Hồi thứ một trăm mười ba
Ăn năn lỗi trước, Phượng Thư nhờ cậy già Lưu
Quên hẳn hiềm xưa, Tử Quyên cảm thương Bảo Ngọc

Dì Triệu mắc bệnh ở chùa Thiết Hạm, thấy ít người lại, càng nói nhảm. Mọi người đều ngơ ngác khiếp sợ. Hai người đàn bà đỡ cho dì Triệu quỳ ở dưới đất. Dì ta nói rồi lại khóc, có lúc bò ra giữa đất xin tha tội và nói:
- Ông đánh tôi chết mất! Ông râu đỏ ơi. Tôi không dám nữa đâu!
Có lúc lại chắp lai tay kêu đau. Con mắt lồi ra, miệng chảy máu tươi, đầu bù tóc rối, ai cũng sợ hãi, không dám lại gần.
Lúc trời gần tối, tiếng nói của dì Triệu càng khan dần, y như quỷ gào, không có ai dám đứng trước bà ta. Đành phải gọi mấy người đàn ông can đảm vào ngồi đấy. Có lúc dì Triệu chết đi được một lúc lại sống lại, suốt đêm cứ như thế. Đến hôm thứ hai. Bà ta không nói nữa, chỉ làm như bị ma ám, tự tay xé tung áo quần, để lòi bụng ra hình như có ai xúi cởi áo quần. Tội nghiệp dì Triệu, tuy không nói gì nhưng xem có vẻ đau đớn khổ sở! Đang khi nguy cấp thì thầy thuốc đến. Thầy thuốc cũng không xem mạch, chỉ dặn:
- Lo liệu việc hậu sự đi thôi.
Nói xong, liền đứng dậy đi ra. Người nhà đưa thầy ta đến, cứ nằn nì:
- Nhờ thầy xem qua mạch một tí, để tôi tiện về bẩm với chủ nhà.
Thầy thuốc lấy tay sờ một cái, thì không còn có mạch nhảy nữa. Giả Hoàn nghe nói, mới khóc rống lên. Mọi người chỉ lo săn sóc Giả Hoàn, còn dì Triệu thì chẳng có ai nhìn. Chỉ có dì Chu nghĩ bụng: « Cái kiếp vợ mọn, chẳng qua như thế! Vả lại bà ta còn có con đấy. Chứ lúc mình chết, chưa biết sẽ ra sao? »
Dì Chu càng khóc lóc thảm thiết.
Người nhà chạy về trình. Giả Chính liền sai người đến chùa, theo lệ cũ mà lo liệu. Cùng Giả Hoàn ở lại ba ngày, rồi đều về. Người kia vâng lời ra đi. Ở đấy, một người truyền mười, mười người truyền trăm, ai cũng biết chuyện dì Triệu độc ác làm hại người, bị âm ty tra tấn mà chết. Họ lại nói:
- Mợ hai Liễn cũng nguy rồi. Sao lại nói là mợ hai Liễn kiện?
Lời đồn ấy đến tai Bình Nhi. Chị ta hoảng sợ, xem bộ dạng Phượng Thư cũng khó lòng khỏi được. Vả lại gần đây, Giả Liễn không hề âu yếm như trước nữa. Công việc lại nhiều, thành ra việc Phượng Thư đau ốm hình như không liên can gì đến hắn. Ở trước mặt Phượng Thư, Bình Nhi chỉ một mực khuyên lơn, an ủi. Lại thêm Hình phu nhân và Vương phu nhân về nhà mấy hôm nay, chỉ sai người qua hỏi, không hề thân hành đến thăm, Phượng Thư càng thêm đau xót. Giả Liễn về nhà cũng chẳng nói một câu nào thân mật. Phượng Thư chỉ mong sao cho chóng chết, hễ sực nghĩ đến, trong lòng lại thấy ma quỷ kéo đến. Chị ta thấy chị Hai họ Vưu từ sau phòng đi tới, dần dần lại gần trước giường và nói:
- Chị ơi, lâu nay không gặp nhau, em rất tưởng nhớ. Nhưng muốn gặp cũng không được. Giờ đây khó khăn lắm mới vào được đây thăm chị. Chị thật đã đem hết tâm lực mà cậu Hai lẩn thẩn kia lại không biết cảm ơn tấm lòng tốt của chị. Đã thế lại oán trách chị làm việc quá khắc bạc, làm mất con đường tương lai của cậu ta, để cậu ta không mặc mũi nào nhìn thấy người khác nữa. Em thật tức thay cho chị.
Phượng Thư mơ màng trả lời:
- Giờ đây chị cũng phàn nàn tâm địa chị hẹp hòi quá. Em không nghĩ đến mối thù xưa mà còn đến thăm chị à.
Bình Nhi ở bên nghe nói, liền hỏi:
- Mợ nói gì thế?
