngờ Trường Sa Vương đã gièm pha thần. Lại nghe đồn Cao Hậu giết hết họ hàng Đà, đào mồ mả, đốt hài cốt cha ông Đà. Vì thế nên liều mạng xâm phạm biên cảnh quận Trường Sa. Vả lại phương Nam đất thấp, ẩm, dân man di ở vào giữa. Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”. Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu “đế” chỉ để tự vui (4), chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ?”.
Đà bèn dập đầu xuống tạ tội, xin mãi mãi làm phiên thần dâng lễ cống. Rồi ra lệnh trong nước:
- Ta nghe nói “hai anh hùng không cùng sống, hai người hiền không cùng ở một đời”, Đức hoàng đế là bậc thiên tử hiền tài. Từ nay về sau mệnh lệnh không gọi là “chế”, bỏ xe mui lụa vàng và cờ tả đạo.
Lục Giả về báo tin, Hiếu Văn Đế bằng lòng lắm.
Đến thời Hiếu Cảnh, Đà vẫn xưng thẩn, sai người vào chầu. Nhưng ở trong nước Nam Việt thì vẫn trộm dùng danh hiệu “đế” như cũ; còn khi sai sứ sang thiên tử, thì xưng “vương”, triều kiến thỉnh mệnh như các chư hầu.
Đến năm thứ tư niên hiệu Kiến Nguyên (năm 137 trước Công nguyên), Đà mất, cháu Đà là Hồ làm Nam Việt Vương. Lúc bấy giờ vua Mân Việt là Dĩnh đem binh đánh các ấp ngoài biên của nước Nam Việt. Hồ sai người dâng thư lên vua Hán, nói:
- Hai nước Việt đều là phiên thần, không được đem binh đánh nhau. Nay nước Mân Việt đem binh xâm lấn đất của thần, thần không dám đánh lại, xin đợi thiên tử chiếu truyền cho việc ấy.
Thiên tử bèn khen Nam Việt biết giữ chức phận mình, hứa sẽ đưa quân đến giúp, bèn sai hai tướng quân đi đánh Mân Việt (5). Quân của Hán chưa vượt núi Ngũ Lĩnh thì em của Mân Việt Vương là Dư Thiện đã giết Dĩnh để hàng. Vì thế bãi binh.
Thiên tử sai Trang Trợ sang Nam Việt hiểu dụ ý của nhà vua. Nam Việt Vương là Hồ dập đầu xuống, nói:
- Thiên tử vì thần mà đem quân đánh Mân Việt, thần chết không đủ để báo ơn đức ấy.
Bèn sai thái tử là Anh Tề vào túc trực ở nơi cung cấm. Hồ bảo Trợ rằng:
- Nước mới bị cướp, sứ giả đi thôi.
Hồ đang ngày đêm sắm sửa hành trang để vào triều kiến thiên tử. Sau khi Trợ đi rồi, đại thần can Hồ rằng:
- Nhà Hán dấy quân đánh Dĩnh cũng là làm cho Nam Việt hoảng sợ. Vả lại tiên vương trước có nói: “Phụng sự thiên tử cốt không thất lễ, không nên nghe lời dỗ ngon dỗ ngọt mà vào chầu”. Nếu vào chầu thì không được về, đó là cái thế mất nước đấy.
Vì vậy Hồ mượn cớ bị bệnh nặng, thái tử Anh Tề xin về nước. Hồ mất, thụy là Văn Vương, Anh Tề lên ngôi thay, lập tức giấu ngay ấn Vũ Đế của Triệu Đà.
Khi Anh Tề vào làm túc vệ ở Trường An, có lấy người con gái họ Cù, người huyện Ham Đan, sinh người con là Hưng. Đến lúc Anh Tề lên làm vua, bèn dâng thư lên vua Hán, xin lập Cù thị làm hậu, Hưng làm con nối nghiệp. Hán luôn luôn sai sứ giả sang dỗ dành Anh Tề. Anh Tề thính hưởng lạc, tự ý giết người, sợ vào chầu phải theo pháp luật của nhà Hán cũng như chư hầu ở Trung Quốc. Anh Tề bèn cố ý xưng có bệnh, không vào triều, sai con là Thứ Công vào làm túc vệ.
