Đánh máy : Bắc Quái
Hồi 6
Đồng Quan Lâu Thượng Nhan Như Ngọc
Bích Hổ Thần Công Náo Hạo Thiên!

Đầu tháng tám, Tư Đồ Sảng và Huyết Báo đã vào đến địa phận tỉnh Thiểm Tây, dừng cương ở Đồng Quan, cách Tường An cỡ bốn năm ngày đường!
Ải Đồng Quan và Ải Hàm Cốc là hai cửa ngõ duy nhất để vào đất Thục từ hướng Đông. Chính vì thế mà thành Đồng Quan khá lớn, dân cư sầm uất, kinh tế thịnh vượng.
Xế trưa, hai người ghé vào Túy Đào đại tửu lâu để dùng cơm. Trời thu trong vắt, tửu khách ở tầng ba có thể vừa nhâm nhi vừa ngắm rặng núi Hoa Sơn lừng danh ở hướng Tây. Còn nhìn về hướng Đông họ sẽ thấy một rừng đào mênh mông bát ngát.
Tư Đồ Sảng chưa đến thăm Hoa Sơn bao giờ nên chọn một bàn cạnh cửa sổ hướng Tây, dõi mắt ngắm nhìn những đám mây trắng nhỏ đang vờn quanh năm đỉnh núi xa mờ!
Chàng rút Giáng Ma Phủ đặt trong lòng để ngồi cho thoải mái. Huyết Báo đỡ khổ hơn vì Nhị Tiết Côn đã nằm trong tay nải, gã chỉ phải tháo thanh trường kiếm trên vai, đặt lên mặt bàn. Gã mang kiếm khiến thiên hạ càng không thể nhận ra thân phận cũ!
Nhưng cây trường kiếm này lại là của Tư Đồ Sảng chứ chẳng phải của gã!
Giáo Chủ Thiên Sư Giáo đã tặng nó cho vị Ngũ sư đệ đáng yêu, kẻ đã cứu vãn cả cơ nghiệp lẫn thanh danh của lão. Tuy chẳng sắc bén như những bảo vật thời Xuân Thu nhưng nó cũng rất tốt vì Giáo Chủ thì không thể sử dụng loại vũ khí tầm thường được.
Xong bữa, hai người ngồi đối ẩm, thưởng thức rượu Túy Đào, thứ đặc sản đã làm nên tên tuổi của tửu lâu! Giờ đây, ánh mắt của Huyết Báo chẳng còn lạnh lẽo, đầy sát khí như lúc trước. Gã nhìn Tư Đồ Sảng bằng những tia nhìn trìu mến, miệng nở nụ cười ấm áp hàm răng chắc khỏe và trắng nhởn kia tương phản với bộ râu rậm đen mun!
Liễu Mộ Hào đã trở về với bản chất thực của mình, không còn phải đóng vai một hung thần khét tiếng nữa. Gã vui vẻ hỏi chủ nhân:
- Công tử! Có khi nào công tử nghĩ đến việc hai nàng họ Lăng kia hóa trang hay không? Người đời thường có thói xem trọng hình thức bên ngoài, lẽ nào Cung chủ Hạo Thiên Cung lại thu nhận hai ả nữ tỳ quá xấu xí như vậy?
Tư Đồ Sảng ngượng ngập đáp:
- Liễu túc hạ luận việc cũng có lý. Tiếc rằng tại hạ nhãn quang kém cỏi nên không thể nhìn ra hư thực!
Nụ cười, ánh mắt của cố nhân khiến lòng chàng xao xuyến. Và sau đó là gò ngọc nhũ thanh tân, mơn mởn của Phi Hồng cũng hiện ra khiến chàng đỏ mặt.
Tư Đồ Sảng hổ thẹn nói lảng sang chuyện khác:
- Trước lúc qui tiên, gia sư đã dặn dò tại hạ phải đề phòng Hạo Thiên Cung! Bao năm qua tổ chức này cư  xử như một chính phái, nhưng có thể chỉ vì nể sợ gia sư! Khi biết người đã tạ thế, e rằng họ sẽ bộc lộ dã tâm!
Liễu Mộ Hào gật gù:
- Công tử nói phải! Hạo Thiên Cung đã mời hàng ngàn cao thủ trong thiên hạ đến dự hội Bàn Đào, dụ dỗ họ trao đổi sở học, hoặc gia nhập dưới trướng! Hiện nay, họ đã gồm thâu võ nghệ trăm nhà và qui tụ toàn những tay kiệt xuất, lão thành, thế lực hùng mạnh đến mức có thể khuynh đảo võ lâm một cách dễ dàng!
Gã nói đến đây thì dừng lời vì ánh mắt bắt gặp dung mạo của vị khách vừa bước lên khỏi cầu thang. Sắc diện của Liễu Mộ Hào rất quái dị, có vẻ như vừa mừng vừa sợ!
Tư Đồ Sảng đang chăm chú nhìn gã nên nhận ra sự khác thường liền quay về hướng có tiếng chân người, chàng chỉ thấy một nữ lang tuổi đôi mươi, mặc váy áo mầu xanh bằng vải thô, tóc thắt thành hai bím, buông dài đến quá bụng. Trên tay nàng là một chiếc đàn tỳ bà cũ kỹ màu đen mờ. Tuy nghèo nàn, giản dị như thế nhưng dung mạo của nàng ta cực kỳ diễm lệ, lập tức khiến lòng Tư Đồ Sảng ngất ngây!
Chẳng thể trách chàng được vì ả ca kỹ ấy có nước da trắng hồng, ngũ quan thanh tú, cân đối, chẳng hề có một khuyết điểm gì!
Ngay cả tấm áo bằng vải xấu kia cũng được cắt may rất khéo, ôm sát thân trên và làm nổi bật đôi ngực nở nang và vòng eo thon nhỏ.
Nàng ca kỹ đứng yên một lúc, đảo mắt quan sát để tìm đối tượng. Nhìn thấy gương mặt anh tuấn, cương nghị và ánh mắt ái mộ của Tư Đồ Sảng, nàng khẽ cau mày. Suy nghĩ một lúc rồi đi về phía bàn của chàng!
Trong lúc ấy, Tư Đồ Sảng đã tỉnh táo lại! Mối huyết thù cùng với ân tình của chị em họ Lăng đã khiến chàng hổ thẹn, tự trách mmh là kẻ hời hợt!
Chàng bình tâm quay lại hỏi Huyết Báo:
- Liễu túc hạ! Nàng ta là ai vậy? Dường như túc hạ có biết nàng?
Liễu Mộ Hào gượng cười:
- Tại hạ thấy đẹp thì nhìn chứ nào có quen!
Tư Đồ Săng không tin lắm, chỉ đoán rằng gã đang rất khổ tâm khi phải giấu giếm chàng!
Ả ca kỹ đã đến bên bàn, không có vẻ gì nhận ra Huyết Báo. Nàng ta vẫn thản nhiên nở nụ cười đổ quán xiêu đình, thỏ thẻ với Tư Đồ Sảng:
- Tiện nữ là Mạc Chiêu Hương, do gia cảnh bần hàn nên phải đem tiếng đàn điệu hát đồi lấy chén cơm. Mong công tử thương tình hạ cố thưởng thức chút tài mọn của kẻ bạc mệnh này!
Giọng nàng thánh thót, ai oán và đôi mắt nhung huyền sâu thẳm kia tràn ngập nỗi thiết tha, khiến lòng người xúc động, không sao từ chối được!
Lòng háo sắc đã nguội lạnh, Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:
- Tại hạ tên Lý Thu là kẻ võ biền không sành âm luật! Nhưng nay cô nương đã có nhã hứng thì tại hạ xin rửa tai lắng nghe! Mời cô nương an tọa!
Đàn tỳ bà là loại nhạc cụ không thể đứng mà đánh được! Mạc Chiêu Hương liền nhún mình cảm tạ rồi khép nép ngồi xuống chiếc ghế đôn ở mé bàn hướng Bắc! Nàng ta so dây và nói:
- Tiện nữ xin được hát bài Từ Lâm Giang Tiên của Yến Kỷ Đạo thời Tống!
Tư Đồ Quát văn võ toàn tài nên cũng rất sính thi ca. Mỗi lần ngà ngà say ông thường ê a hát cho vợ con nghe. Nhờ vậy, Tư Đồ Sảng biết Yến Kỷ Đạo, Tự Thúc Nguyên là một đại Từ Gia thời nhà Tống, nhưng cha của Yến Kỷ Đạo là Yến Thù lại càng nổi danh hơn nữa!
Yến Thù, tự là Đồng Thúc, người đất Lạm Xuyên, Giang Tây, mới bẩy tuổi đã biết sáng tác văn, thơ, mười lăm tuổi đậu tiến sĩ. Những danh sĩ đương thời như Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu, Khổng Đạo Phủ, Vương An Thạch đều ở dưới trướng của Yến Thù! Từ của ông đẹp và trong sáng, thể hiện rõ trong tác phẩm “Ngọc Châu Tập”.
Mạc Chiêu Hương đã so dây xong, dựng đàn trước ngực trái, tay tiên mười ngón nắn nót đường tơ, môi anh đào nhả từng lời thơ tuyệt diệu:
Mộng hậu lâu đài cao toả
Tửu tinh Liêm Mộ đê thùy
Khứ niên xuân hậu khước lai thì
Lạc hoa nhân độc lập.
Vi vũ yến song phi.
Ký đắc Tiếu Tần sơ kiến
Lưỡng trùng tâm tự la y
Tỳ bà huyền thượng thuyết tương tư.
Đương thời Minh Nguyệt tại
Tằng chiếu thái vân qui.
Dịch thơ:
Mộng dứt lâu đài buông khóa
Rượu tan rèm trướng buông rơi
Xuẩn năm qua hoa bạn với người
Hoa rụng người cô độc
Mưa nhỏ én bay đôi
Nhớ buổi gái tơ mới gặp
Chữ tâm hai cánh áo thêu
Ôm tỳ bà gẩy khúc tương tư
Đương thời trăng rạng chiếu
Đường về đám mây đưa.
Bài từ này đã gợi cho Tư Đồ Sảng nhớ đến song thân nên mắt chàng lộ rõ nỗi buồn man mác. Mạc Chiêu Hương rất hài lòng vì gặp được khách tri âm, biết thưởng thức tài nghệ của mình. Nàng nhìn chàng đầy ngưỡng mộ và tán dương:
- Công tử quả là bậc tao nhân nhã sĩ khác hẳn bọn phàm phu tục tử! Tiện nữ xin vì công tử mà phụng hầu thêm một khúc hát nữa!
Tư Đồ Sảng đang bồi hồi vì ký ức nên buột miệng đáp:
- Phiền Mạc cô nương cho tại hạ nghe bài “Hoán Sa Khê” của Đồng Thúc tiên sinh!
Mạc Chiêu Hương thích thú nói:
- Té ra công tử cũng ái mộ cha con nhà họ Yến giống như tiện nữ!
Nàng hào hứng đàn hát bài ấy cho Tư Đồ Sảng nghe, mắt dán vào những đường nét thanh thoát trên gương mặt nhìn nghiêng của chàng. Tư Đồ Sảng ngắm núi Hoa Sơn mà nghe hát chứ không nhìn ngắm nàng như bao người khác. Chưa ai có thể hững hờ trước gương mặt đẹp mê hồn của nàng cả.
Chút tự ái nữ nhân đã khiến nàng hờn giận, hát xong là cáo từ:
- Tiện nữ biết mình là hạng gái phong trần, chẳng dám quấy nhiễu bậc quí nhân thêm nữa, xin công tử ban cho một ít bạc vụn!
Một ý niệm ngộ nghĩnh chợt loé lên trong đầu Tư Đồ Sảng. Chàng đã nhận ra nãy giờ Huyết Báo khốn khổ như kẻ đang ngồi trên ổ kiến, bứt rứt không yên và chẳng dám nhìn Mạc Chiêu Hương. Chàng cho rằng gã ái mộ ả ca kỹ này mà chẳng dám thố lộ. Vậy thì chàng sẽ giúp gã một tay!
Tư Đồ Sảng hỏi gã:
- Theo ý Liễu túc hạ thì chúng ta nên thưởng cho Mạc cô nương đây bao nhiêu ngân lượng?
Liễu Mộ Hào càng bội phần bối rối, ấp úng đáp:
- Sao công tử lại hỏi ta?
Tư Đồ Sảng tủm tỉm cười:
- Nếu túc hạ không có cao kiến gì thì hãy cho ta mượn một nén vàng!
Liễu Mộ Hào lóng ngóng mở tay nải lấy ra nén vàng mười lượng đặt trước mặt Mạc Chiêu Hương mà chẳng nói gì cả!
Vàng là thừ kim loai có mầu sắc rực rỡ, có ái lực mãnh liệt đối với mắt người, vì vậy, rất nhiều tửu khách chung quanh nhìn thấy. Ngay cả những kẻ đã say cũng phải ồ lên xuýt xoa, ganh ty với vận may của ả ca kỹ, bởi họ nhìn một hóa thành hai!
Nào ngờ Mạc Chiêu Hương lại chẳng hài lòng, cười nhạt bảo:
- Đối với khách tri âm như công tử thì dù chỉ vài phân bạc tiện nữ cũng vui lòng nhận. Còn Liễu đại ca đây nghe nhạc như nghe sấm thì phải đủ trăm lượng hoàng kim mới xứng!
Tư Đồ Sảng gật gù khen:
- Mạc cô nương quả là cao luận!
Rồi chàng thản nhiên bảo họ Liễu:
- Mĩ nhân đã hạ cố nhận sao túc hạ không mau dâng tặng?
Liễu Mộ Hào biết chàng vì hiểu lầm mà cố vun vén cho gã với Chiêu Hương, trong lòng rất khổ sở, tức tối, song vẫn lặng câm móc ra thêm chín nén vàng nữa!
Mạc Chiêu Hương cũng nhìn thấy tâm can chàng công tử, tự ái bị tổn thương chua chát rủa thầm gã ngốc Lý thu không biết thưởng thức nhan sắc của nàng, lại còn đẩy đưa sang cho họ Liễu!
