Tiếp Theo

Vào hầu lạy trước đài xuân,

Hương đưa chén chuốc gấm nhuần tiệc cao.
915.- Bấy lâu con học thế nào?
"Ngọc-kinh nghe đã xôn-xao mở trường.
"Nệ gì định tỉnh lễ thường,
"Làm cho thân hiển danh dương mới là".
Phu-nhân lại dạy chuyện nhà:
920.- "Đại khoa nhân thể tiểu khoa cũng vừa".
Nỗi Lưu nói kể sau xưa,
Tay trao cho nhận mấy tờ thiếp-canh.
Nỗi mình lại ngán cho mình,
Trời sao sấm dậy, đất bình sầu xây.
925.- Lòng thơ như dại như ngây,
Gửi qua thoắt đã trở giày về song.
"Thôi thôi lòng đã phụ lòng!
"Trăm năm bẻ một chữ đồng vì ai.
"Bẽ bàng trăng tối mưa mai,
930.- "Sao duyên ngang ngửa cho người dở-dang?
"Người xa đành lẽ chưa tường,
"Cửa thu luống chực tin sương góc trời.
"Dẫu vàng dẫu đá với người,
"Nặng tình đâu dám nhẹ lời song thân.
935.- Năm canh cung nguyệt lựa dần,
Năm lần xa nhớ, năm lần thở-than.
"Ông tơ khéo lẽ đa đoan,
"Ba sinh luống đợi Ngọc Hoàn còn lâu.
"Khuôn xanh kia mới hiểm-sâu,
940.- "Đã lừa nhau, lại tỏ nhau nữa mà".
Ác vàng thấm-thoát bay qua,
Phủ Dương sinh-nhật một nhà đầy vui.
Chàng Diêu đệ lễ sang chơi,
Rượu đua cuộc thánh thơ bồi câu tiên.
945.- Khi vui chạnh nhớ bạn hiền,
Thấy Diêu hầu dễ nên quên sự chàng,
Rằng: "Từ bẻ liễu lên đường,
"Gửi mai sao hãy trễ-tràng đến nay".
Việc Lưu, Diêu mới giãi-bày:
950.- "Ý vì hôn-sự nên chầy chưa sang".
Nàng vừa đứng trước rèm tương,
Bên tai một trận thê-lương gió ào.
Nghe qua vội trở gót vào,
Sóng trôi lớp lớp nhường xao bể lòng.
955.- "Vì ai lở đỉnh lấp giòng,
"Đã đành gối chiếc, chăn mong nhầm người".
Cạn lời Hương mới lựa lời:
"Dù ai nỡ phụ chi ai luống chờ!
"Nhụy đào vẹn-vẻ còn tơ,
960.- "Ví ra bướm lọc ong lừa hiếm ai".
Thoảng nghe những tiếng trái tai,
Thét rằng: "Giọng khéo dông-dài gớm chăng!
"Vì ai quyến gió rủ trăng,
"Bây giờ còn dám đãi-đằng với ai?
965.- "Phận đàn-bà, ngỡ là chơi,
"Một ngày tăm-tiếng, muôn đời mắt tai.
"Mặc ai thề nhạt, nguyền phai,
"Tự ta xuân khóa mây cài với ta".
Đỡ lời Nguyệt mới thưa qua:
970.- "Tơ duyên cũng chửa hẳn là dứt xong,
"Duyên kia dù hẳn phụ lòng,
"Mặc ai xin hãy thung-dung nghĩ nào"!
"Mưa tuôn ngấn ngọc như bào,
"Phận đành là thế dẫu sao cùng đành!
975.- "Rồi đây bèo nước lênh-đênh,
"Cành hoa vô chủ đã đành từ đây.
"Buồng riêng thức thức phô-bày,
"Lòng nào vui những của này với ai.
"Ngón cầm dù lựa vào tai,
980.- "Điệu cao đã vậy nào người tri âm?
"Túi thơ dù đúc nên ngâm,
"Phẩm-đề ai kẻ đồng tâm với mình?
"Bút hoa dù vẽ nên tranh,
"Lấy ai mà nhận nét tình cho hay?
985.- "Cuộc cờ ai kẻ ngang tay?
"Thấy cờ mà tưởng những ngày chơi đêm.
"Nào gương, nào chỉ, nào kim,
"Vì ai mà để chi thêm bận lòng.
"Sạch-sanh phó trận lửa nồng,
990.- "Tiên thề đành để ghi lòng kiếp sau".