Anh Tề mất, thụy là Minh Vương. Thái tử là Hưng lên thay, mẹ làm thái hậu.
Thái hậu từ khi chưa làm vợ của Anh Tề, đã dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý. Sau khi Anh Tề mất, năm thứ tư niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 113 trước Công nguyên), vua Hán sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ vương và vương thái hậu vào chầu như các nước chư hầu. Vua Hán lại sai bọn biện sĩ là Chung Quân làm giám đại phu đi theo để trình bầy, bọn dũng sĩ là Ngụy Thần đi theo để giúp khi cần thiết, vệ úy la Lộ Bác Đức đem quân đóng đồn ở quận Quế Dương để đợi sứ giả.
Vương tuổi còn nhỏ, thái hậu trước đã dan díu với An Quốc Thiếu Quý. Thiếu Quý sang sứ, lại tư thông với thái hậu. Người trong nước biết, phần nhiều không theo thái hậu. Thái hậu sợ có loạn, cũng muốn dựa vào uy thế nhà Hán mấy lần khuyên vua cùng các quan xin nội thuộc. Nhân có sứ giả nhà vua dâng  thư, xin được làm chư hầu ở Trung Quốc, cứ ba năm. một lần vào chầu, hủy bỏ các cửa ải nơi biên giới. Thiên tử ưng thuận. Thiên tử cấp cho thừa tướng của vương là Lữ Gia ấn bằng bạc cùng các ấn nội sử, trung úy thái phó. Còn các chức khác thì tự đặt lấy. Bỏ hình phạt cũ chạm vào trán, cắt mũi, dùng pháp luật của nhà Hán, coi như chư hầu ở Trung Quốc. Các sứ giả đều ở lại để vỗ về nước Nam Việt. Vương và vương thái hậu sắm sửa hành lý, quà biếu, mang đồ vào triều cống.
Thừa tướng của vương là Lữ Gia tuổi đã nhiều, làm thừa tướng ba đời vua. Họ hàng làm quan trưởng lại đến hơn bảy mươi người. Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em, tôn thất của vua, lại thông gia với Tần Vương ở quận Thương Ngô. Ông ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông. Ông được lòng dân hơn vương. Khi vương dâng thư, Lữ Gia mấy lần can ngăn, nhưng vương không nghe. Ông có ý lảm phản, luôn luôn nói là bị bệnh, không tiếp kiến sứ giả nhà Hán. Các sứ giả đều để ý đến Gia, nhưng chưa thể giết được. Vương và vương thái hậu cũng sợ Lữ Gia gây việc trước, bèn đặt tiệc rượu, nhờ uy quyền các sứ giả để mưu giết bọn Gia. Các sứ giả đều ngồi quay mặt về hướng Đông, thái hậu ngồi quay mặt về hướng Nam, vương ngồi quay mặt về hướng Bắc, thừa tướng Gia và các đại thần đều ngồi quay mặt về hướng Tây hầu, uống rượu. Em của Gia làm tướng võ, cai quản quân lính ở ngoài cung. Khi mời rượu, thái hậu bảo Gia:
- Nước Nam Việt nội thuộc là lợi cho nước, tại sao tướng quân lại cho là bất tiện?
Thái hậu muốn khích các sứ giả giận, nhưng các sứ giả do dự nhìn nhau, không ai dám ra oai. Gia thấy dáng mặt có khác, lập tức đứng dậy ra đi. Thái hậu giận muốn lấy giáo đâm Gia, vương ngăn thái hậu lại. Gia bèn đi ra, chia quân của em, đem quân về nhà. Đoạn Gia nội là có bệnh không chịu yết kiến vương và các sứ giả, ngầm bàn mưu cùng các quan đại thần nổi loạn.