Nàng giận đến xanh mặt, chưa kịp có chủ ý thì từ một bàn ở hướng Đông vọng lại tiếng người lạnh lẽo:
- Này ả họ Mạc kia! Nàng hãy sang đây phục vụ cho bổn thiếu gia!
Nghe cách xưng hô thô lỗ, ngạo mạn, Tư Đồ Sảng bất bình nhìn về hướng ấy, thấy một hán tử tuổi độ tam tuần, y phục sang trọng. Gã mặc trường bào mầu nguyệt bạch, ngoài khoác thêm áo ngắn mầu nâu, tất cả đều bằng gấm thượng hạng. Trên mũ của gã đính một viên lục Bảo ngọc lớn bằng hạt bắp, lấp lánh ánh sao rực rỡ, làm tôn vẻ quí phái của gương mặt điển trai! Sau lưng gã còn có hai tên vệ sĩ áo xanh, tuổi đôi mươi, mặt lầm lì lạnh lẽo!
Tư Đồ Sảng chẳng thể phát tác vì Chiêu Hương là ca kỹ, ai cũng có quyền gọi đến!
Huyết Báo phản ứng rất quái dị, gã lén nhếch mép cười, ánh mắt dầy vẻ thích thú! Dường như gã chỉ muốn Mạc Chiêu Hương đi cho khuất mắt!
Song nàng ta lại chẳng chịu kiếm thêm tiền, cao giọng trả lời vị khách sang cả kia:
- Cảm tạ công tử đã chiếu cố song hôm nay tiện nữ được quí nhân hậu thưởng, chẳng cần phải làm thêm nữa. Hẹn công tử lần khác vậy!
Thái độ của nàng đã khiến kẻ cao ngạo kia động nộ. Gã liền bảo hai cận vệ:
- Các ngươi sang bên đó đưa con ả mạt hạng ấy về đây!
Hai kiểm thủ áo xanh vòng tay nhận lệnh rồi lừng lững tiến vế phía bàn của Tư Đồ Sảng.
Mạc Chiêu Hương sợ hãi đứng lên, chạy đến sau lưng Tư Đồ Sảng run rẩy nói:
- Tiện nữ sợ lắm! Mong Lý công tử chở che cho!
Chàng mỉm cười trấn an:
- Cô nương yên tâm! Liễu túc hạ đây võ công cái thế, chẳng để ai hà hiếp cô nương đâu!
Ý chàng muốn Huyết Báo có dịp trổ tài lập công với nữ nhân hòng tranh thủ tình cảm! Quả thực là Liễu Mộ Hào đã đứng lên nghênh chiến! Cây Nhị Tiết Côn không còn nước sơn đỏ nên chẳng dọa được ai. Gã lạnh lùng nói với phe đối phương:
- Nàng ta không muốn hát thì thôi, sao chư vị lại bức bách?
Gã áo xanh râu ngắn gằn giọng đe dọa:
- Chủ nhân của bọn ta có lai lịch rất lớn. Các hạ chớ dây vào mà mang họa!
Bọn tiểu nhị và các thực khách ở những bàn gần đấy đã mau mắn dọn dẹp bàn ghế để tránh tổn thất bát đĩa. Nhờ thế mà sau lưng hai gã thanh y hiện ra một khoảng trống rộng rãi, tạm đủ làm đấu trường!
Tính hiếu sát của Huyết Báo đã nổi lên, gã lập tức xuất thủ ngay, dũng mãnh tấn công bằng một chiêu vũ bão. Hai gã thanh y chẳng chịu kém, cử kiếm chống đỡ và lùi về phía sau cho rộng rãi!
Huyết Báo bám theo, vung lên đánh những đòn trời giáng khiến hai thanh kiếm mỏng manh kia rung động mãnh liệt và phải chịu thế hạ phong.
Tiếng thép chạm nhau rợn người, và dù rằng hai gã áo xanh đã tận lực chiến đấu cũng không thể địch lại Huyết Báo. Họ bị đẩy lui dồn đến tận bàn của chủ nhân!
Chàng công tử kia mất mặt, giận dữ quát vang:
- Dừng tay!
Tiếng quát của gã hùng mạnh như tiếng sấm nổ khiến cử tọa lùng bùng lỗ tai và ngói trên mái tửu lâu phải rung rinh!
Huyết Báo đình thủ lùi nhanh. Hai gã áo xanh thở phào, đứng cúi gầm mặt để nghe lời khiển trách của chủ:
- Thật là đáng xấu hổ! Khi về đến nhà ta sẽ phạt nặng hai ngươi!
Rồi gã chậm rãi bước đến trước mặt Huyết Báo, quắc mắt bảo:
- Số ngươi đã tận nên mới dám xúc phạm bổn Thiếu gia!
Nói xong gã thò tay rút thanh kiếm đeo lủng lẳng bên hông với một động tác nhanh như điện.
Ngay từ đầu, gã công tử kiêu sa ấy đã ra đòn sát thủ để gỡ thể diện. Trường kiếm trong tay gã hóa thành đạo hào quang sáng bạc, bay lượn với tốc độ kinh người, dệt nên tấm lưới thép đầy sát cơ.
Huyết Báo là kẻ dạn dày trận mạc thức ngộ được ngay rằng chiêu kiếm của đối phương rất nguy hiểm!
Và cả tiếng kiếm kình rít lên xé không gian kia cũng biểu lộ một công lực vô cùng thâm hậu! Gã không hề kinh ngạc trước tu vi kẻ địch cao hơn tuổi tác vì Tư Đồ sảng cũng thế.
Huyết Báo cắn răng dồn toàn lực vào cây côn hai khúc, công phá màn kiếm ảnh lạnh lẽo và dầy đặc đang ập đến!
Thép chạm thép vang rền mà đường kiếm không hề bị ngăn cản, vẫn cứ phăng phăng tìm đến lồng ngực của Huyết Báo. Chiêu kiếm ấy quả là thần sầu quỉ khốc, ảo diệu khôn lường!
Huyết Báo rợn tóc gáy, hiểu rằng mạng mình sắp đứt! Nhưng trong lúc ngàn cân treo sợi tóc ấy, có một bàn tay đã nắm áo gã lôi ngược về phía sau, thoát khỏi mũi gươm oan nghiệt. Và người ấy vung kiếm điểm liền chín thức thần tốc, khiến đối thủ của Mộ Hào phải thoái bộ!
Người ấy chính là Tư Đồ Sảng, với nhãn quan của một kẻ đã vươn tới cảnh giới kiếm đạo, chàng trực giác nhận ra sự lợi hại của chiêu kiếm hãn thế kia, vội can thiệp ngay để cứu mạng thủ hạ. Nhờ thế mà huyết Báo chỉ bị một vết thương nhỏ nơi vú trái, chưa chạm đến xương cốt.
Tất nhiên, chàng công tử áo trắng không hài lòng, giận dữ tấn công kẻ phá đám. Gã vung kiếm uy hiếp mặt và ngực Tư Đồ Sảng bằng một chiêu đơn giản nhưng nhanh và độc. Song phương giáp mặt, nằm trong tầm kiếm của nhau nên trận chiến vô cùng khốc liệt, đòn đổi đòn với tốc độ sao băng, tiếng thép ngân dài chứ không đứt đoạn.
Trên lầu này có khá nhiều khách giang hồ. Họ phấn khởi quan sát cuộc so tài của hai kiếm thủ thượng thặng, thỉnh thoảng lại ồ lên trầm trồ để chứng tỏ mình đủ bản lãnh thưởng thức những đường gươm hay lạ!
Qua va chạm vũ khí, Tư Đồ Sảng hiểu rằng công lực đối phương cao hơn mình, song điều ấy không đáng ngại bằng pho kiếm pháp mà gã ta đang sử dụng. Chẳng phải vì nó lợi hại hơn Huyền Nguyên Kiếm Pháp của chàng, mà bởi nó có những sơ hở chứng tỏ rằng gã tốt mã này mặc bảo y!
Nếu chàng dại dột thọc gươm vào ngực, bụng của gã thì sẽ sa bẫy, bằng như không biết được thì cũng chịu thiệt thòi vì mục tiêu còn lại bị hạn chế quá nhiều! Chàng chỉ có thể tấn công vào mặt, cổ, tứ chi và hạ thể của gã mà thôi!
Tư Đồ Sảng đã nhắm vào những vị trí ấy liền bị đối phương giải phá dễ dàng. Chàng có cảm giác rằng chiêu kiếm của kẻ địch là khắc tinh của Huyền Nguyên Kiếm Pháp vậy!
Phải chăng gã công tử này xuất thân từ môn hộ thù địch với Ly Giang Tiên Ông? Vì vậy, họ đã dụng tâm nghiên cứu cách đối phó với Huyền Nguyên Kiếm Pháp!
Nhưng muốn làm được điều ấy, họ phải nhiều lần được chứng kiến Tiên Ông xuất thủ. Việc này khá hiếm hoi nên thời gian sẽ kéo dài vài chục năm!
Thực ra, dù đối phương có khổ công đến đâu đi nữa thì cũng vô vọng, vì sư phụ chàng đã đạt đến trình độ vô chiêu, đường kiếm của ông nhanh hơn cả ý nghĩ nên không thể nào giải phá được!
Tư Đồ Sảng không thể sánh với Tiên Ông nhưng chàng lại tinh thông đến mấy pho Kiếm Pháp là Du Long, Giáng Ma, Huyền Nguyên! Chưa tới mức vô chiêu song chàng tùy nghi thi triển bất cứ chiêu nào trong ba pho kiếm ấy, kể cả một số chiêu thích hợp trong Giáng Ma Phủ Pháp!
Với sở học rộng rãi như thế, Tư Đồ Sảng ung dung đọ sức, thi triển phép khoái kiếm đến độ chót, đánh những chiêu tân kỳ, lạ mắt, dồn kẻ địch vào thế thủ.
Là kẻ cao ngạo, mục hạ vô nhân, gã công tử áo trắng không chịu nổi nỗi nhục hạ phong, nghiến răng đánh đòn tối hậu. Gã có bảo y hộ thể nên chiếm ưu thế khi đổi mạng! Trừ yết hầu và hai mắt, các tử huyệt đều nằm trên ngực bụng.
Gã cắn đầu lười và bất thình lình vận khí phun làn sương máu hòa nước bọt vào mặt đối thủ rồi ập đến.
Tư Đồ Sảng thiếu kinh nghiệm giang hồ nên hoàn toàn không phòng bị thủ đoạn hạ lưu này, hai mắt trúng đòn. Bản năng sinh tồn đã giúp chàng phản xạ một cách thần tốc, đảo bộ sang tả nửa trượng để tránh đường gươm ác liệt của kẻ thù và điểm như mưa rào vào mé hữu cái bóng mờ mờ ấy!
Truy Tinh Thần Bộ ảo diệu vô song đã cứu đước Tư Đồ Sảng. Đối phương bất ngờ bị mất mục tiêu, lòng hoang mang kinh ngạc nên đã xoay trở không kịp đành đổi mạng, song chỉ chặn được một nửa số thế thức của chiêu “Thiên Tiên Nữ Điểm Tinh”. Gã đau đớn rú lên và văng ngược về phía sau vì trán và đùi phải bị đâm trúng!
Phần Tư Đồ Sảng bởi thị lực nên đã trúng một kiếm ngay bụng dưới! May mà vết thương không nặng vì ngay lúc dó chàng đâm trúng góc trán kẻ địch, khiến gã bật ngửa, bỏ dở đường gươm!...
Nhưng trong máu của đối phương có độc! Tư Đồ Sảng bị phun vào mặt nên giờ đây cũng gục ngã, mê man bất tỉnh!
O0o
Chiều đã buông, hoàng hôn mùa Thu giăng tím trời tây, chim rừng hối hả bay về tổ, vậy mà có một cỗ xe song mã cứ thong thả chạy trên con đường quan đạo dẫn đến Tường An.
Gã xà ích rậm râu cẩn thận tránh né những ổ gà trên mặt đường như cố giữ cho xe chạy thật êm để hai người đang ngủ trong thùng xe được yên giấc.
Gã đánh xe là Liễu Mộ Hào thì hai người ấy phải là Tư Đồ Sảng và Mạc Chiêu Hương!
Ghế trong xe đã được gỡ sạch để trải nệm cho bệnh nhân nằm. Tư Đồ Sảng đã ba ngày chưa hồi tỉnh, vẫn mê trầm vì chất độc. Huyết Báo đã cho chàng uống cả hai viên Luân Hồi Thần Đan mà không giải trừ nổi chất kỳ độc. Tuy nhiên, dược lực thần đan đã bảo vệ được nguyên khí của Tư Đồ Sảng, giúp chàng chống chọi lại cái chết.
Mạc Chiêu Hương đã thức trắng ba đêm, giờ mệt mỏi nằm cạnh Tư Đồ Sảng mà thiếp đi. Nàng chẳng còn gì để úy kỵ vì đã tự tay chăm sóc vết thương nơi bụng dưới của chàng!
Sau trận đánh ấy, Chiêu Hương đã bảo Huyết Báo bồng Tư Đồ Sảng đào tẩu ngay để tránh sự vây đánh của phe đối phương. Nàng hiểu gã công tử áo trắng kia là kẻ có lai lịch và có thể thú hạ của gã ở thành Đồng Quan này khá đông đảo!
Rời khỏi cửa Tây thành Đồng Quan vài dặm, hai người rẽ ngựa vào rừng đào để chăm sóc cho Tư Đồ Sảng. Chiêu Hương thuộc địa hình vùng này, biết vị trí của một con suối nhỏ.
Họ dừng cương cạnh suối trong rừng, Huyết Báo xuống ngựa, đặt chủ nhân lên tảng đá bằng phẳng gần bờ và thản nhiên nói:
- Sư muội đã gây ra tai họa này thì phải phịu trách nhiệm. Ta sẽ đi tìm một cỗ xe!
Thì ra Mạc Chiêu Hương là sư muội của Huyết Báo! Nhưng tại sao gã lại sợ nàng như sợ cọp vậy?
Mạc Chiêu Hương đỏ mắt ấp úng:
- Y là nam nhân, tiểu muội chăm sóc sao tiện?