Phượng Thư tỉnh dậy, nghĩ lại chị hai Vưu đã chết, chắc là chị ta đến đòi đền mạng. Bị Bình Nhi gọi tỉnh dậy, trong lòng Phượng Thư sợ hãi, nhưng không chịu nói ra, đành miễn cưỡng trả lời:
- Ta tâm hồn rối loạn, chắc là nói mơ, em đấm bóp cho ta một chút.
Bình Nhi leo lên giường đang đấm, thì thấy một a hoàn nhỏ đi vào, nói bà cụ Lưu đã đến. Bọn bà già đưa vào hỏi thăm sức khỏe của mợ.
Bình Nhi vội vàng tụt xuống, và hỏi:
- Bà ấy đâu rồi?
- Bà ta không dám vào ngay. Còn chờ mợ truyền bát.
Bình Nhi nghe nói gật đầu, nghĩ bụng mợ ấy đang ốm, chắc là không muốn gặp ai, liền nói:
- Mợ đang nghỉ ngơi để di dưỡng tinh thần, bảo bà ta hãy chờ đấy, và em có hỏi bà ta đến có việc gì không?
- Bọn họ hỏi rồi, không có việc gì, bà ta chỉ nói, nghe tin cụ bà qua đời. Nhưng vì không ai báo tin, nên đến chậm.
A hoàn nhỏ đang nói thì Phượng Thư nghe thấy liền bảo:
- Chị Bình. Người ta có lòng tốt đến thăm, không nên lạnh nhạt với họ. Chị đi mời bà Lưu vào đây, ta nói chuyện với bà ấy một chút.
Bình Nhi đành phải ra mời bà Lưu vào trong này ngồi. Phượng Thư vừa muốn nhắm mắt, lại thấy một trai một gái chạy đến, hình như muốn trèo lên giường, Phượng Thư vội vàng gọi Bình Nhi và hỏi:
- Người đàn ông ở đâu mà chạy đến đây thế?
Gọi luôn hai tiếng, thì thấy Phong Nhi và Tiểu Hồng chạy vào nói:
- Mợ muốn lấy gì?
Phượng Thư giương mắt nhìn một cái, chẳng thấy người nào, trong bụng biết rõ, nhưng không chịu nói ra, liền hỏi Phong Nhi:
- Con Bình đi đâu rồi?
- Không phải là mợ đã bảo chị ấy đi mời bà Lưu rồi à?
Phượng Thư nằm yên không nói gì. Chợt thấy Bình Nhi cùng bà Lưu dẫn một đứa gái nhỏ đi vào, và nói:
- Mợ ở đâu?
Bình Nhi dẫn bà ta đến bên giường. Bà Lưu liền nói:
- Xin hỏi thăm sức khỏe mợ.
Phượng Thư giương mắt nhìn, bất giác đau lòng, liền nói:
- Bà có khỏe không? Sao đến bây giờ mới tới? Xem kìa, cháu ngoại bà cũng lớn ngần ấy rồi đấy.
Bà Lưu thấy Phượng Thư mình gầy như que củi, tinh thần hoảng hốt, trong bụng cũng thương xót, liền nói:
- Mợ ơi? Sao mới mấy tháng không thấy mà đã ốm đến thế? Thật tôi u mê đáng chết, sao không sớm đến hỏi thăm mợ!
Bà ta liền bảo con Thanh hỏi thăm sức khỏe. Con Thanh chỉ cười. Phượng Thư trông thấy, cũng rất thương yêu, liền bảo Tiểu Hồng dỗ dành nó.
Bà Lưu nói:
- Người trong trại chúng tôi không hay ốm, nếu mà ốm thì sẽ cầu thần hứa hẹn, chứ xưa nay không biết uống thuốc. Tôi nghĩ bệnh của mợ đây chắc mắc phải ma quỷ gì đấy thôi.
Bình Nhi nghe câu nói ấy không đúng lý, vội vàng ở sau kéo trộm áo bà ta. Bà Lưu hiểu ý liền không nói nữa. Không ngờ câu nói ấy lại hợp ý Phượng Thư. Chị ta liền gắng gượng nói:
- Già ơi, già là người có tuổi, nói không sai. Dì Triệu mà trước kia già đã gặp, nay cũng chết rồi, già có biết không?
Bà Lưu lấy làm lạ, và nói:
- A di đà phật? Người mạnh khỏe như thế, sao đã chết sớm? Tôi nhớ bà ta cũng có mặt anh con nhỏ, bây giờ biết làm thế nào?
Bình Nhi nói:
- Sợ cái gì? Còn có ông lớn và bà lớn đấy.
Bà Lưu nói:
- Cô ạ cô biết sao được? Mẹ đẻ chết đi là không hay, người không mang nặng đẻ đau thì ăn thua gì?