Vương vẫn không có ý giết Gia. Gia biết thế nên mấy tháng việc không xảy ra. Thái hậu dâm ô, người trong nước không theo. Thái hậu muốn giết bọn Gia nhưng sức lại không làm nổi. Thiên tử nghe tin, biết Gia không chịu, vương và thái hậu thì cô đơn, nhu nhược không chế ngự được, các sứ giả lại nhút nhát không quả quyết. Thiên tử lại cho là vương và thái hậu đã theo Hán rồi, một mình Lữ Gia làm loạn, không đáng đem binh đánh, muốn sai Trang Sâm đem hai nghìn người đi sang sứ. Sâm nói:
- Nếu dùng hòa hoãn mà đi, thì vài người cũng đủ, muốn dùng vũ lực mà đi thì hai nghìn người không đủ để làm gì.
Trang Sâm từ chối là không thể được. Thiên tử bãi chức quan của Sâm. Hàn Thiên Thu, tráng sĩ ở huyện Giáp, nguyên là tướng quốc ở Tế Bắc, hăng hái nói:
- Lấy nước Việt cỏn con, lại có vương thái hậu làm nội ứng, chỉ có một mình thừa tướng Lữ Gia cản trở thì khó gì! Nhà vua cho tôi hai trăm người dũng sĩ, thế nào tôi cũng chém được Gia về báo.
Thiên tử bèn sai Thiên Thu cùng em của vương thái hậu là Cù Lại đem hai nghìn người đi vào nước Việt. Bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước: “Vương tuổi còn trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc, đem hết đồ quý báu của tiên vương vào dâng thiên tử để được yên. Đem nhiều người đi theo, đến Trường An, bán cho người ta làm đồng bộc. Thái hậu chỉ nghĩ đến cái lợi thoát thân một thời, không nghĩ gì đến mưu kế lâu dài cho xã tắc họ Triệu cả”.
Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu, cùng các sứ gia của nhà Hán. Lữ gia sai người báo với Tần Vàng nhiều, quan lại lo dùng pháp luật để ràng buộc, dân lo tìm cách trốn tránh. Nhà vua dùng pháp luật để xét xử, bọn Thang thường gây những ngục lớn, đem tội trạng tâu lên để được lòng nhà vua. Trái lại Ảm thường chê bai nhà Nho, trước mặt bọn Hoẵng, trách họ trong lòng giả dối, bên ngoài khéo léo khôn ngoan hùa theo nhà vua để giữ địa vị, bọn thư lại (10) chỉ lo bẻ cong pháp luật khéo tìm cách làm hại người ta, hãm người ta vào tội khiến không được thân oan, lấy việc thắng được dân làm công lao. Nhà vua càng quý bọn Hoẵng, Thang. Hoẵng và Thang trong lòng rất ghét Ảm. Tuy thiên tử không thích nhưng họ muốn tìm việc để giết Ảm. Hoẵng làm thừa tướng nói với nhà vua:
- Ở trong hữu nội sử có nhiều quý nhân, tôn thất, khó trị. Nếu không có một vị quan đã từng nổi danh thì không làm được trách nhiệm ấy. Xin cho đổi Ảm làm hữu nội sử.
Ảm làm hữu nội sử mấy năm, việc quan không bỏ trễ.
Đại tướng quân Vệ Thanh càng được tôn trọng, chị là hoàng hậu, nhưng Ảm vẫn đối xử ngang hàng. Có người nói với Ảm:
- Thiên tử muốn quần thần kính trọng đại tướng quân. Đại tướng quân được tôn trọng lại càng quý, ông nên lạy là phải.
Ảm nói:
- Đại tướng quân có người khách vái dài, thế là không được tôn trọng hay sao?
Đại tướng quân nghe vậy lại càng cho Ảm là người hiền, thường mời hỏi những việc quốc gia triều đình chưa quyết định, đối xử với Ảm hơn hẳn ngày trước.