Huyết Báo cười nhạt, hậm hực nói:
- Sư muội ỷ mình là ái nữ của sư phụ, sư nương, lại nắm giữ Huyết Côn lệnh phù, tha hồ tác quái, nhiều lần hại ta sống dở, chết dở! Vả lại, ngươi vẫn xem đàn ông trong thiên hạ đều là tượng gỗ thì có gì phải xấu hổ. Nói xong, gã nhẩy lên ngựa đi ngay!
Mạc Chiêu Hương giận dữ gọi với theo với giọng hăm dọa:
- Sư huynh mà bỏ đi thì tiểu muội giết gã họ Lý này đấy.
Huyết Báo ngoái đầu lại cười lớn:
- Sư muội cứ việc giết quách gã ấy đi! Ta đang giữ mấy ngàn lượng vàng của Lý Thu, chỉ có lợi mà thôi!
Gã quất ngựa phi mau nhưng chỉ một đoạn đã dừng vó câu, xuống ngựa lén quay lại để xem tình hình. Biết đâu cô ả ác độc này giết Tư Đồ Sảng thực thì sao?
Huyết Báo hài lòng khi thấy Chiêu Hương đang cởi bộ y phục đẫm máu của chàng! Gã yên tâm trở về chỗ cột ngựa, đi ra đường quan đạo!
Ở đây, Mạc Chiêu Hương đỏ mặt tía tai, miệng lầm bầm chửi rủa Liễu Mộ Hào, tay thì lóng ngóng cởi quần áo bệnh nhân!
Lúc chỉ còn chiếc quần ngắn đẫm ướt máu đào, Chiêu Hương bẽn lẽn liếc quanh, dù không thấy ai song vẫn do dự bất quyết. Cuối cùng, nàng thở dài tự nhủ thành lời:
- Mộ Hào nói đúng! Ta đã gây ra hoạ thì phải nhận lãnh trách nhiệm, duyên nợ có thành hay không cũng mặc!
Nàng cắn răng dùng kiếm cắt rời chiếc quần ngắn, rồi rửa ráy tấm thân cường tráng, vạm vỡ của Tư Đồ Sảng, cố không để nước suối dính vào vết thương!
Lúc Huyết Báo mang xe ngựa về đến thì Tư Đồ Sảng đã chỉnh tề trong y phục mới, thương tích được băng bó cẩn thận.
Đưa chàng lên xe xong, Huyết Báo tủm tỉm hỏi:
- Sư muội thấy bức tượng gỗ kia mùi vi thế nào?
Chiêu Hương ngượng đến chín cả người, liếc gã bằng ánh mắt giận hờn và tá hỏa tam tinh khi nghe Huyết Báo nói tiếp:
- Tiếc rằng sư muội tuổi đã gần tam thập, hơn công tử đến chín mười tuổi chỉ sợ y chê già mà không chịu cưới!
Chiêu Hương tức điên người trước vẻ mặt đắc ý của Mộ Hào song không phát tác nổi vì đang hoang mang vấn đề duyên nợ! Nàng chợt hối hận những hành vi quái ác ngày xưa mà nạn nhân chính là họ Liễu!
Hàng năm, Mộ Hào đều phải về Mạc gia trang ở Tường An dự đám giỗ Huyết Côn Tôn Giả. Mẹ con nàng đã rời Cam Châu vào Trung Nguyên cư trú từ sau cái chết của Tôn Giả! Lần nào Chiêu Hương cũng bày trò chơi ác sư huynh, lúc thì hạ độc khiến gã tiêu chảy đến xanh mặt, lúc thì nàng xông mê hương rối cắt phăng búi tóc của Mộ Hào! Tai hại nhất là lần nàng gài bẫy khiến gã rơi xuống hố phân suýt chết.
Nhớ lại chuyện cũ, Chiêu Hương vô cùng áy náy, nghẹn ngào nói:
- Tiểu muội tính tình xấu xa, nhiều phen làm hại sư huynh, giờ nghĩ lại ma lòng hổ thẹn. Mong sư huynh vì anh linh của tiên phụ mà tha thứ cho tiểu muội!
Huyết Báo gật gù:
- Thôi được! Ta hứa sẽ giấu cái tính nết nanh nọc, độc ác của sư muội. Còn việc sư muội làm thế nào để chiếm được trái tim của Tư Đồ Sảng thì tùy!
Chiêu Hương ngơ ngác:
- Lý công tử tên thật là Tư Đồ Sảng ư?
Huyết Báo gật đầu, lặng lẽ tháo yên cương con ngựa của Tư Đồ Sảng rồi ghép vào cỗ xe song mã cho đủ cặp.
May thay, phe địch không hề truy đuổi và bệnh nhân được Luân Hồi Thần Đạn hộ mạng, nên Huyết Báo có thể chậm rãi đánh xe đến Trường An. Sư nương của gã chính là một bậc thần y có tài diệu thủ hồi xuân!
Dọc đường, Mạc Chiêu Hương tận tâm lo lắng cho Tư Đồ Sảng và rất cung kính với Mộ Hào!
Còn chàng trai của chúng ta thì sao? Tư Đồ Sảng đã hồi phục được vài phần, tứ chi có thề cử động được song tâm trí vẫn còn mê muội!
Chất kỳ độc kia đã gây ra những cơn sốt nhẹ liên tục khiến chàng không lai tỉnh lại được. Và trong trạng thái ấy chàng đã có một giấc mộng rất đẹp.
Chàng mơ thấy mình còn thơ dại mới chừng tám chín tuổi và đang nằm cành mẹ hiền. Chàng rụt rè đưa tay mân mê đầu vú từ mẫu, nghe lòng cực kỳ khoan khoái: Mẹ chàng kiêm thông nội ngoại công nên cơ thể săn chắc, dầu cho con bú ba năm mà ngực vẫn không hề bị nhão hay chảy xệ, chỉ có đầu vú là lớn ra.
Đang tận hưởng niềm hạnh phúc trẻ thơ, bỗng Tư Đồ Sảng bị Võ Xuân Hoa gạt tay ra. Chàng liền van nài:
- Má à! Phụ thân đã sang Lý Thúc Công uống rượu, không thể thấy mà la rầy hài nhi được! Má cho hài nhi sờ thêm một lúc nữa nhé!
Và chàng lại luồn tay vào áo mẹ và sờ soạng. Chàng không ngờ rằng Mạc Chiêu Hương đang dở khóc dở cười, cắn răng để cho chàng mơn man đôi ngực trinh nguyên, đầy đặn. Nỗi hổ thẹn dần dần qua đi và cảm giác hoan lạc của thịt da đã khiến nàng run rẩy!
Người đàn bà đã thức giấc trong nàng sau nhiều năm ngủ quên!
O0o
Gần giữa tháng tám, Tư Đồ Sảng hoàn toàn bình phục và mờ sáng ngày mười bốn cùng Huyết Báo rời Mạc gia trang, trong thành Tường An, để đi đến núi Chung Nam.
Chung Nam là ngọn núi nổi tiếng của Đạo Giáo Trung Hoa. Tương truyền, vị thần y nổi tiếng đời nhà Đường là đạo sĩ Tôn Tử Mạc đã đến đây ẩn cư một thời gian dài để tu tiên. Ông hái thuốc trong núi chữa bệnh cho dân chúng, được bách tính quanh vùng tôn kính, nhớ ơn. Cả Lã Động Tân, một người trong Bát Tiên, cũng từng tu luyện tại núi Chung Nam. Sau đó là Vương Trùng Dương, Tổ sư phái Toàn Chân. Chính vì thế mà trên núi có rất nhiễu danh lam thắng cảnh, đền đài miếu mạo! Và nơi đây cũng chính là trọng địa của phái Toàn Chân!...
Núi Chung Nam nằm ở phía Nam thành Tường An, hơi chếch về phía tây một chút, cách cố đô độ mười dặm. Án ngữ mặt Bắc Chung Nam là hai đỉnh núi nhỏ mang tên Thiên Địa Sơn và Hoàng Hoa Sơn. Cả ba núi này đều nằm phía Tây đường quan đạo dẫn đến Tường An.
Lúc đi ngang vùng chân núi Hoàng Hoa, Huyết Báo Liễu Mộ Hào bỗng hỏi chủ nhân:
- Công tử! Nếu Cung Chủ Hạo Thiên Cung từ chối hôn ước không chịu nhận công tử làm rể thì sao?
Tư Đồ Sảng khẽ giật mình, suy nghĩ một chút rồi nói:
- Để đề phòng trường hợp ấy, phiền Liễu túc hạ ẩn thân cho kín, chờ xem kết quả, rồi bí mật bám theo sứ giả Hạo Thiên Cung đế tìm sào huyệt của họ!
Huyết Báo tán thành, chỉ về phía trước dặn dò:
- Công tử cứ thản nhiên giả như quay về Tường An và ghé vào trấn Tây Khẩu ấy mà dùng cơm, chờ tại hạ!
Tây Khẩu trấn nằm mé Đông đường quan đạo, đối diện với Hoàng Hoa Sơn!
Tư Đồ Sảng gật đầu đồng ý, ra roi phóng ngựa đi trước. Hai khắc sau chàng rẽ phải để đến cánh rừng liễu dưới chân núi phía Bắc núi Chung Nam.
Lúc này mới là đầu giờ Thìn, phe Hạo Thiên Cung chưa có mặt, Tư Đồ Sảng xuống ngựa, đi thơ thẩn quanh bìa rừng liễu ngắm cảnh núi Chung Nam.
Bình minh chưa xua tan hết sương trên sườn núi nên mái ngói của những tòa đền miếu ẩn hiện mông lung trong mây khói trông vô cùng diễm lệ và huyền ảo!
Gương mặt những người thân hiện ra trong tâm thức, mang đến những cảm giác buồn vui. Chàng thoáng thẹn thùng khi nghĩ đến Mạc Chiêu Hương, người con gái xinh như mộng đã chăm sóc chàng suốt thời gian qua. Chàng thẹn vì đinh ninh rằng Liễu Mộ Hào đã thầm yêu cô sư muội nhan sắc mặn mà! Vậy thì nàng phải là của gã!
Không ai tiết lộ những trò đùa tai ác năm xưa của Mạc Chiêu Hương để Tư Đồ Sảng hiểu được thái độ kỳ quái của Huyết Báo khi gặp nàng!
Chàng cũng nhớ đến Khuất Thúy Lan, người đẹp đất Trường Sa, lòng thoáng bâng khuâng, song tự nhủ rằng mình đã hành động rất đúng khi dứt áo ra đi! Tuy trong tay nải luôn có gần ngàn lượng vàng nhưng Tư Đố Sảngvẫn là chàng trai nghèo khó của núi rừng Cửu Tuấn và chàng yêu mến điều ấy!
Chợt có tiếng vó ngựa khua, Tư Đồ Sảng quay lại thì nhìn thấy một đoàn người gồm khoảng hai mươi thớt ngựa và một cỗ xe song mã rất đẹp. Phải chăng Cung Chủ Hạo Thiên Cung đã đích thân giá lâm? Chàng hơi ngạc nhiên vì không thấy hai người quen là Táo Gia Cát và Y Độc Thần Quân?
Các kỵ sĩ hạ mã và cửa thùng xe cũng được mở ra để nhân vật quyền thế kia bước xuống.
Tư Đồ Sảng và người ấy nhìn thấy nhau thì cùng giật mình vì chẳng hề xa lạ. Trên trán của chàng trai áo gấm vàng; búi tóc gắn Ngân Quan kia vẫn còn hằn sâu một vết sẹo đỏ hỏn. Hắn chính là gã công tử áo trắng, kẻ đã cùng chàng tử đấu ở Đồng Quan!
Và gã quát vang:
- Vây chặt tiểu tử ấy cho ta!
Tuy không hiểu gì song hai chục cao thủ Hạo Thiên Cung vẫn rút kiếm bao vây Tư Đồ Sảng.
Chàng rể hụt của Hạo Thiên Cung chua xót nghĩ thầm:
- Chết thực! Gã này có thể chính là Thiếu Cung chủ Hạo Thiên Cung? Phen này duyên nợ của ta và chị em họ Lăng khó mà thành rồi!
Chàng càng bội phần thất vọng và kinh ngạc khi nghe đối phương quát mắng:
- Tư Đồ Sảng! Ngươi vì một á ca kỹ mà xúc phạm đến bổn Thiếu Cung chủ, sao còn dám vác mặt đến đây cầu hôn nữa sao? Ta có giết ngươi thì hai đứa em gái ngu muội của ta cũng không thể trách được!
Tư Đồ Sảng không ngờ Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng lại là ái nữ của Cung chủ Hạo Thiên Cung và là bào muội của gã Lăng Khải Trạch này! Ân sư chàng đã từng nói qua về tính cách của vị Thiếu Cung chủ Hạo Thiên Cung!
Lăng Khải Trạch tính tình tàn nhẫn, háo sắc, háo danh. Chính là kẻ có thể biến Hạo Thiên Cung thành tai họa cho bõ lâm!
Tư Đồ Sảng thở dài vòng tay đáp:
- Kẻ không biết thì không có tội, mong Thiếu Cung chủ bỏ quá cho tại hạ!
Lăng Khai Trạch trợn mắt nạt, tay đưa lên sờ vết thẹo nơi trán:
- Ngươi đã hủy hoại dung mạo của ta, tội ấy chẳng thể tha được! Hơn nữa, gia mẫu không hề có ý định gả hai đứa con gái đẹp như tiên của mình cho một gã khố rách áo ôm! Ngươi cứ yên tâm mà chết!
Tư Đồ Sảng cau mày ngơ ngác:
- Chẳng lẽ hai nàng ấy hóa trang?
Lăng Khải Trạch mỉa mai:
- Tiểu tử ngươi quả là xảo trá! Nếu ngươi không biết họ xinh đẹp thì lẽ nào chịu lấy?
Dứt lời, gã phất tay ra lệnh:
- Giết!
Hai mươi kiếm thủ áo xanh lập tức ập vào thi nhau đâm chém con mồi để lập công với chủ! Bọn này tuổi tác xấp xỉ bốn mươi, công lực và kiếm pháp đều lợi hại như hai gã cận vệ cũ của Lăng Khải Trạch.