Bập-bùng chưa nguội bếp sầu,
Nhện sa chợt mảng tin đâu trước mành.
Dương-gia chuyển thụ thăng kinh,
Đề-huề chuyển soạn thủy trình trẩy ra.
995.- Nỗi mình thêm rộn nỗi nhà,
Khi xa, xa biết là xa mấy trùng.
Hành-trang sắm-sửa vừa xong,
Con thuyền chen-chúc đưa giong cánh lèo.
Giang-sơn tám bức sầu treo,
1000.- Cảnh mai để chạnh, sắc chiều như xui.
Kìa đâu cát bẵng một doi,
Mấy chòm lếch-đếch lôi-thôi trận nhàn.
Kìa đâu mây tận chân ngàn,
Lưng đèo xao-xác, hợp tan chợ chiều.
1005.- Kìa đâu viễn-phố quạnh-hiu,
Chân trời thấp-thoáng con chèo về khơi.
Kìa đâu bờ-bến lôi-thôi,
Ngư-thôn mấy móc, mặt trời tà-dương.
Kìa đâu nghi-ngút khói sương,
1010.- Chày khuya mấy tiếng, chuông vang bên chùa.
Kìa đâu nước lạnh trời thu,
Động-đình phẳng lặng một hồ trăng in.
Kìa đâu ban tối đỗ thuyền,
Trắng bay hoa tuyết giang-thiên một màu.
1015.- Kìa đâu trúc lệ nhuộm thâu,
Tiêu-tương lích-chích mưa mau canh chầy.
Cảnh kia thêm bận lòng này,
Phượng-thành sáng mở nào hay đã gần.
Cửa doanh-liễu mới rước xuân,
1020.- Biên thư đã thấy tấu văn bệ thiều.
Rợ Hồ lỗng thói con kiêu,
Ruổi mù bụi ngựa, trẩy theo ải nhàn.
Sân phong lựa mặt sai quan,
Lại sai Dương-tướng giữ-giàng việc biên.
1025.- Hịch mau một mảnh sao truyền,
Đành chăm việc nước, phải quên việc nhà.
Hàn-lâm sẵn có Tiền-nha,
Với phu-nhân vả cũng là đồng thân.
Hãy sang tạm trú cho gần,
1030.- Đợi ngày dẹp giặc, xem chừng chẳng khơi.
Tiền nghe đón rước tận nơi,
Dọn lầu sửa chốn nghỉ-ngơi thanh-nhàn.
Chị em, cậu, cháu đoàn viên,
Đành lòng Dương mới gióng yên cõi ngoài.
1035.- Một phương đóng vững thành dài,
Nuốt không Hồ-yết sa loài khuyển-dương,
Tình kiều-tử, dạ phần hương,
Dù cay-đắng cũng phận thường nghĩ nao.
Sầu kia kể đã là bao,
1040.- Nỗi người chiếc bóng ra vào lại thương.
Sinh từ núm-náu phần hương,
Trời thu ba cữ, doành Tương một ngày.
Bụi trông muôn hộc chất đầy,
Cánh nào bay đến ngỏ bày trước trang.
1045.- Liệu cơ ra lạy tôn-đường,
Tràng-châu xin lại tìm sang cựu-trình.
Được lời theo lối thủy-hành,
Thẳng giong buồm lá thênh-thênh xuôi giòng.
Sông nguyền, bể dặn trùng trùng,
1050.- Phụ-phàng nọ những thẹn-thùng nước non.
Vườn riêng còn thú cầm-tôn,
Hoàng-diêu, Tử-ngụy vẫn còn chưa phai.
Cành trông cỗi ngắm chờ ai,
Đầy song tuyết điểm hoa mai trắng ngần.
1055.- Lần sang thăm thú vườn gần,
Một vùng cỏ biếc mấy lần cửa son.
Lơ thơ cây cỗi cành non,
Rêu in cầu đá, tuyết mòn lối thơm.
Lầu thơ khói tỏa mây trùm,
1060.- Chồi sai thưa bẻ, khóm sờm vắng via.
Biết ai hầu hỏi sự duyên,
Viên-ông đã thấy trong miền rò ra.
Mon-men thăm hỏi gần xa,
Mới tường mon-mạch, nay đà phó kinh.
1065.- Ngán chiều lả chả đôi doành,
Buồn nương bên triện, dạo quanh khắp tòa.
Băn-khoăn đến trước đình Ba,
Lương không yến đỗ, song tà nhện trăng.
Dẫu thơ vách hãy dăng dăng,
1070.- Xã-thơ cách mấy mươi từng người thơ.