Hoài Nam Vương mưu phản, sợ Ảm, nói:
- Ảm thích can thẳng, giữ khí tiết, chịu chết theo chính nghĩa, khó lấy điều phản bội mà dụ dỗ ông ta được. Còn như thuyết phục thừa tướng Hoẵng thì cũng dễ như mở đồ đậy, chọc lá sắp rụng mà thôi.
Sau khi nhà vua nhiều lần đánh Hung Nô thành công, lời nói của Ảm lại càng không được nghe. Trước kia Ảm ở vào hàng cửu khanh, trái lại Công Tôn Hoẵng, Trương Thang là quan lại nhỏ. Đến khi Hoẵng và Thang càng ngày được thăng lên ngang hàng với Ảm. Ảm lại mắng nhiếc chê trách Hoẵng và Thang. Ít lâu sau, Hoẵng làm đến thừa tướng được phong làm hầu, Trương Thang làm đến ngự sử đại phu. Vì vậy trong thời của Ảm, thừa tướng, ngự sử đều cùng ngang hàng với Ảm lại có phần được tôn trọng, tin dùng hơn. Ảm là người hẹp hòi không khỏi oán thán. Khi yết kiến nhà vua, Ảm nói:
- Bệ hạ dùng bày tôi như chất củi mà thôi, ai đến sau thì ở trên.
Nhà vua im lặng. Một lúc sau Ảm rút lui. Nhà vua nói:
- Người ta quả là không thể không có học, xem Ảm nói thì ngày càng quá lắm.
Được ít lâu, vua Hồn Gia của Hung Nô đem dân chúng đến hàng. Nhà Hán đưa ra hai vạn cỗ xe. Nhà vua không có tiền, mua chịu ngựa của dân. Dân có người giấu ngựa đi, số ngựa không đủ. Nhà vua giận, muốn chém quan huyện lệnh Trường An. Ảm nói:
- Quan huyện lệnh Trường An không có tội, xin chém một mình Ảm, thì dân sẽ chịu đưa ngựa ra. Vả chăng Hung Nô phản lại chủ của họ, đầu hàng nhà Hán; Hán cứ thủng thẳng đặt các trạm ở các huyện để đưa đến, sao lại làm cho thiên hạ náo động, Trung Quốc mệt mỏi để hầu hạ Di, Địch
Nhà vua im lặng. Đến khi Hồn Gia đến, những người buôn bán và những người ở ngoài chợ phạm tội chết đến hơn năm trăm người. Ảm xin được dịp yết kiến nhà vua ở điện Cao Môn. Ảm nói:
- Hung Nô vào xâm lấn đường sá biên giới, cắt đứt hòa thân. Trung Quốc đem binh trừng phạt, người chết và bị thương không kể xiết, hao phí tiền của hàng vạn triệu. Thần ngu dốt cho rằng bệ hạ được người Hồ thì đều cho làm nô tỳ cấp cho những gia đình có người tòng quân mà chết. Tài sản cướp được thì đều cấp cho họ để đỡ cái khổ cho thiên hạ, an ủi lòng trăm họ. Nay lại không làm như vậy, Hồn Gia đem mấy vạn người đến hàng, bệ hạ sai vét rỗng kho để thưởng, bắt dân lành hầu hạ nuôi nấng, như nuôi đứa con cưng? Dân ngu biết đâu rằng đó là lệnh cấm, nên tùy tiện đến mua những đồ vật ở chợ Trường An. Thế mà quan lại theo pháp luật buộc tội họ là đã đem của cải vật phẩm đưa ra biên giới! Nếu như bệ hạ không thể có được của cải của Hung Nô để tạ lỗi với thiên hạ, thì lẽ nào dùng lời lẽ khó hiểu mà giết hơn năm trăm người dại dột. Làm như vậy tức là như người ta nói: “Che chở cho lá làm thương tổn đến cành cây vậy”. Thần trộm cho bệ hạ làm như thế là không phải.