Sợ di hại cho Phi Tuyết và Phi Hồng, Tư Đồ Sảng không muốn sát hại người của Hạo Thiên Cung, chỉ mong phá vòng vây đào tẩu. Chàng liền múa tít thanh Giáng Ma Phủ chống đỡ, chờ cơ hội thoát thân. Bọn thanh y chẳng phải bậc kiếm thủ thượng thừa nên cây búa nặng của chàng chiếm được ưu thế. Những lưỡi gươm mỏng manh của họ bị Giáng Ma Phủ đánh bạt ra dễ dàng.
Lăng Khải Trạch càng thêm tức tối khi thấy Tư Đồ Sảng tinh thông cả nghề đánh búa, bản lãnh lợi hại chẳng kém chi cầm kiếm. Gã giận dừ nạt lớn:
- Kiếm trận!
Thế là hai chục gã áo xanh vội chạy vào phương vị. Phối hợp tấn công chứ không đánh loạn xạ nữa. Đấu. pháp này đã làm cho Tư Đồ Sảng rơi vào thế bị động, luôn phải đối phó với bốn thanh gươm cùng một lúc. Chàng lại bất lợi ở chỗ không dám giết người của bên vợ, chỉ thủ mà không công. Nếu kéo dài tình trạng này chàng sẽ đuối sức mà lâm nguy.
Biết không còn có thể nương tay, Tư Đồ Sảng bất ngờ thi triển Truy Tinh thân pháp, hoán vị nhanh đến mức kiếm trận xoay chuyển theo không kịp. Đồng thời, lưỡi búa của chàng ra những đòn mãnh liệt, đánh văng hai thanh trường kiếm và chủ của nó, tạo khoảng trống mà thoát thân.
Chưa kịp mừng rỡ, Tư Đồ Sảng đã phải đối phó với một đạo kiếm quang lạnh lẽo và hiểm ác. Người chặn đường chàng chính là lão nhân trường bào đen, nãy giờ vẫn đứng cạnh Lăng Khải Trạch.
Đường gươm nhanh như điện ấy đã chứng tỏ đối phương là bậc thầy trong kiếm thuật. Lão ta lại tấn công bất ngờ nên Tư Đồ Sảng mất tiên cơ, chỉ còn cách thủ thân. Chàng liền xuất chiêu “Phủ Chức La Y” (búa dệt lụa là) tạo thành tấm màn thép bảo vệ thân trên.
Mũi kiếm của Hắc Y lão nhân chạm phải Giáng Ma Phủ ngân lên không ngớt, tưởng chừng như đã bị chặn đường hoàn toàn. Nhưng thực ra, trong hàng trăm thức đâm ấy có một thức đã xuyên qua màn phủ ảnh, chạm vào ngực phải Tư Đồ Sảng. Vết thương không sâu những cũng đủ khiến chàng đau thấu xương!
Gương mặt lưỡi cày thâm hiểm và thủ đoạn đê tiện của đối phương đã khiến Tư Đồ Sảng vô cùng chán ghét và căm giận. Chàng không thèm để ý đến thương tích mà hung hãn xuất chiêu “Chuyên Chư Tể Ngưu” (Chuyên Chư giết bò).
Chuyên Chư là một dũng sĩ thời Chiến Quốc, xuất thân là một kẻ mài dao giết heo mướn ở chợ. Chính chàng trai nghèo khó này đã dùng thanh Ngư Trường Kiếm giấu trong bụng con cá nướng rồi đâm chết Vương Liên giành lại ngôi vua nước Ngô cho Hạp Lư.
Thuở ấy, Vương Liên mặc ba lần áo giáp mà còn bị giết, nên giờ đây chiếc búa của Tư Đồ Sảng cũng mãnh liệt phi thường, chỉ công mà không thủ! Thanh Thần Phủ bay vun vút, giáng những nhát ngàn cân khiến thanh trường kiếm của Hắc Y lão nhân phải rên rỉ. Dũng khí của Tư Đồ Sảng đã dọa khiếp đối thủ, buộc lão phải thoái bộ chứ không dám khai thác những sơ hở của đường búa. Kẻ gian ác, xảo quyệt thường đa nghi và sợ chết.
Tư Đồ Sảng còn rất trẻ, cơ thể đầy sức sống nên dẫu có trúng một gươm vào chỗ ít nguy hại thì cũng còn thừa sức đế chẻ xương lão ra. Với trọng lượng cây búa thép thì thương tích mà nó gây ra sẽ trầm trọng hơn kiếm rất nhiều. Vả lại, lão ta đã già rồi, xương cốt dễ gẫy và rất khó hồi phục.
Diệu dụng của chiêu Chuyên Chư Tể Ngưu chính là ở chỗ cướp tinh thần kẻ địch, lấy lại thế chủ động và thừa lúc đối phương bối rối mà hạ thủ! Thanh Giáng Ma Phủ bất ngờ rời tay Tư Đồ Sảng bay về phía lão áo đen với tốc độ của mũi tên rời dây cung!
Lão ta kinh hoàng vung gươm cố đánh bạt khối thép nặng hai chục cân ấy mà không thành công. Lưỡi búa chỉ bị lệch đôi chút và cắm thẳng vào sườn phải, phá nát gan ruột của nạn nhân.
Cảm giác đau đớn khủng khiếp đã khiến lão Hắc y rú lên ảo não, buông rơi thanh trường kiếm rồi ngã ngửa vì lực đạo quá mạnh.
Tư Đồ Sảng đã lao theo, thu hồi vũ khí, phi thân vào rừng liễu mất dạng.
Lăng Khải Trạch và bọn thủ hạ ngớ người trước diễn biến quá mau chóng này, song phương chỉ trao đổi hai chiêu là đã kết thúc. Họ Lăng bình tâm lại định quát tháo thuộc cấp đuổi theo song biết chỉ hoài công!
Phần Tư Đồ Sảng chạy như giông gió trong rừng liễu, lúc gần đến đường quan đạo thì nghe tiếng người gọi ở phía sau:
- Công tử! Là Liễu mỗ đây! Hạo Thiên Cung không dám đuổi theo, rút về hướng Tây cả rồi!
Tư Đồ Sảng dừng bước nói mau:
- Ta không sao? Phiền túc hạ bám theo Lăng Khải Trạch xem sào huyệt Hạo Thiên Cưng ở địa phận nào?
Huyết Báo mỉm cười, lắc đầu:
- Chẳng cần phải điều tra nữa! Tại hạ ẩn mình trên ngọn cây gần đấu trường, lúc nãy may mắn nghe họ Lăng ra lệnh cho thủ hạ mang xác lão áo đen quay về Thái Bạch Sơn! Núi ấy ở hướng Tây, cách núi Chung Nam này chỉ vài chục dặm!
Tư Đồ Sảng mừng rỡ cười bảo:
- Tuyệt diệu thực? Đêm nay chúng ta sẽ đến thăm họ!
Huyết Báo nhăn mặt:
- Nhưng công tử đang thọ thương mà?
Và gã bước đến chăm sóc thương thế cho chàng! Khi cởi áo, nhận ra vết thương xám đen, tỏa mùi hôi hám, mang triệu chứng trúng độc, gã kinh hãi nói:
- Mũi kiếm của lão Hắc y có tẩm độc, chó má thực!
Tư Đồ Sảng nghe giọng lo âu vội trấn an Huyết Báo:
- Túc hạ chớ lo! Kinh mạch của ta vẫn thông suốt, không có hiện tượng gì khác thường! Có lẽ giải dược của lệnh sư nương ban cho hôm trước vẫn còn tác dụng!
o0o
Huyết Báo tuy nổi danh hung thần song lại có giao tình với phái Toàn Chân. Số là, em gái của Toàn Chân Trưởng Giáo bị gã Hoàng Y Hồ Điệp Bùi Trường Bích dâm sát và chính Huyết Báo là người đã tìm ra họ Bùi, mang đầu gã về Tổng Đàn võ lâm. Tuy Liễu Mộ Hào hành sự vì giải thưởng song vẫn được phái Toàn Chân tri ân.
Trưởng Giáo Hạo Dương Chân Quân đã hết lời cảm tạ Huyết Báo, mấy lần mời mọc Mộ Hào ghé chơi!
Giờ đây, Huyết Báo đã có điều kiện đáp ứng thịnh tình ấy, đưa Tư Đồ Sảng lên Tam Thanh Cung, trước là thăm thú, sau là tĩnh dưỡng.
Ngoài núi Chung Nam, phái Toàn Chân còn một thánh địa rất quan trọng nữa là Trùng Dương Vạn Thọ Cung.
Cung Trùng Dương là nơi đặt lăng mộ của Tổ Sư Vương Trùng Dương, người sáng lập ra phái Toàn Chân.Cung này nằm ở phía Bắc trị trấn Tổ Am, phía tây huyện Hộ Tĩnh Thiểm Tây. Lúc đầu, Vương Xứ Nhất, một trong bẩy đệ tử của Tổ sư, đã gọi nơi này là “Linh Hư Am” về sau đổi thành “Trùng Dương Cung”. Năm Chí Nguyên thứ hai (1265), Nguyên Thế Tổ ban cho cái tên “Vạn Thọ Trùng Dương Cung”.
Kiến trúc của Cung Trùng Dương vô cùng hùng vĩ, cung điện và đạo xá có đến hàng nghìn gian. Số lượng đạo sĩ ở đây nhiễu khi đông đến tám chín vạn người!
Tuy nhiên, núi Chung Nam vẫn là nơi phát tích của phái Toàn Chân. Vì vậy bao năm nay Tổng Đàn của họ vẫn đặt ở đây!
Tam Thanh Cung trên núi Chung Nam được xây dựng từ lúc Vương Tổ Sư còn tại thế, kiến trúc đơn giản, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần đạm bạc của tư tưởng Lão Trang. Sau này, các đời đệ tử có tu bổ thêm song vẫn giữ nguyên kết cấu cũ.
Nghe đệ tử báo rằng có khách quí thượng sơn, Toàn Chân Trưởng Giáo đã thân ra tận cổng Tam quan đón chào.
Hao Dương Chân Quân tuổi đã thất thập, thân hình mảnh khảnh, dung mạo thanh tú, hiền hòa, râu năm chòm oai vệ. Cũng nhờ bộ râu đẹp ấy mà người ta có thể phân biệt ông với các đệ tử Chân Quân mặc đạo bào xanh bằng vải thô, y như những người khác.
Hạo Dương vui vẻ nói:
- Sáng nay chim khách kêu trước cửa, bần đạo đoán rằng có quí nhân giá lâm song không ngờ lại là Thân thí chủ. Sự bất ngờ này khiến bần đạo muôn phần sung sướng!
Huyết Báo mỉm cười vòng tay đáp:
- Trưởng Giáo chớ vội mừng! Tại hạ vì cạn túi nên đến đây để ăn chực vài năm, dẫu bị đuổi cũng không đi!
Câu nói đua này và sắc diện thư thái của Huyết Báo đã khiến Hạo Dương Chân Quân thầm kinh ngạc, trước đây Thân Vô Cửu là một gã mặt lạnh như tiến, chẳng bao giờ biết mỉm cười!
Chân Quân cười khà khà:
- Bần đạo chỉ có cơm chay và rượu nhạt, liệu thí chủ chịu đựng được mấy hôm?
Huyết Báo không đùa nữa, quay sang giới thiệu bạn đồng hành:
- Bẩm Trưởng giáo! Vị công tử này danh tính Tư Đồ Sảng, chủ nhân của tại hạ!
Tư Đồ Sảng bước lên một bước, vòng tay chào:
- Tại hạ xin bái kiến Trưởng giáo!
Hạo Dương Chân Quân biết Huyết Báo là một hảo hán ngang tàng, đỉnh thiên lập địa, khả sát bất khả nhục thế mà giờ đây gã lại chịu khuất thân làm nô lệ cho Tư Đồ Sảng thì quả là chuyện lạ. Vậy thì chàng trai trẻ tuấn tú này phải có điểm hơn người, ít nhất là về mặt võ công!
Nhưng Tư Đồ sảng tuổi chỉ độ đôi mươi, làm sao có bản lãnh cao hơn Huyết Báo được? Hao Dương Chân Quân hiếu kỳ dò hỏi:
- Tư Đồ thí chủ cốt cách như rồng phượng khiến bần đạo phải mến mộ ngay lần sơ kiến! Dám hỏi thí chủ là học trò của bậc cao nhân nào vậy?
Tư Đồ Sảng biết sư phụ mình có mối giao tình thâm hậu với phái Toàn Chân nên không giấu giếm làm gì. Chàng điềm đạm đáp:
- Bẩm Đạo trưởng! Tại hạ là đồ đệ của Ly Giang Tiên Ông!
Hạo Dương Chân Quân thoáng giật mình vì kinh ngạc rồi hớn hở nói:
- Té ra là thế! Hèn chi bần đạo thấy cây trâm cài tóc của thí chủ rất quen thuộc!
Chợt lão biến sắc vì một ý niệm bất thường, thận trọng hỏi:
- Chẳng hay pháp thể của Tiên Ông có được an khang không vậy?
Tư Đồ Sảng bùi ngùi đáp:
Gia sư đã tọa hoá ở núi Hành Sơn hôm mùng ba tháng năm vừa rồi!
Hạo Dương Chân Quân chấn động buồn bã than:
- Không ngờ Tiên Ông lại thăng thiên vào đúng lúc ma chướng hoành hành khiến bần đạo thêm lo cho chính khí võ lâm!
Lúc này ba người đã vào đến khách xá ở mé tả Tam Thanh Cung.