Hiên cài lác đác sao thưa,
Sân rêu nọ chốn ngày xưa chén đồng.
Mày dương-liễu mặt phù-dung,
Ngắm hoa thêm nhắc tấm lòng sinh-ly.
1075.- Trăng thề vẫn đó tri tri,
Liễu chương-đài biết nay đi đâu rồi.
Mừng xuân đào hãy ngậm cười,
Vẻ hồng trơ đó, mặt người nào đâu?
Khi sao son gác phấn lầu,
1080.- Giờ sao tan tác mặc dầu khói sương.
Ấy ai dập lửa vùi hương,
Để ai nát đá phai vàng với ai?
Giận riêng trăm nỗi chất đầy,
Một hơi giá ngắt, hai tay lạnh đồng,
1085.- May sao vừa gặp Viên-công,
Rụng rời kíp gọi gia-đồng thuốc thang.
Tỉnh ra về đến trú-phường,
Giấc buồn chưa giã, mạch tương lại đầy.
Nỗi chàng kể đã chua cay,
1090.- Nỗi nàng nào biết đến rày những sao.
Một mình một ngọn đèn hao,
Áng mây biên-ải, chiêm bao cho liền.
Chợt nghe Tiền-cậu báo tin:
"Giặc Hồ nghiêng nước, vây miền ngọc quan.
1095.- "Dương công luỹ mảnh quân đơn,
Miếu-đường truyền hịch mưu toan tơi bời".
Một nhà nghe nói rụng-rời,
Sự mình kia với sự đời hay sao:
"Ví chăng làm kiếp má đào,
1100.- "Thì ra tay thước quản bao cát lầm".
Lầu khuya thẻ cạn canh trầm,
Thôi lai láng tưởng, lại thầm thì than.
Aỉ mây tin-tức khơi ngàn,
Cửa bèo nênh-nổi, nhà lan lật-lừa.
1105.- Xiết bao phận mỏng như tờ,
Nợ bình-sinh, nỗi tóc-tơ chưa đền.
Đêm đêm vừng nguyệt hoa đèn,
Mai gầy-guộc vóc, liễu đen-đủi mày.
Bể sầu càng vợi càng đầy,
1110.- Đã đường kia lại nỗi này, mới ghê!
Đình Ba từ trở gót về,
Tiếng quyên đã gọi bóng hòe theo xuân.
Diêu-sinh thăm hỏi ân-cần,
Lấy kỳ thi-cử, ép phần thuốc thang.
1115.- Sinh rằng:"Duyên nghiệp dở-dang,
"Thôi thời còn nghĩ chi đường lợi-danh".
Dám thưa: "Dạy thế sao đành,
"Sân lai sáu kỷ, song huỳnh mười thu.
"Lại gì cho trọng hơn ru?
1120.- "Mà coi muôn dặm vân cù làm chơi.
"Gió bằng chín vạn bay khơi,
"Bất bình dẫu việc tày trời cũng xong".
Nghe lời như dẹp cơn nồng,
Nhân kỳ phó cử quyết lòng tầm phương.

Chú thích:

    đài xuân: là nơi cha ở.
    tiệc cao
    : tiệc có nhiều cao lương mỹ-vị.
    Đại khoa
    : là thi đỗ.
    tiểu khoa
    : là cưới vợ.
    thiếp-canh
    : tờ thiếp ghi tên tuổi của việc hôn-nhân.
    cung nguyệt
    : là cung bậc của đàn nguyệt-đàn hình tròn như mặt nguyệt nên gọi là nguyệt.
    Ngọc Hoàn
    : tức là Dương ngọc Hoàn hay Dương quí Phi vợ vua Đường Minh Hoàng. Đây vì Giao Tiên cũng họ Dương nên dùng điển ấy.
    Ác vàng
    : là con quạ vàng do chữ kim-ô tức là mặt trời.