Nhà vua im lặng, không nghe theo, nói:
- Ta đã lâu không nghe Cấp Ảm nói, đến nay ông ta lại nói bậy.
Mấy tháng sau, Cấp Ảm phạm sai lầm nhỏ, bị tội. Gặp lúc đại xá bị bãi chức, Ảm bèn ở ẩn chốn điền viên.
Cấp Ảm ở nhà được mấy năm, gặp lúc nhà vua thay bằng thứ tiền năm thù, dân nhiều người đúc tiền trộm, ở nước Sở lại càng nhiều nhất (11). Nhà vua cho rằng Hoài Dương là nơi giáp giới nước Sở, bèn gọi Cấp Ảm vào cho làm thái thú Hoài Dương: Ảm lạy từ tạ không nhận ấn. Chiếu mấy lần ép giao ấn, sau đó Ảm mới vâng lời. Chiếu cho Ảm đến yết kiến, Ảm khóc và nói với nhà vua:
- Thần tự cho rằng mình chết ở nơi ngòi rãnh không còn có lúc thấy lại bệ hạ, không ngờ bệ hạ lại dùng. Thần thường có cái tật của loài chó ngựa, không đủ sức làm việc ở các quận. Thần xin nguyện làm trung lang (12) ra vào nơi cung cấm, vá những điều sai, lặt những điều sót, đó là nguyện ước của thần.
Nhà vua nói:
- Nhà ngươi coi thường Hoài Dương hay sao ít lâu nữa ta sẽ gọi nhà ngươi về. Hiện nay ở Hoài Dương dân và quan không tương đắc, ta chỉ nhờ cái uy sẵn có của nhà ngươi, nhà ngươi cứ nằm mà cai trị (13).
Sau khi Ảm từ giã ra đi. Ảm qua nhà Lý Tức làm đại hành (14), nói:
- Ảm bị vứt ra ngoài quận không thể bàn việc triều đình được nữa. Nhưng Trương Thang làm ngự sử đại phu là người có cái trí khôn đủ để chống lại những lời can ngăn, có cái tài gian trá đủ để tô vẽ cho điều sai trái, chỉ cốt khéo ton hót bề trên, bắt bẻ người dưới, không chịu theo điều chính nghĩa để lo việc thiên hạ. Ông ta chỉ lo a dua theo ý vua. Nhà vua không ưa ai thì ông ta nhân đó gièm pha thêm, nhà vua ưa ai thì ông ta nhân đó khen ngợi thêm. Thích sinh sự, múa may trong văn án, trong lòng nghĩ đến việc dối trá để chiều theo ý vua. Bên ngoài dựa vào bọn tặc lại (15) để làm cho uy mình thêm lớn. Ông ở hàng cửu khanh mà không sớm nói điều đó thì ông và hắn đều sẽ bị tội cả đấy.
Tức sợ Thang, cuối cùng không dám nói. Ảm ở quận vẫn cai trị như trước, chính trị Hoài Dương được sáng suốt. Sau đó quả nhiên Trương Thang bị thất bại. Nhà vua nghe lời Ảm nói với Tức, trị tội Tức, cho Ảm ở Hoài Dương được hưởng lương bổng của tướng quốc chư hầu (16). Được bảy năm thì mất.
Sau khi mất, nhà vua vì Ảm nên cho người em là Cấp Nhân làm đến cửu khanh. Con Ảm là Cấp Yến làm đến tướng quốc của chư hầu. Người em con cô là Tư Mã An lúc nhỏ cùng làm thái tử tẩy mã với Ảm. An lời văn sâu sắc, khéo làm quan, bốn lần đến chức cửu khanh, khi chết làm thái thú Hà Nam. Bọn anh em nhờ An nên đồng thời có đến mười người lương hai nghìn hộc. Đoạn Hoẵng người Bộc Dương lúc đầu thờ Hạ Hầu tên là Tín. Tín dùng Hoẵng. Hoẵng cũng hai lần làm đến cửu khanh. Những người nước Vệ làm quan ai cũng kinh sợ Ảm, coi Ảm là ở trên mình.