Chân Quân mời khách an tọa dùng trà rồi đàm đạo. Khi biết thầy trò Tư Đồ Sảng định xâm nhập Hạo Thiên Cung, Chân Quân nghiêm nghị bảo:
- “Bần đạo thừa lệnh Tiên Ông giám sát Hạo Thiên Cung đã nhiều năm, lại được Táo Gia Cát ở bên trong hỗ trợ nên đã thu thập được nhiều tin tức. Bùi lão thí chủ cho biết rằng mấy năm gần đây Cung Chủ Hạo Thiên Cung bị bệnh nan y, song nhãn ngày càng mờ đi. Do đó, quyền hành tập trung cả trong tay Thiếu Cung chủ Lăng Khải Trạch. Gã này là kẻ háo danh, nuôi dã tâm thống trị võ lâm song chỉ vì e ngại Ly Giang Tiên Ông mà không dám hành động! Lăng Khải Trạch đã qui tụ những kiếm thủ thượng thặng, từng giao đấu với Tiên Ông, để nghiên cứu cách giải phá Huyền Nguyên Kiếm Pháp. Nay Tiên Ông đã cỡi hạc chắc chắn Khải Trạch sẽ công khai tiến hành chinh phục vô lâm! Hiện giờ, nội bộ Hao Thiên Cung đang chia làm hai phe và bần đạo đoán rằng những người chống đối Khải Trạch đã lâm nguy vì hai tháng nay Táo Gia Cát không gởi tin đến núi Chung Nam! Này nhị vị quyệt định vào Hạo Thiên Cung do thám thì xin hãy thử tìm hiểu tình hình, và nếu có thể thì cứu cho được Bùi lão thí chủ Và Y Độc Thần Quân. Nếu để Lăng Khải Trạch bức bách được hai bậc kỳ tài này phục vụ cho gã thì võ lâm nguy mất!”.
Nghe xong, Tư Đồ Sảng bâng khuâng tưởng nhớ đến ân sư? Té ra Tiên Ông hiểu khá rõ nội tình Hạo Thiên Cung và biết chắc rằng Lăng Khải Trạch sẽ lộng hành. Tuy ông không giao cho chàng trách nhiệm đối phó với ma chướng, song chàng tự nhủ sẽ vì chính khí giang hồ mà bạt kiếm, kế thừa sự nghiệp của ân sư.
Tư Đồ Sảng liền khẳng khái đáp:
- Trưởng Giáo yên tâm! Tại hạ hứa sẽ cứu hai người ấy nếu họ còn sống!
Hao Dương Chân Quân nhìn chàng với ánh mắt mến mộ và dịu giọng dặn dò:
- Tuy bần đạo đã có sơ đồ chi tiết đường đi nước bước trong Hạo Thiên Cưng nhưng cũng mong Tư Đồ thí chủ hãy thận trọng!
Huyết Báo hồ hởi nói:
- Hay lắm! Nếu đã có sơ đồ chỉ rõ lối ra vào thì xem như thành công một nửa. Nhưng để đề phòng trường hợp cả hai cô ả họ Lăng cũng đòi theo, phiền Đạo trưởng chuẩn bị giùm thêm hai con ngựa nữa!
Hạo Dương Chân Quân gật đầu tán thành và tư lự bảo:
- Bần đạo sẽ mang theo năm chục đệ tử, phục dưới chân núi Thái Bạch, khi cần sẽ ngăn chặn truy binh Hạo Thiên Cung để nhị vị đào thoát!
Hiểu rằng cuộc chiến trước mắt rất cam go, Tư Đồ Sảng đồng ý ở lại núi Chung Nam tĩnh dưỡng thêm vài ngày nữa để vết thương trên ngực kéo da non. Thuốc Kim sang của phái Toàn Chân quả là thần diệu, đã giúp chàng mau chóng lành lặn trở lại. Trong thời gian rảnh rang này, Tư Đồ Sảng hồi ức lại trận tỷ đấu ở Đồng Quan, nghiên cứu lộ số pho kiếm của Lăng Khải Trạch đã thi triển, chàng chợt thức ngộ ra rằng tuyệt học ấy uyên bác phi thường và vô cùng hiểm ác. Nếu họ Lăng có công lực thâm hậu thêm hai bậc thì chàng không thể địch lại gã. Đó là chưa kể hết công phu phun máu độc bất ngờ rất khó đề phòng!
Nghĩ tới ân sư, Tư Đồ Sảng thoáng mỉm cười. Tiên Ông đã nói dối chàng rằng chẳng hề biết vị trí của Hạo Thiên Cung! Rốt cuộc thì một bậc Chân Nhân đạt đạo cũng bị ràng buộc bởi lời hứa “Thủ khẩu như bình” khi rời cung điện của Tây Vương Mẫu.
O0o
Đêm mười chín tháng tám, vầng trăng thu méo mó treo hờ hững trên đỉnh Thái Bạch Sơn. Ánh trăng mờ mờ bởi sương đêm, không soi rõ bóng dáng của hai khách dạ hành đang thận trọng tiến vào khu rừng Bách vây quanh chân núi hướng Nam.
Thái Bạch Kim Tinh là danh hiệu khác của Thái Thượng Lão Quân, một vị thần trong Đạo giáo. Thần tiên thường gắn liền với núi non nên người Trung Hoa đã dùng tiên hiệu của Lão Quân để đặt tên cho vài ngọn núi. Riêng đất Thiểm Tây đã có đến hai ngọn Thái Bạch Sơn. Ngọn thứ nhất là ở đây, phía nam Tường An. Còn ngọn kia ở phía Bắc, khu vực giáp ranh với tỉnh Cam Túc. Hay là Thái Bạch Kim Tinh thuở xưa có hai vợ, mỗi bà một nơi, kẻ Bắc người Nam xa xôi để khỏi đánh nhau vì ghen tuông?
Hai khách dạ hành ấy chính là Tư Đồ Sảng và Huyết Báo Liễu Mộ Hào. Nhờ có bản vẽ rất chi tiết của Táo Gia Cát nên họ ung dung vượt qua khu rừng đầy cạm bảy, vào đến Thạch trận phong ba cửa sơn cốc. Hạo Thiên Cung vốn nằm trong khe núi ấy. Trong trận kỳ môn này không có cây cối, chi có hàng trăm tảng quái thạch ẩn hiện dưới sương mù và ánh trăng nhàn nhạt. Trông chúng thật lạnh lùng đáng sợ.
Tuy nhiên, trận pháp này do chính Táo Gia Cát lập ra và cũng chính lão đã chỉ cho Toàn Chân Trưởng Giáo cách xuất nhập. Do đó, Tư Đồ Sảng cứng Liễu Mộ Hào chẳng gặp khó khăn gì khi xâm nhập.
Thói thường, Cửa nẻo càng kiên cố thì chủ nhà thương ngủ say. Thế cho nên Hạo Thiên Cung không hề cắt cử người canh gác đường vào sơn cốc. Có lẽ họ chẳng hề biết mối quan hệ giữa Táo Gia Cát và Hạo Dương Chân Quân.
Trong ngũ thường của Khổng Giáo thì chữ tín đứng cuối cùng. Nghĩa là bậc quân tử có thể vì nhân, nghĩa mà bất tín! Riêng lão giáo thì lại càng xem nhẹ chữ tín, cho rằng đây là đức của kẻ tiểu nhân. Tất nhiên là tùy trường hợp chứ chẳng phải cứ việc hứa suông rồi nuốt lời! Ví dụ cái chàng trai tội nghiệp đã nổi tiếng trong truyền thuyết Trung Hoa nhờ thủ tín đến mức ôm chân cầu mà chết đuối, khi người yêu không đến! Cái chết ấy nào có hay ho gì khi để cho cha mẹ đau lòng và cuối cùng thì người yêu cũng sang ngang? Xem ra gã ấy hẹp hòi và ngoan cố đến mức điên khùng! Khiến phụ mẫu thương tâm, không người phụng dưỡng là bất nhân, bất hiếu. Bỏ người yêu lại bơ vơ với niềm hối hận là bất nghĩa!
Tóm lại, những lý do trên biểu hiện rằng thực ra địa chỉ của Hạo Thiên Cung chẳng phải là điều bí mật như người ta vẫn nghĩ. Những kẻ đến đấy quay vế đã âm thầm tiết lộ cho người thân biết. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn mang tiếng bất tín nên bề ngoài cứ làm ra vẻ mình kín miệng.
Theo Hạo Dương Chân Quân kể thì các phái lớn trong võ lâm như Võ Đang, Thiếu Lâm Tự, Hoa Sơn, Nga My... đều biết việc Hạo Thiên Cung toạ lạc tại Thái Bạch Sơn. Nhưng mấy chục năm qua, Hạo Thiên Cung có vẻ vô hại nên các phái chẳng để tâm đến làm gì!
Chỉ mình Ly Giang Tiên Ông nhìn rõ bản chất của Tây Vương Mẫu nên đã chỉ thị cho phái Toàn Chân cảnh giới, mọi động tĩnh của Hạo Thiên Cung! Chính Táo Gia Cát Bùi Thế Trực cũng nhận lệnh của Tiên Ông, tiềm nhập vào ổ quỉ đế làm nội gián!
Sau khi khái quát tình hình như thế, chúng ta quay lại với bọn Tư Đồ Sảng. Lúc này, chàng và Huyết Báo đã đi hết đoạn độc đạo dài mười trượng, rộng hơn trượng, hai bên là vách đá dựng đứng, vào đến cửa ngõ của Hạo Thiên Cung! Trước mặt họ là một bức tường cao hơn bốn trượng, tô nhẵn nhụi, nối liền hai vách đá của khe núi. Chân tường trổ cổng rất lớn, đủ để hai cỗ xe qua lọt. Tuy nhiên, giờ đây lối ra vào duy nhất ấy bị bít chặt bởi hai cánh bằng gỗ dày và khóa thì ở bên trong!
Phía trên cổng đắp nổi ba chữ Hạo Thiên Cung, theo lối Đại Triện thời Tiên Tần, sơn đen sì nên tương phản với mầu vôi trắng toát của bức tường!
Đầu tường không hề trang trí vài tầng ngói lưu ly như các kiến trúc thông thường, mà lại được đắp vồng lên thành một cung tròn để vô hiệu hóa những sợi dây thừng gắn móc thép. Nghĩa là bọn đạo chích vô phương vào Hạo Thiên Cung để kiếm ăn! Đây cũng là nguyên nhân vì sao đường vào không hễ có người canh gác!
Huyết Báo sờ thử mặt tường vôi, ngao ngán hỏi nhỏ:
- Công tử có chắc là sẽ leo qua được bức vách quỷ quái này không? Nó nhẵn đến mức khỉ vượn cũng chịu thua!
Tư Đồ Sảng cười đáp:
- Ta học công phu Bích Hổ Du Tường này đã lâu nhưng chưa hề trèo cao lần nào nên không thể biết thành hay bại!
Nói xong, chàng bước đến kiểm tra vùng vách núi tiếp giáp với tường gạch. Té ra, chỗ ấy cũng được đục đẽo, tô vữa rất nhẵn nhụi, chẳng có điểm lồi lõm nào để bám víu cả!
Tư Đồ Sảng không nản chí, lấy cuộn dây chão từ tay Huyết Báo, đeo vào vai mình. Chàng cởi giầy vải giắt vào thắt lưng rồi lẩm nhẩm khẩu quyết, lưu chuyển chân khí theo đường lối mà Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới đã truyền dạy. Tâm pháp thần bí này đi ngược với mọi loại nội công trong thiên hạ, tạo ra lực hút mạnh mẽ ở hai bàn tay, hai bàn chân và vùng bụng.
Tư Đồ Sảng vươn cao hữu thủ áp vào tường, cảm thấy lòng bàn tay hút chặt lấy lớp vữa. Chàng đu người lên rồi vươn tay tả. Mặt dưới của mười ngón chân cũng như nam châm bám chặt lấy mặt đường, trợ lực cho đôi tay. Bụng dán sát vách, Tư Đồ Sảng vặn người trèo lên thoăn thoắt, trông chẳng khác gì một chú thằn lằn khổng lồ.
Huyết Báo tròn mắt vì kinh ngạc, thầm tán dương đây là công phu kỳ diệu nhất võ lâm. Quả đúng như thế, nhờ Bích Hổ Công mà con người đã đoạt quyến tạo hóa, có được khả năng đặc thù của loài động vật khác.
Con người muốn bay được như chim, nhẩy xa như báo nên đã sáng tạo ra phép khinh công nhưng kết quả chẳng khả quan lắm. Nhẩy xa thì được nhưng bay bổng thì không, dẫu bốc cao một hai trượng thì cũng rơi về với đất! Chỉ riêng việc bò lên tường nhẵn thín như thằn lằn thì đáng gọi là hoàn mĩ vậy!
Tất nhiên là Tư Đồ Sảng rất hao tốn sức lực vì trọng lượng khá nặng. May mà chàng có đôi cánh tay mạnh mẽ, lực cử ngàn cân, và nguồn chân khi hùng hậu, nên đủ sức vượt quãng đường hơn bốn trượng, lên đến đỉnh tường.
Tư Đồ Sảng ló đầu quan sát bên trong, nhận ra một tòa nhà hai tầng đồ sộ mái lợp ngói lưu ly óng ánh dưới trăng vàng. Các góc mái uốn cong vút, kiểu dáng thường thấy của kiến trúc đền đài, cung điện.
Chung quanh toà nhà sừng sững ấy là những công trình nhỏ hơn, thấp thoáng ánh đèn leo lét trong đám cây cối và bụi hoa, không thấy lực lượng tuần tra, Tư Đồ Sảng vững dạ trèo lên ngồi trên đầu bức tường dầy ba gang, thả dây chão xuống!
Huyết Báo đã sớm thăm dò khu vực chân tường, tìm ra chỗ gài chặt chốt móc thép. Gã chụp lấy đầu dây, buộc vào móc rồi nương theo đấy mà lên.
Đến nơi, Huyết Báo cùng Tư Đồ Sảng thả đoạn dây còn lại vào phía trong tường rồi tuột xuống. Họ lại cố định đầu bên này, tạo thành chiếc thang đơn giản khả dĩ giúp họ dễ dàng thoát ra. Sợi dây rất gần vách núi mé hữu, cách xa cổng chính, nên sẽ khó bị phát hiện. Đề phòng trường hợp bị lộ phải cõng người đào tẩu, Tư Đồ Sảng và Huyết Báo tháo thanh gỗ chặn cổng chính, mở he hé cánh ra để khi cần thiết có thể mau chóng thoát thân.