    Rượu đua cuộc thánh thơ bồi câu tiên
    : Rượu thánh thơ tiên là rượu ngon thơ hay,
    bẻ liễu
    : sách Tam-phụ Hoàn-đồ chép: nơi Bá-kiều (cầu ở gần kinh-đô Tràng-an) người đưa nhau đến đó bẻ liễu tặng nhau làm roi ngựa. cho nên sau dùng chữ chiết-liễu (bẻ liễu) là chỉ sự tiễn-biệt,
    Gửi mai
    : do chữ ký mai ở truyện Lục Khải bẻ cành mai gửi thế phong thư,
    rèm tương
    : rèm bằng tre đồo-mồi.
    lở đỉnh lấp giòng
    : nghĩa bóng: phá hoại sự thề non hẹn bể.
    gối chiếc, chăn mong
    : nghĩa là không có lứa đôi, phải dùng cái gối lẻ chăn đơn
    xuân khóa
    : là khóa vườn xuân. Nghĩa bóng giữ-gìn nết-na,
    ngấn ngọc
    : Ngọc do chữ ngọc lệ: nước mắt như ngọc. Ngấn nọc: là hoen-ố nước mắt của một gái đẹp.
    bèo nước
    : do chữ Bình-thuỷ. Ví sự lưu-lạc của người như mặt nước cánh bèo, trôi-nổi không định vào đâu.
    Nhện sa
    : mỗi khi có con nhện sa người ta đoán là có tin lành hoạc điềm dữ sắp đến,
    Chày khuya
    : tức là cái chày để dộng chuông. Chày khuya: là tiếng chuông chùa đêm khuya,
    trúc lệ
    : nước mắt dỏ vào cành trúc,
    doanh-liễu
    : là tên một doanh-thự ở đất tế-liễu.
    bệ thiều
    : là nơi thềm quí-báu nhà vua, do chữ thiều là nhạc thiều.
    con kiêu
    : do chữ kiêu-tử. Sách Hán-thư chép rõ chuyện rợ Hung-nô, câu quốc-thư của rợ Thuyền-vu gửi vua Hán rằng: Phương nam có nhà đại Hán, phương bắc có cường Hồ, ấy là đứa con kiêu-ngạo nhà vua vậy,
    ải nhàn
    : do chữ Nhạn-môn quan ; cửa ải đi sang rợ Hồ, đường núi cao và nguy hiểm nên chim nhạn thường bay ngang qua.
    Sân phong
    : bởi chữ phong đình. Cây phong tựa cây bàn, mùa thu lá đỏ có vẻ đẹp nên thường trồng ở sân chầu của vua.
    sao truyền
    : do chữ tin truyền ; truyền đi gấp, đi suốt ngày đêm. sao ban đêm
    Hồ-yết
    : là tên rợ ở xứ Hung-nô,
    kiều-tử
    : Kiều, một thứ cây cao và thẳng có vẻ nghiêm-trang. Tử: một thứ cây lùn có vẻ phục tùng nên người ta ví Kiều tử là cha con,
    phần hương
    : là làng vua Hán Cao-tổ ở, gọi là Phần-du, về sau xưng là Phần-hương là quê làng là bởi thói quen,
    Cánh nào bay
    : là ý mong chắp cánh chắp cánh bay đến,
    Hoàng-diêu, Tử-ngụy
    : màu vàng của họ Diêu, màu tím của họ Nguỵ là hai tên riêng của hoa mẫu-đơn gọi là Diêu-hoàng, Nguỵ-tử
    Lương
    : tức cái rường nhà,
    Xã-thơ
    : bởi chữ thi-xã: nhóm người hay thơ họp nhau làm một hội ngâm thơ,
    dương-liễu
    : tức cây liễu yếu, ngày xuân dủ cành như tơ.
    Liễu chương-đài
    : bởi điển Hàng Hoằng yêu một kỹ nữ là Liễu-thị ở đường chương-đài, tại thành-đô, về sau bỏ nàng đã ba năm không đem về ở chung, sau gửi thửi thư thăm nàng có câu: Liễu Chương-đài, liễu Chương-đài ngày xưa xanh tốt, ngày nay thế nào? Liễu-thị trả lời: liễu Chương-đài, liễu Chương-đài, còn xanh chi xiết tay người hái vin. về sau Liễu-thị bị tướng phiên đoạt. Rồi Hứa Tuấn lại cướp lại mà trả cho hàng Hoằng. Điển này thường dùng hỏi thăm người tình-nhân.
    dập lửa vùi hương
    : bởi chữ hương hoả nhân-duyên. Người xưa khi thề nguyên nhân-duyên cùng nhau thườngdùng hương lửa mà thề nguyền trước thần-linh,
    thẻ cạn
    : tức canh khuya. Xưa dùng cái đồng-hồ bằng cái chậu đồng dỏ nước và cái thẻ ghi giờ.
    nhà lan
    : do chữ lan-thất là sự giao-du với người quân-tử,
    vân cù
    : đường mây, tức đường công-danh cũng như thang mây,
    bằng
    : con chim lớn nhất, mỗi khi cất cánh bay đến sáu muôn dặm mới nghỉ.