1. Trịnh Đương Thời tự là Trang, người ở đất Trần. Cha là Trịnh Quân đã từng làm tướng của Hạnh Tịch. Tịch chết, ít lâu sau theo về Hán. Cao Tổ sai các quan cũ của Hạng Tịch gọi tên Tịch (17). Riêng một mình Trịnh Quân không nghe theo lời chiếu. Chiếu cho tất cả những người gọi tên Tịch làm đại phu mà đuổi Trịnh Quân. Trịnh Quân chết thời Hiếu Văn Đế.
Trịnh Trang thích làm nghĩa hiệp. Khi đã cứu Trương Vũ khỏi ách thì nổi tiếng ở miền Lương, Sở. Thời Hiếu Cảnh Đế, Trang làm thái tử xá nhân (18). Cứ năm ngày lại tắm rửa, thường đặt ngựa trạm ở ngoại thành Trường An, thăm hỏi những người bạn cũ, đến chơi nhà các tân khách, suốt đêm cho đến sáng hôm sau, thường vẫn sợ không chu đáo, Trang thích học theo lối Hoàng Đế, Lão Tử, hâm mộ những người trưởng giả như là sợ không được gặp mặt (19). Tuy tuổi trẻ, quan thấp, nhưng các bạn bè giao du, đều là hạng cùng lứa với hàng cha, ông, là những kẻ sĩ có danh tiếng trong thiên hạ. Vũ Đế lên ngôi, Trang dần dần làm trung úy ở đất Lỗ, làm thái thú ở Tế Nam, làm tướng quốc ở Giang Tô, làm đến hữu nội sử thuộc hàng cửu khanh. Vì việc Vũ An Hầu và Ngụy Kỳ tranh cãi nhau, An bị giáng chức làm thiêm sự, đổi làm đại nông lệnh (20).
Khi làm thái sử, Trang căn dặn những người môn hạ như sau:
- Có khách đến thì không kể cao quý hay hèn mọn đều không được giữ ở ngoài cửa.
Trang giữ lễ đối với khách, mặc dầu mình cao quý nhưng đối với người thì khiêm tốn. Trang thanh liêm lại không lo đến sản nghiệp đem tất cả lương bổng cho tân khách, những thức ăn đưa cho khách đều đặt trong những cái quả bằng tre (21). Mỗi lúc đi chầu, có dịp tâu lên, Trang luôn luôn nói lên những người trưởng giả trong thiên hạ. Khi tiến cử các kẻ sĩ và những người thuộc lại thì trình bày thân thiết thú vị thường đề cao tài đức của họ, cho họ hơn mình, không bao giờ gọi họ bằng tên. Khi nói với những quan dưới quyền mình thì cẩn thận như sợ làm tổn thương đến họ. Nghe người ta có lời nói hay thì vội vàng lo tiến lên nhà vua. Kẻ sĩ và những người trưởng giả ở Sơn Đông vì vậy đều khen ngợi Trịnh Trang.
Vua sai Trịnh Trang đi xem cửa sông Hoàng Hà. Trang xin năm ngày để chuẩn bị hành lý, Nhà vua nói:
- Ta nghe nói Trịnh Trang đi nghìn dặm không mang lương, tại sao lại xin chuẩn bị hành lý?
Nhưng Trịnh Trang ở trong triều thường a dua phụ họa theo ý muốn nhà vua không dám trình bày rõ ràng là đúng hay sai. Đến khi già, nhà Hán đánh Hung Nô, chiêu hàng tứ di, thiên hạ hao phí nhiều, của cải dùng càng thiếu. Trang tiến cử người và tân khách làm việc vận chuyển dưới quyền đại nông lệnh, nhiều người ăn bớt của công. Tư Mã An làm thái thú Hoài Dương tố giác việc ấy. Trang vì vậy bị tội, chuộc tội làm thường dân. Ít lâu sau tạm quyền chức trưởng sử của thừa tướng. Nhà vua thấy Trang già nên cho làm thái thú Như Nam. Được mấy năm thì chết trong lúc làm quan.