Xong xuôi, hai người lướt nhanh trên con đường rải sỏi, nằm dọc vách mé hữu sơn cốc, tiến vào khu hậu viện. Họ bỏ qua tòa thạch cung hai tầng vì biết đấy chỉ là nơi hội họp và thờ phụng lịch đại Tổ sư Hạo Thiên Cung.
Cách bố trí nhà cửa nơi đây cũng na ná như Tổng đàn Thiên Sư Giáo ở Long Hổ Sơn. Nghĩa là, phía sau cung điện có một vườn hòa lớn và trên ấy tọa lạc một tổ hợp phòng ốc theo kiểu Tứ Hợp Viện, Tây Vương Mẫu cùng gia quyến cư ngụ ở chốn này! Là trọng địa nên vòng ngoài khu hậu viện có những toán tuần tra qua lại liên tục.
Theo bản đồ của Táo Gia Cát thì hai chị em Lăng Phi Tuyết, Lăng Phi Hồng có khuê phòng đặt tại dãy Tây Sương, ngay góc Tây Bắc.
Tư Đồ Sảng và Huyết Báo vượt bức tường thấp của khu hậu viện, nhẩy vào ngay phía sau mục tiêu, trước khi bọn tuần phòng đi đến. Diện tích sơn cốc rất rộng, đất đai lại chẳng mất tiền mua, nên các dãy phòng không dựa vách tường vây như kiến trúc chốn thị thành mà ngăn cách bởi một khoảng vườn trồng hoa sâu độ bốn trượng.
Có hoa tất phải có lối ra để thưởng lãm nên các phòng đểu trổ cửa sổ và cửa sau. Hai người áp tai vào khe cửa nghe ngóng và hiểu rằng chẳng có ma nào trong ấy cả! Trong đêm thanh vắng, dẫu hai ả lọ lem kia không ngáy vang thì Tư Đồ Sảng vẫn nghe được hơi thở của họ.
Liễu Mộ Hào thông cảm tâm trạng bối rối của Tư Đồ Sảng nên thì thầm:
- Có thể là hai cô nương ấy theo sư phụ chống lại Lăng Khải Trạch nên cũng đã bị tống giam. Chúng ta cứ xuống ngục thất kiểm tra sẽ rõ!
Tư Đồ Sảng gật đầu và nói:
- Thực ra, việc gặp hai nàng ấy không quan trọng. Nếu họ thực sự yêu thương ta tất sẽ trốn khỏi Hạo Thiên Cung để tìm! Mục đích chính của ta là cứu cho được hai đại cao thủ lão thành kia!
Sau khi biết hai ả họ Lăng xinh đẹp như tiên chứ không hề xấu xí thì Tư Đồ Sảng có chút hoang mang, ngần ngại. Chàng yêu thương và nhớ nhung hai gương mặt quái dị, thì dung nhan kiếu mị kia phỏng có ích gì?
Hai người rời khu hậu viện đi về phía tòa thạch lao ở cuối sơn cốc. Dọc đường, họ phải nhiều lần ẩn mình trong những bụi cây để tránh bọn tuần tra và bầy chó săn.
Y phục của Tư Đồ Sảng và Huyết Báo đã được nhúng vào một thứ dung dịch đặc biệt, tỏa mùi ngai ngái của cỏ mục, khả dĩ đánh lừa được khứu giác tinh nhạy của loài chó.
Mẹo vặt này do Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giời truyền thụ cho Tư Đồ Sảng, cùng với những ngón nghề khác của giới đạo chích. Chàng đã miễn cưỡng tiếp thu nhưng không ngờ những kiến thức ấy vô cùng hữu dụng trong kiếp giang hồ.
Gần cuối canh tư, hai người đến chân ngọn tháp đế vuông cao năm trượng, xây bằng đá núi và được đục đẽo khá nhẵn nhụi. Đây chính là nơi giam giữ tù nhân của Hạo Thiên Cung.
Đáy của Thạch tháp có cạnh rộng độ ba trượng, gồm năm tầng nhưng chẳng tầng nào có lan can cả. Người ngoài chỉ đoán được số tầng nhờ bốn hàng khung cửa sổ ở trên và cửa chính ở tầng trệt.
Các tầng thông với nhau bằng cầu thang gỗ ở giữa tháp. Phòng giam thì xây quanh thang và có một cửa ra vào duy nhất bằng gỗ dầy, đai sắt rất kiên cố.
Nhưng tại sao nhà lao này lại có lối kiến trúc kỳ dị như thế? Theo lời tiết lộ của Táo Gia Cát thì căn cứ hiện nay của Hạo Thiên Cung, trước đây trăm năm, thuộc về một giáo phái có tên Ngũ Hành Giáo. Và tòa thạch tháp nărn tầng kia chính là nơi luyện công của năm vị Trưởng Giáo: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Có lẽ do tranh giành quyền lực mà họ tương sát rồi cùng chết khiến Ngũ Hành Giáo bị diệt vong! Cung chủ đời trước của Hạo Thiên Cung bèn chiếm lấy sơn cốc và xây dựng nên Hạo Thiên Cung. Bà là nữ nhân thích sự tiện nghi nên chẳng thèm ở trong tháp đá, biến nó thành nơi giam giữ những đệ tử phạm lỗi hoặc tù binh.
Giờ đây, thạch tháp đứng sừng sững dưới ánh trăng thu, ngạo nghễ thách thức khách dạ hành vì chẳng có con đường nào để lên cả! Cửa chính tầng trệt được khóa bên trong, có cả một toán ngục tốt canh giữ. Cứa sổ các tầng trên đều có chấn song bằng thép rèn, to cỡ cổ tay trẻ sơ sinh.
Người ngoài không lối vào và tù nhân cũng chẳng thể đào vong vì họ đều bị xiêng xích hoặc phong tỏa võ công.
Tư Đồ Sảng nhận ra ánh đèn tờ mờ từ một khung cửa sổ ở tầng chót, trong khi các tầng khác đều tối om. liền bàn với Huyết Báo:
- Này Liễu tức hạ! Ta cho rằng Táo Gia Cát đang bị giam trên ấy. Túc hạ cứ chờ dưới này để ta lên xem thử!
Huyết Báo cau mày ái ngại:
- Công tử hãy lượng sức vì tháp này cao đến năm trượng chứ không ít, nếu rơi xuống e khó toàn mạng! Vùng chân tháp được lót đá phiến, không chỗ nào là đất mềm cả!
Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:
- Túc hạ hãy yên tâm! Ta tự tin đủ sức vượt độ cao ấy!
Nói xong, chàng lấy cuộn dây chão trên vai họ Liễu. Do biết trước mục tiêu nên Tư Đồ Sâng đã nhờ Hạo Dương Chân Quân chuẩn bị cho mình đến hai sợi dây thừng chắc chắn.
Ánh đèn hắt ra từ cưa sổ hướng Bắc nên Tư Đồ Sảng cũng lên theo đường này.
Trăng khuya đã chếch về mạn Tây Nam nên mặt Bắc hơi tối, chẳng tên tuần tra nào có thể nhận ra một bóng đen to đùng đang bò trên góc Bắc cửa Thạch Tháp.
Lần này Tư Đồ Sảng có lợi thế hơn lúc vượt bức tường ngoài cứa cốc. Chàng vươn tứ chi ôm lấy góc vuông nên tạo ra được một lực kẹp để hỗ trợ cho lực hút. Hơn nữa, vách tháp xây bằng những viên đá, liên kết bằng vữa, và gió mưa đã xói mòn mạch vữa làm điểm bấu víu cho những đầu ngón tay, ngón chân của chàng. Tuy thế, nếu Tư Đồ Sảng không sở đắc công phu “Bích Hổ Du Tường” thần kỳ thì chẳng thể nào trèo lên được.
Chậm chạp nhưng chắc chắn, cuối cùng thì Tư Đồ Sảng chỉ còn cách khung cửa sổ tầng năm hơn trượng. Clàng bèn rời góc tháp, bò chếch lên mặt phẳng mà tiến đến mục tiêu.
Ở dưới đất, Huyết Báo căng mắt quan sát chiếc bóng mờ, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi và tim đập liên hồi như trống trận. Lúc này mà Tư Đồ Sang sẩy tay hoặc đuối sức thì nguy to. Dẫu chàng không chết ngay thì cùng bị trọng thương và đánh động phe đối phương.
Liễu Mộ Hào lo sợ cho Tư Đồ Sảng đến mức lẩm bẩm khấn:
- Xin hoàng thiên bảo hựu cho y! Liễu mỗ xin cúng tạ một con heo!
Đây là lần đầu tiên trong đời Huyết Báo cầu viện đến lão trời già. Gã vốn là kẻ ngang tàng, đội trời đạp đất, chẳng biết sợ quỉ thần.
May thay, Tư Đồ Sảng đã bò đến nơi, vươn tay tả nắm chặt một song sắt và dùng tay hữu tháo cuộn dây chão, cột vào hai song khác.
Sau đó chàng quấn chặt dây vào người, treo mình để nghỉ ngơi. Tuy thành công nhưng lúc này tứ chi Tư Đồ Sảng như tê dại, sức lực mỏi mòn.
Khi chân khí đã hồi phục, chàng dồn hết thần lực kéo banh hai thanh chấn song. Chân không điểm tựa, chỉ nhờ lực đạo khủng khiếp của đôi cánh tay, Tư Đồ Sẳng đã làm chúng cong lại và rút chân khỏi vách đá nơi thành cửa sổ.
Người ở dưới chẳng thể nghe thấy gì nhưng tù nhân bên trong tháp đã phát hiện những âm thanh ken két của song sắt miết vào đá khi rời lỗ. Và có tiếng chân người chậm chạp vọng đến từ mé tây. Chắc tù nhân đã ngủ ở hướng ấy để hứng ngọn gió thu!
Người này cầm theo đĩa đèn dầu và nhờ vậy mà nhìn rõ dung mạo của Tư Đồ Sảng. Lão ta mừng rỡ reo lên:
-.Sảng nhi?
Tư Đồ Sảng mỉm cười, chui hẳn vào trong tháp và hỏi ngay.
- Bùi tiền bối! Chẳng hay Tạ Thần Quân và hai vị cô nương họ Lăng có ở đây không?
Táo Gia Cát buồn bã lắc đầu.
- Không! Tạ lão đã bị sát hại, còn hai con bé kia thì lão phu nghe nói đã trốn khỏi cốc, đang bị truy nã gắt gao, chẳng rõ có thoát nối hay không?
Tư Đồ Sảng cố nén ưu tư bảo:
- Tội nghiệp cho Thân Quân! Chúng ta đi thôi!
Bùi lão gật đầu nhưng không dằn nổi nỗi thắc mắc:
- Nhưng làm sao ngươi lên được tận đây? Lão phu không sao tưởng tượng ra nổi các phương thức mà ngươi đã sử dụng.
Tư Đồ Sảng thành thực đáp:
- Vãn bối trèo lên bằng công phu “Bích Hổ Du Tường” của Tích Dịch Quỉ!
Táo Gia Cát trợn mắt:
- Không ngờ tuyệt kỹ ấy lại thần diệu đến thế! Trước đây lão phu cứ nghĩ rằng Tây Môn Giới phải cần thêm sự hỗ trợ của những dụng cụ tinh xảo khác!
Bỗng lão nhíu mày tư lự:
- Này Sảng nhi! lão phu còn sống sót là nhờ chút tài mọn về mưu kế và thuật kỳ môn trận pháp, rất cần thiết cho bá nghiệp của Hạo Thiên Cung. Thế cho nên, Lăng. Cung chủ đã giam hãm lão phu ở đây, uy hiếp bằng cách giảm dần khẩu phần ăn, hy vọng lão phu sẽ khuất phục vì cái đói. Nhưng cũng nhờ vậy mà lão phu lại tình cờ phát hiện ra tuyệt học thất truyền của Ngũ Hành Giáo trên vách phòng giam. Khẩu quyết được viết rải rác trên nhữngviên gạch, nét nhỏ tựa đầu kim. Lão phu bị Cung chủ hạ độc, chân khí thất tán nên chỉ đọc được những chữ ở vị trí thấp. Từ hơn trăm chữ này, lão phu đoán rằng đấy là Khô Mộc Thần Công, tuyệt kỹ hãn thế thời nhà Tống. Người luyện được thần công này sẽ có được một cơ thể rắn chắc tựa loại thiết mộc, không sợ chưởng kình hay đao kiếm, kể cả Ngưng Huyết Huyền Băng thần chưởng hay Lô Hỏa Thần Chỉ!
Nay Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý và Cung chủ Hạo Thiên Cung lại đang khổ luyện hai tà công ấy nên Sảng nhi phải học cho được Khô Mộc Thần công mà đối phó! Vì vậy, ngươi hãy lưu lại đây vài ngày, thu thập toàn pho khẩu quyết rồi hãy thoát ra sau!
Lão phu sẽ đi trước một bước, về núi Chung Nam bày binh bố trận và bảo vệ phái Toàn Chân! Đầu tháng chín tới Hạo Thiên Cung sẽ chinh phạt Chung Nam Sơn để khởi nghiệp!
Tư Đồ Sảng ngơ ngác hỏi lại:
- Sao vãn bối nghe nói Lăng Cung chủ bị bệnh mắt! Lăng Khải Trạch mới là tai hoạ?
Bùi Thế Trực thở dài ngượng ngùng:
- Mụ Lăng Song Tường này quả là lợi hại, đã lừa được cả lão phu và Tạ Thần quân! Mụ ta giả mù, người lúc nào cũng hâm hấp sốt. Song thực ra là đang âm thầm rèn luyện công phu Lô Hoả Chỉ Pháp! Nay mụ ta biết tin Ly Giang Tiên Ông tạ thế nên mới bộc lộ rõ dã tâm!
Tư Đồ Sảng chợt băn khoăn:
- Bùi tiền bối! Tại sao Phi Tuyết, Phi Hồng lại bỏ cốc trốn đi?
Bùi lâo mỉm cười:
- May cho ngươi là hai con bé ấy chẳng phải con ruột của Cung chủ! Chúng trốn đi để tìm ngươi và cũng vì chán ngán dã tâm của mẹ nuôi! Sau này ngươi cứ thẳng tay đối phó với Hạo Thiên Cung, không cần phải kiêng nể nữa!