Trịnh Trang, Cấp Ảm lúc đầu vào hàng cửu khanh, người thanh liêm bản thân lo gìn giữ trong sạch. Hai người này giữa chừng bị bỏ, nhà nghèo khách khứa càng ít. Khi làm việc ở quận chết đi nhà không có của thừa. Anh em con cháu Trang nhờ có Trang nên sáu bảy người lương đến hai nghìn thạch.
2. Thái sử công nói:
Người hiền như Ảm và Trang thế mà khi có thế lực thì khách khứa đông gấp mười lần, khi không có thế lực thì chẳng có một ai, nữa là người thường! Địch Công ở Hạ Quê nói: Lúc đầu Địch Công làm đình úy thì khách khứa chật cửa. Đến khi bãi quan thì ngoài cửa có thể đặt lưới bắt chim sẻ. Khi Địch Công lại làm đình úy, khách khứa muốn đến. Địch Công viết mấy chữ lớn ở ngoài cửa: “Một sống một chết, tình bạn mới biết; một nghèo một giàu, mới rõ lòng nhau; một hèn một sang, tình bạn rõ ràng”. Câu đó cũng đúng với Cấp Ảm, Trịnh Trang. Thương thay!
........................................................
(1). Theo quan chế nhà Hán nếu ở địa vị từ 2.000 thạch trở lên thì sau ba năm được cử một người trong số anh em ruột hay còn làm lang.
(2). Chức quan lương 600 thạch, khi nào thái tử đi ra thì cưỡi ngựa đi trước.
(3). Nhà vua sai người đi thay mình làm việc gì thì cầm cờ tiết.
(4). Xem Quý Bố, Loan Bố liệt truyện.
(5). Xem Ngụy Kỳ, Vũ An Hầu liệt truyện.
(6). Chức ở địa vị cửu khanh.
(7). Đứng hai chân đặt lên nhau, ý nói không còn lối nào mà đi, liếc mắt nhìn trộm ý nói không dám nhìn thẳng. Nếu theo pháp luật hà khắc thì thấy cái gì cũng sợ phạm pháp, có chân không dám đi, có mắt không dám nhìn.
(8). Hán Vũ Đế tham lam muốn đánh Hung Nô, bình định Đông Việt Nam Việt, Tây Nam Di v.v... gây nên chiến tranh, nhân dân điêu đứng.
(9). Bấy giờ Hoẵng làm thừa tướng. Hoẵng theo đạo Nho, người giả dối, tàn nhẫn.
(10). Chỉ Trương Trang.
(11). Xem Bình chuẩn thư.
(12). Chức quan thấp lo việc canh phòng. Ý Ảm muốn ở cung để được can ngăn nhà vua dù là chức quan thấp chứ không muốn đi ra các quận.
(13). Vũ Đế rất biết tài của Ảm cho nên nói “nằm mà cai trị”, nhưng rất ghét Ảm nên cho đi ra các quận để khỏi can gián lôi thôi.
(14). Chức quan ngoại giao cấp cửu khanh coi việc đối xử với các nước ngoài.
(15). Quan lại ăn cướp.
(16). Nhưng vẫn không cho về kinh đô. Vũ Đế ghét Ảm nhưng không giết được vì sợ dư luận dù biết Ảm là trung thần cũng không dùng. Đúng như nhận xét “trong lòng nhiều ham muốn, bên ngoài ra vẻ nhân nghĩa”.
(17). Gọi vua bằng tên là phạm tội bất kính.
(18). Chức rất thấp ở dưới chức thái tử tẩy mã.
(19). Ý nói vội vàng.
(20). Thiêm sự coi công việc trong cung Hoàng Đế và cung thái tử. Đại nông lệnh thuộc hàng cửu khanh coi thóc lúa và hàng hóa cả nước.
(21). Ý nói không sắm sửa gì.

o0o