Tư Đồ Sảng thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ nói:
- Vãn bối sẽ đưa tiền bối xuống dưới. Huyết Báo Liễu Mộ Hào đang chờ nơi chân tháp, còn Hạo Dương Chân Quân thì phục ở bìa rừng!
Táo Gia Cát dặn dò chàng thật kỹ lưỡng rồi mới chịu rời chốn lao lung. Tư Đồ Sảng thu dây chão lên, cột vào bụng Bùi Thế Trực mà thả xuống!
Táo Gia Cát chạm đất, nhanh miệng nói sơ kế hoạch cho Huyết Báo rõ. Gã thầm lo cho chủ nhân song vẫn phải bấm bụng cõng Bùi lão đào vong!
Ơ đây Tư Đồ Sảng rút dây lên, tháo nút buộc và nắn lại hai thanh song sắt đặt hờ vào chỗ cũ. Sáng ra, bọn tuần tra có nhìn lên cũng không thể phát hiện quái sự.
Chàng bưng đĩa đèn đi đến chiếc chõng tre ở góc Tây Nam của phòng giam, nơi mà gã gác tù không thể nhìn thấy được, trừ phi mở cửa ra. Nhưng gã sẽ chẳng bao giờ làm thế, chỉ ngày hai bữa đưa cơm nước qua lỗ vuông nơi cửa nhà tù. Lỗ này nằm gần sát sàn lầu nên gã cứ việc đặt chén đũa xuống, không cần tù nhân đón lấy. Chừng một canh giờ sau gã quay lại thu dọn, mang xuống bếp nơi tầng trệt.
Tóm lại, Tư Đồ Sảng chẳng hề bị quấy rầy, ung dung ngủ nghỉ để ban ngày tìm kiếm những chữ nhỏ li ti trên vách. Bùi lão đã bắt chàng học thuộc hơn trăm chữ mà lão đọc được và chỉ cho chàng ví trí nối tiếp.
Với công phu Bích Hổ Du Tường kỳ tuyệt thiên hạ, Tư Đồ Sảng chẳng cần phái nhẩy nhót mà bò hẳn trên tường. Chàng phủi sạch bụi bặm, học thuộc từng chữ rât nhanh chóng. Thỉnh thoảng chàng lại dúng Tử Ngọc ThầnTrâm xóa bỏ vài chữ để tuyệt kỹ không rơi vào tay kẻ ác. Sau khi chàng thoát đi, chắc chắn Hạo Thiên Cung sẽ điều tra kỹ lưỡng và phát hiện khẩu quyết.
Hơn ngàn chữ nhỏ xíu kia đã bị bụi bặm mấy chục năm che phủ giấu giếm! Nơi này lại là nhà tù nên chẳng ai quét dọn làm gì! Và lại, trước Táo Gia Cát không có ai bị giam giữ ở đây, trừ lũ dơi hôi hám!
May thay, Táo Gia Cát là người ưa sạch sẽ nên đã dùng tay áo phủ lớp bũi đất nơi khoảng vách cạnh chõng tre. Và trưa hôm sau, trong lúc nhìn đốm nắng dọi lên tường, ông đã phát hiện chữ đầu tiên!
Chỉ sau hai ngày, Tư Đồ Sảng đã thu thập trọn vẹn khẩu quyết của pho Khô Mộc Thần Công. Chàng dự định đêm hôm ấy sẽ thoát đi. Khẩu phần ăn quá ít ỏi khiến chàng đói meo, và người nhớp nhúa vì không được tắm rửa. Phòng giảm này có hố xí thông xuống đất song thiếu nước dội nên cũng rất hôi thối!
Sau bữa cơm đạm bạc chiều ngày hai mươi ba, Tư Đồ Sảng ngồi tĩnh tọa, chờ đêm xuống sẽ theo dây chão mà rời thạch tháp. Song lúc đầu giờ Tuất chàng bỗng nghe tiếng bước chân dậm bình bịch trên cầu thang gỗ tầng dưới và cả tiếng chửi rủa của nữ nhân:
- Mả cha cái gã Khải Trạch đáng ghét, sao lại nỡ đày đoạ ta ở chốn hôi hám này! Có ngày bổn cô nương sẽ hạ độc cho gã phải sống dở chết dở!
Tư Đồ Sảng vừa mừng vừa lo khi nhận ra giọng nói chanh chua của Lăng Phi Tuyết. Thì ra họ đã bị lực lượng truy binh của Hạo Thiên Cung bắt được!
Chàng đang thắc mắc về an nguy của Phi Hồng thì đã nghe nàng nói với bọn ngục tốt:
- Chắc các ngươi cũng biết lý do vì sao chị em ta bị giam cầm! Bởi thế, hãy khôn hồn đối xử với bọn ta cho tử tế kẻo bọn ta đổi ý, nhận lời lấy Khải Trạch và bảo gã chặt đầu các ngươi ra đấy!
Lời hăm dọa ấy đã có hiệu lực, khiến một gã ngục tốt phải xuống nước, cười nịnh:
- Tam tiểu thư yên tâm! Bọn nô tài nhất định sẽ hết lòng hầu hạ! Nhị vị cần gì xin cứ ra lệnh!
Tư Đồ Sảng nghe xong hiệu ngay rằng Lăng Khải Trạch say mê hai cô em nuôi, quyết lấy cho bằng được. Nghĩa là dẫu chàng không hề đả thương gã ở Đồng Quan thì cũng không thành rể của Hạo Thiên Cung!
Lúc này Lăng Phi Tuyết lại lên tiếng:
- Các ngươi biết thân phận như thế là tốt! Giờ thì hãy vào phòng quét dọn sạch sẽ rồi cho người đến hậu viện mang chăn nệm cùng y phục của bọn ta lên đây! Và nhớ đổ đầy nước trong lu, không lúc nào được vơi!
Gã ngục tốt già kia cười hì hì:
- Nhị tiều thư cứ vào sẽ thấy phòng giam rất sạch sẽ và nước thì tràn trề! Bọn nô tài biết ý nhị vị nên đã sớm lo toan chu đáo cả rồi. Còn y phục và chăn nệm thì chỉ nửa khắc nữa là có ngay!
Chắc gã nói không sai nên hai ả thiên kim mới ngoan ngoãn vào phòng giam. Lát sau, tiếng mở khóa cửa lại vang  lên, tức thì vật dụng của hai nàng được mang đến. Và rồi tiếng nước xối vọng vào vành tai áp sát sàn phòng của Tư Đồ Sảng. Chàng thoáng đỏ mặt, nghe người ngứa ngáy vì thèm được tắm.
Thạch tháp này xưa kia là chỗ cư ngụ của các thủ lãnh Ngũ Hành Giáo nên đầy đủ tiện nghi, quanh mỗi tầng đều có cứa cái thông với lan can gỗ bên ngoài. Trên lan can là mái hiên lợp ngói lưu ly xanh. Nhưng sau vài chục năm bị bỏ phế, những bộ phận ấy bị gió mưa làm hư hại cả! Hạo Thiên Cung liền bỏ quách cả lan can lẫn mái hiên, bít chặt cửa lớn, chỉ chừa lại cửa sổ. Và may thay, phòng vệ sinh vẫn còn nguyên vẹn, chỉ thiếu vách che.
Kết cấu của tòa tháp chủ yếu là gạch đá và gỗ cho nên sàn lầu cũng bằng ván dầy ghép lại. Riêng phần nền phòng vệ sinh là một tấm đồng lá liền lạc bốn cạnh được gò cao lên hơn gang, có lỗ hố xí. Nhờ vậy, người ta có thể tắm táp thoải mái mà không sợ ướt sàn lầu. Nước sẽ chảy qua lỗ hố xí, theo ống đất nung đi xuống hầm phân gần chân tháp.
Mỗi tầng lầu có bốn phòng giam song thật ra chỉ có phòng hướng Bắc là dùng để nhốt tù vì Hạo Thiên Cung chẳng có nhiều tù binh hay tội phạm. Bốn phòng này được chọn vì chúng có sẵn chỗ ị! Dẫu là nhốt tù thì cũng phải có nơi bài tiết, không thôi cả sơn cốc sẽ thối um lên chứ chẳng chơi!
Nhắc lại hai ả họ Lăng tắm gội, ăn tối xong thì đã giữa giờ Hợi. Tư Đồ Sảng biết rõ rằng lúc này bọn ngục tốt chẳng bao giờ bén mảng đến phòng giam làm gì cả. Do đó, chàng tháo song sắt cửa sổ phòng mình, tuột xuống tầng dưới bằng sợi dây chão.
Phòng vệ sinh ở mạn Đông nên tù nhân đã trải nệm cạnh tường Tây cho mũi đỡ khổ và cũng để tránh cặp mắt rình mò qua khe cửa cái! Cửa này nằm lệch về phía Đông chứ khóng ở giữa phòng!
Tư Đồ Sảng  đong đưa ngoài song cửa, ghé miệng gọi nhỏ:
- Tuyết muội! Hồng muội! Ta là Tư Đồ Sảng đây!
Hai ả chưa ngủ nên nghe tiếng ngồi bật dậy nhìn nhau nghi hoặc tưởng như nằm mơ. Tư Đồ Sảng phải gọi một lần nữa họ mới tin vào tai mình và tất tả chạy đến. Tuy gấp gáp mà bước chân vẫn không nhanh như thường lệ, chứng tỏ họ đều bị phong toả võ công!
Phi Hồng có bưng theo giá nến nên song phương đủ ánh sáng mà nhìn mặt nhau. Hai ả vui mừng khôn xiết khẽ rú lên:
- Tướng công!
Phần Tư Đồ Sảng ngẩn ngơ nhìn hai gương mặt trắng trẻo, kiều diễm kia mà nghe lòng hụt hẫng, xótxa!
Phi Hồng thông tuệ tuyệt luân, qua ánh mắt tình lang mà hiểu được tâm tư. Nàng run run nói:
- Bọn thiếp vì nội qui nghiêm khắc cúa Hạo Thiên Cung mà phải dối gạt chang! mong tướng công lượng giải cho! Bằng như tướng công không tha thứ, chị em thiếp nguyện cào nát mặt để giữ được lòng yêu mến của chàng!
Nói xong nàng đưa bàn tay thon thả, có năm móng sắc nhọn lên má. Phi Tuyết cũng làm theo và sụt sùi khóc. Tư Đồ Sảng nhìn những giọt lệ long lanh và hai cặp mắt huyền tha thiết kia mà nghe lòng ngập tràn cảm xúc. Chàng thức ngộ rằng dẫu cho dung nhan xấu đẹp thế nào thì họ vẫn chính là người mà chàng yêu thương, tin tưởng. Tư Đồ Sảng mỉm cười hòa ái:
- Sao hai nàng lại nỡ bắt ta cứ treo lơ lửng mãi thế này?
Hai ả mừng rỡ nhoẻn miệng cười và Phi Tuyết chợt sững người bảo:
- Nhưng làm sao chàng vào được?
Tư Đồ Sảng không đáp, dồn toàn lực kéo bật hai thanh sắt rồi chui vào trước ánh mắt thán phục của hai cô vợ đẹp!
Họ giúp Tư Đồ Sảng cởi dây chão rối ôm lấy. Bỗng Phi Tuyết khịt mũi và chê:
- Tướng công hôi quá!
Tư Đồ Sảng xấu hổ biện bạch:
- Ta bị giam ở phòng trên, chẳng có giọt nước tắm thì làm sao không hôi cho được!
Phi Hồng tò mò hỏi ngay:
- Tướng công bị Hạo Thiên Cung bắt hồi nào vậy?
Tư Đồ Sảng đang định giải thích thì bị Phi Tuyết bịt miệng. Nàng nói như ra lệnh:
- Chàng phải tắm trước đã! Chúng ta còn cả đêm để tâm sự!
Và cô ả nóng tính dữ dằn này lôi tuột tình lang vào phòng vệ sinh. Phi Hồng hơi mắc cỡ nhưng cũng cắn răng phụ trợ với bào tỷ.
Thấy Tư Đồ Sảng lúng túng thẹn thùng, Phi Tuyết cất giọng ôn nhu:
- Tướng công! Đây chính là dịp để chị em thiếp bày tỏ chút lòng chung thủy, xin chàng cứ an nhiên mặc cho bọn thiếp phụng hầu!
Tuy mạnh miệng như thế song da mặt nàng đỏ rực vì xấu hổ và đôi môi anh đào nhẹ run lên. Tư Đồ Sảng cảm nhận được hết trái tim nồng nàn kiên quyết của mĩ nhân, lòng vô cùng cảm kích, bất giác cúi xuống hôn lên môi Phi Tuyết!
Trong lúc Phi Tuyết đê mê vì nụ hôn đầu, Phi Hồng che miệng cười chế giễu:
Từ nay tỷ tỷ còn ganh tỵ rằng tướng công yêu tiểu muội nhiễu hơn không? Sao lại đờ người như tượng gỗ thế kia?
Phi Tuyết bẽn lẽn không đáp, lóng ngóng cởi áo Tư Đồ Sảng. Hai nàng ra sức kỳ cọ cho phu tướng, nhăn mặt vì những tảng ghét dầy cộm!
Tắm xong, Tư Đồ Sảng cùng hai mĩ nhân tâm sự đến tận cuối canh ba. Chàng không thể đưa họ đào thoát trong đêm nay như đã tính toán vì giờ đây Hao Thiên Cung phòng bị sum nghiêm và đầy dẫy cao thủ. Họ đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc tấn công phái Toàn Chân vào đầu tháng chín. Do đó, vợ chồng Tư Đồ Sảng chỉ có thể thoát thân khi đạo quân Hạo Thiên Cung rời khỏi sơn cốc.
Có lẽ vì bận rộn bởi cuộc chinh phạt sắp tới nên các tù nhân bị quên lãng, chỉ có bọn ngục tốt đến đưa cơm như thường lệ. Ngày hai lần, Tư Đồ Sảng phải trở về phòng giam của mình để ăn uống, nếu không, việc đào tẩu của Táo Gia Cát sẽ bại lộ!
Tất nhiên, chàng phải ăn thêm trong khẩu phần ăn của hai nữ nhân mới đủ no. Phi Tuyết đã bắt bọn ngục tốt tăng lượng cơm canh, rượu, thịt, khiến chúng ngơ ngác, chằng hiểu vì sao! Chúng đoán mò rằng hai nàng muốn từ hôn Lăng Khải Trạch bằng cách ăn thật nhiều để biến thành heo nái!
Tuy thường ôm ấp, hôn hít hai nàng song ban đêm Tư Đồ Sảng vẫn ngủ riêng một góc. Chàng cố chiến thắng những cơn rạo rực, giữ gìn tiết hạnh cho người yêu. Dẫu chỉ là một nhà nho nứa mùa, cha chàng vẫn dạy con tiết dục! Hơn nữa, chàng đang cư tang song thân và sư phụ! Để trấn áp lửa dục, Tư Đồ Sảng tham luyện pho Khô Mộc Thần Công!
Ba người đã thân cận nhau như vợ chồng thực thụ! Hai nàng đỏ mặt song vẫn thản nhiên thay y phục trước mặt Tư Đồ Sảng. Hằng đêm, họ háo hức mơn trớn da thịt của nhau nhưng không ân ái!
Phải chăng vì nỗi khát khao thân xác không được đong đầy nên tình yêu trở nên nồng thắm, mãnh liệt hơn?
Hai nàng bị Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường dùng thủ pháp độc môn phong tỏa chân khí nên yếu ớt như chưa hề luyện võ! Tư Đồ Sảng vận dụng hết võ học mà không sao giúp được họ, lòng vô cùng hổ thẹn! Chàng đã được Ly Giang Tiên Ông truyền cho bí pháp Linh Khu Thần Giải, có thể giải phá tất cả những công phu điểm huyệt trong võ lâm! Nay có dịp áp dụng mà lại thất bại khiến chàng rất hoang mang!
Lằng Phi Tuyết là học trò cưng của Y Độc Thần Quân, rất giỏi về y lý nên đã cùng Tư Đồ Sảng bàn bạc cách chữa trị. Nàng cũng bị hạ thủ nên biết rằng mạch Đốc của mình bị bế tắc ngay huyệt Yên Du. Huyệt này nằm trên chỗ lõm dưới mõm gai đốt sống cùng thứ tư.
Hai người đã thử những cách giải huyệt khác nhau trên tấm thân trắng trẻo, nuột nà và gợi cảm của Phi Hồng. Bệnh nhân thẹn đến chín người, luôn miệng cự nự bắt bào tỷ phải thay phiên. Kết quả là Tư Đồ Sảng đỏ mặt tía tai, tim đập liên hồi, chẳng còn suy nghĩ được gì nữa cả!
Vài ngày sau, khoảng đầu canh một đêm hai mươi bẩy, Lăng Khải Trạch đột ngột đến gõ cửa phòng giam tầng bốn và ngạo nghễ nói:
- Ta quên chưa thông tri cho hai ngươi biết rằng phép điểm huyệt của gia mẫu cực kỳ độc ác, đúng ngày trăng tròn sẽ phát tác. Lúc ấy, chân khí phá nát kinh mạch, đau đớn khôn lường, dẫu Đại La Thiên Tiên giáng trần cũng không cứu nổi! Các ngươi muốn sống thì hãy ngoan ngoãn nhận lời làm vợ ta, sau tiết Trùng Cửu sẽ cử hành hôn lễ!
Nói xong, gã bỏ đi ngay, Tư Đồ Sảng cũng có mặt trong phòng, nghe vậymà lòng lo lắng cho thê thiếp. Chàng bối rối hỏi hai nàng:
- Chúng ta tính sao bây giờ?
Phi Tuyết nở nụ cười thê lương:
- Bọn thiếp thà chết chứ không bỏ tướng công mà làm vợ hắn!
Và nàng ôm lấy phu tướng mà khóc vùi. Tư Đồ Sảng vỗ về tấm lưng ong của người yêu, đau lòng đến nỗi chẳng nói nên lời.
Bỗng Phi Hồng gạt lệ bảo:
- Có lẽ sự tình không đến nỗi tuyệt vọng. Thiếp từng nghe gia sư đề cập đến một đại cao thủ trong nghề giải huyệt! Lão ta tên gọi Tư Không Chất, tuổi độ bẩy mươi lăm, ẩn Cư ở núi Thúc Phong, cách Lạc Dương độ vài dặm về hướng Tây Nam nên tự xưng là Thúy Phong Cốc chủ! Tư Không tiền bối có quen biết với gia sư tất sẽ giúp đỡ chúng ta!
Vẻ lạc quan của nàng đã trấn an được Tư Đồ Sảng và Lăng Phi Tuyết. Cả ba bình tâm lại, kiên nhẫn chờ ngày thoát ly Hạo Thiên Cung!
O0o
Đúng như lời Táo Gia Cát đã nói, xẩm tối ngày cuối tháng tám, Cung chủ Hạo Thiên Cung thống lĩnh tám trăm đệ tử kiêu dũng rời sơn cốc tiến về phía núi Chung Nam. Trận đánh này có tầm quan trọng bậc nhất nên Lăng Cung chủ đã huy động hầu hết nhân thủ dưới trướng, chỉ để lại vài chục người yếu kém giữ nhà, đa số là bọn nô tỳ.
Nhưng tại sao sắp tới ngày Đại hội võ lâm, dịp tốt để tranh ngôi Minh Chủ mà Hạo Thiên Cung lại phải tấn công phái Toàn Chân? Phải chăng Lăng Song Tường không tự tin vào bản lãnh võ công của mình?
Xin thưa rằng đấy là một trong hai động cơ mà thôi! Lăng Song Tường khổ luyện Lô Hỏa Thần Chỉ đã hơn hai chục năm, đạt được tám thành hỏa hầu, thừa sức ngạo thị võ lâm. Nhưng mới đây, mụ nhận được tin mật báo rằng Cung chủ Thập Điện Diêm Cung tức Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý, đã lấy được viên Tỵ Hỏa Châu của nhà họ Khuất đất Trường Sa, luyện thành pho Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng. Do vậy, Lăng Song Tường sinh lòng e ngại, quyết định cướp đoạt viên Nhất Dương Thần Châu của phái Toàn Chân. Viên ngọc này vốn là di vật của Vương Trùng Dương, tổ sư phái Toàn Chân. Nếu Lăng Song Tường nuốt vật chí dương này thì sẽ lập tức thông qua lớp chót của Lô Hỏa Tâm Pháp, chỉ kình xanh biếc và nóng tựa lửa lò rèn, thiên hạ không đối thủ!
Nguyên nhân thứ hai là tấm bản đồ kho báu dẫn đến nơi cất giấu tài sản khổng lồ của dòng họ Đoàn đất Đại Lý. Nhiều năm sau khi nước Đại Lý bị quân Mông Cổ tiêu diệt thì có lời đồn đại ràng: Vị vua cuối cùng của Đại Lý là Đoàn Hưng Trí đã kịp cất giấu những của cải quí giá nhất vào một nơi bí mật, rồi giao tàng bảo đồ cho cháu trai mang đến núi Chung Nam nương tựa phái Toàn Chân! Đoàn Hoàng Gia và Vương Trùng Dương có mối giao tình rất thâm hậu!
Lời đồn chết tiệt ấy đã làm khổ phái Toàn Chân suốt mấy chục năm! Tiền nhiệm Trưởng Giáo, sư phụ của Hạo Dương Chân Quân, phải ra trước đại hội võ lâm, thắp hương thế thốt mới giải tỏa được mối nghi ngờ! Ông công nhận rằng năm xưa quả thật là con cháu của Đoàn Hoàng Gia có đến núi Chung Nam tỵ nạn song chẳng hề nhưng theo bản đồ kho báu nào cả. Và chàng trai bất hạnh đó cũng qua đời vài tháng sau đó vì một chứng bệnh nan y!
Nhưng Cung chủ Hạo Thiên Cung không tin lời cải chính ấy, cho thủ hạ thân tín tiềm nhập phái Toàn Chân làm nội gián. Sau nhiều năm rình mò, vài tháng trước, tên gián điệp này đã mật báo về rằng có thấy Hạo Dương Chân Quân nửa đêm xem xét, nghiên cứu một tấm da dê cũ kỹ và so sánh với bản đồ địa thế của tỉnh Vân Nam!
Lăng Song Tường càng khẳng định niềm tin, quyết bắt cho được Hạo Dương Chân Quân mà tra khảo cho ra Nhất Dương Thần Châu và Tàng bảo đồ. Mụ sẵn sàng giết sạch đệ tử Toàn Chân, không chừa bất cứ ai làm nhân chứng, ảnh hưởng đến sự nghiệp bá vương của Hạo Thiên Cung sau này!
Hạo Thiên Cưng đã mang theo hàng trăm cân Hủ Cốt Tán để tiêu hủy tử thi! Không nhân chứng, không xác chết thì quan nha và võ lâm chẳng thể truy cứu được!
Dù tin vào lực lượng và chiến thuật “xuất kỳ vô ý, công kỳ vô bị”, nghĩa là đánh lén, Hạo Thiên Cung cũng phải phòng xa, bắt mọi người chụp túi vải đen lên đầu, chỉ chừa hai lỗ mắt. Y phục của họ cũng toàn một mầu đen hắc ám, trông như đội quân của chốn âm ty vậy!
Đoàn viễn chinh vừa đi khỏi độ hơn hai canh giờ thì Tư Đồ Sảng đưa hai nữ nhân rời thạch tháp. Do không sợ người ngoài xâm nhập vào nên bọn đệ tử ở lại chẳng thèm canh gác, thản nhiên đánh một giấc miệt mài sau bữa nhậu thả dàn!
Nhận ra rằng chẳng có ma nào tỉnh táo tuần tra, trừ lũ chó Ngao, Lăng Phi Tuyết liền bàn:
- Tướng công! Hạo Thiên Cung chính là tai họa của võ lâm, trước sau gì cũng là kẻ địch của chàng. Sao chúng ta không nhân cơ hội này vét sạch tài sản của họ, cũng là góp phần vào sự nghiệp giáng ma vệ đạo! Phòng quỹ nằm dưới sàn của tòa Thạch điện!
Nàng oán hận Lăng Cung chủ giết hại Y Độc Thần Quân nên nghĩ đến chuyện trả đũa.
Tư Đồ Sảng đang phân vân, sợ mang tiếng trộm cắp, thì Phi Hồng thở dài:
- Tướng công chớ ngại vì việc này mà đánh mất khí tiết của bậc quân tử, tài sản kia vốn thuộc vế chị em thiếp! Khi gia phụ, gia mẫu đồng thời thất lộc, anh em không có, Lăng Cung chủ đã dùng quyền Biểu cô, đem chị em thiếp về nuôi và tiếp quản toàn bộ của cải nhà họ Lăng. Nay chúng ta lấy lại cũng là hợp đạo lý! Chẳng lẽ chị em thiếp vế làm dâu họ Tư Đồ mà không có được chút của hồi môn nào hay sao?
Tư Đồ Sảng là người cương trực, công chính nên chán ghét sự bất công. Chàng vui vẻ nói:
- Nếu đúng thế thì chúng ta có quyến thu hồi lại cho đúng đạo công bằng. Nhưng chỉ sợ sau này hai nàng trở nên giầu có mà chê ta nghèo đấy thôi!
Hai ả phì cười, đấm yếu vào lưng chàng. Phi Tuyết nhanh nhẩu dẫn hai người kia đi đến cửa sau tầng dưới của toà Đại điện Hạo Thiên Cung.
Có đến bẩy tám con chó lẩn quẩn chốn này. Song chúng quá quen hơi Phi Tuyết, Phi Hồng nên chẳng hề sủa, vẫy đuôi mừng rỡ.
Tất nhiên, cửa nẻo rất kiên cố và được khóa bởi một ổ khóa loại tốt. Tư Đồ Sảng ngượng ngùng hỏi mượn Phi Hồng hai chiếc kẹp tóc bằng đồng. Chàng hí hoáy một lúc thì thành công. Nghề mở khóa này chàng cũng học từ Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới.
Phi Hồng nhận lại kẹp, tủm tỉm nói đùa:
- Té ra tướng công là cao thủ trong làng đạo chích! Với tài nghệ này bọn thiếp không lo đói nữa rồi!
Tư Đồ Sảng hổ thẹn không đá, lẳng lặng mở cửa tiến vào. Phi Tuyết bật hoả tập, bước đến cạnh chiếc ngai gỗ chạm trổ cầu kỳ của Cung chủ và nói:
- Tướng công! Con kỳ lân mé tả, phía trước này được đẽo từ đá vân thạch, nặng ước hai ngàn bốn trăm cân, song thiếp tin rằng chàng đủ sức. Chàng chỉ cần xô nó xoay ngang theo hướng phải là lộ ra cửa mật thất!
Tư Đồ Sảng hơi ngao ngán nhưng không thể mất mặt với nơi đẹp nên xuống tấn, ôm đầu con vật nặng nề, lạnh toát mà đẩy mạnh. Những bắp thịt trên cơ thể chàng nổi lên cuồn cuộn, xương cốt kêu răng rắc; và khối vân thạch lì lợm kia bất đầu chuyển động. Có lẽ Thạch Lân được đặt trên một bàn xoay nên nó không bị xô lệch đi mà cứ từ từ quay ngang, đế lộ một lỗ trống mà lúc nãy bị phần thân sau che khuất.
Phi Tuyết, Phi Hống nhanh nhẹn bước xuống những bậc thang gỗ, để Tư Đồ Sảng ở lại cảnh giới. Nửa khắc sau hai ả trở lên với hai túi vải nặng.
Sau khi con kỳ lân trở về vị trí cũ, ba người mang ngân quĩ của Hạo Thiên Cung đi ra cửa sơn cốc!
Lần này Tư Đồ Sảng chẳng phải nhọc công thi triển công phu Bích Hổ. Chàng tháo thanh dóng ngang, mở cửa mà ra. Khi ba người thoát khỏi trận kỳ môn nơi cửa sơn cốc thì nghe tiếng người gọi mừng rỡ:
- Công tử? Liễu mỗ chờ đợi nơi đây đã ba đêm rồi!