Câu nói ấy lại làm cho Phượng Thư buồn, nghẹn ngào nức nở khóc lên. Mọi người đều tới khuyên giải. Xảo Thư thấy mẹ nó khóc lóc, liền chạy đến trước giường, giơ tay cầm lấy tay Phượng Thư, rồi cũng khóc lên.
Phượng Thư vừa khóc vừa hỏi:
- Con đã gặp bà Lưu chưa?
- Chưa.
- Bà ta đặt tên cho con, cũng như mẹ nuôi đấy. Con tới hỏi thăm sức khỏe bà đi.
Xảo Thư liền chạy đến trước mặt, bà Lưu vội vàng nắm lấy và nói:
- A di đà phật? Đừng làm tôi chết mất! Cô Xảo ơi đã hơn năm nay tôi không đến, cô còn nhận được tôi không?
- Sao lại không nhận được? Năm nọ khi gặp bà ở trong vườn, tôi còn nhỏ. Năm trước bà đến, tôi xin bà con châu chấu già, bà chưa cho tôi, chắc là quên rồi.
Bà Lưu nói:
- Cô ơi! Tôi già lẩm cẩm mất rồi, nếu nói đến châu chấu thì ở trang trại chúng tôi rất nhiều, có điều cô không đến chỗ đó được thôi. Nếu cô đến thì muốn lấy một xe châu chấu cũng không khó gì,
Phượng Thư nói:
- Bà đem nó về với.
Bà Lưu cười và nói:
- Vô là thân ngàn vàng, lớn lên trong lụa là, ăn toàn thức ăn ngon, đến chỗ chúng tôi thì lấy gì cho cô chơi, lấy gì cho cô ăn. Thế lại không làm tôi chết mất à!
Bà ta lại cười và tiếp luôn:
- Đã thế, thì để tôi làm mối cho cô một nơi. Chỗ chúng tôi tuy nói là đất trang trại, nhưng cũng có nhà giàu lớn, có mấy ngàn thửa ruộng, mấy trăm trâu bò, tiền bạc cũng nhiều ; có điều không có vàng, có ngọc như đây. Mợ thì cố nhiên không coi
những hạng nhà ấy ra gì; chỉ chúng tôi con nhà trang trại thấy những nhà giàu như thế, cũng cho là người trên trời rồi đấy.
Phượng Thư nói:
- Bà cứ nói đi, tôi bằng lòng sẽ gả.
- Nói chơi đấy thôi, ngay những nhà quan quyền sang trọng như nhà mợ đây, sợ mợ cũng chẳng chịu gả, đời nào lại gả cho con nhà trang trại? Dầu cho mợ bằng lòng, các bà ở trên cũng không thuận.
Xảo Thư thấy bà ta nói đến chuyện ấy, đứng nghe không tiện, liền chạy đi trò chuyện với con Thanh. Hai cô gái nhỏ nói chuyện hợp ý nhau, dần dần quen nhau.
Bình Nhi sợ bà Lưu nói nhiều làm phiền Phượng Thư, liền kéo bà ta và nói:
- Bà nhắc đến bà lớn, mà bà chưa sang bên ấy. Tôi ra gọi người đưa bà sang gặp một chút, cũng không uổng công đi chuyến này.
Bà Lưu muốn đi ngay, Phượng Thư nói:
- Vội gì? Bà hãy ngồi xuống. Tôi hỏi bà - gần đây ăn tiêu có được đầy đủ không?
Bà Lưu cảm ơn mãi và nói:
- Chúng tôi mà không nhờ mợ. - Nói đến đó, bà ta chỉ con Thanh và nói tiếp - thì cha mẹ nó đến chết đói mất. Bây giờ tuy nói con nhà trang trại khổ, nhưng trong nhà cũng đã tậu được mấy mẫu ruộng, lại đào một cái giếng, trồng một ít rau, bầu, dưa. Quanh năm cũng bán được nhiều tiền, đủ cho bọn chúng tôi ăn rồi. Hai năm nay, mợ lại thường cho ít nhiều quần áo vải bông, ở trang trại chúng tôi như thế cũng tạm cho là đầy đủ. A di đà Phật! Trước đấy bố nó vào trong thành, nghe nói ở nhà mợ đây xảy ra việc không may, tôi gần chết khiếp đi được; may có người lại nói, không phải ở đây tôi mới yên lòng. Sau lại nghe nói ông lớn đây được thăng chức, tôi lại vui mừng, định đến mừng ngay, vì việc cấy hái đang bận rộn nên đi không được. Hôm qua lại nghe nói cụ bà quy tiên. Tôi đang hái đậu ở ngoài đồng. nghe vậy, sợ quá không tài nào cầm nổi quả đậu nữa, đến khóc một hồi lâu, rồi nói với người rể tôi: « Thôi, tao cũng không giúp đỡ công việc cho chúng mày được nữa. Không biết tin đồn có đúng hay không, nhưng tao cũng phải vào thành thăm một chút! » Rể tôi và con tôi cũng không phải là hạng người bạc bội, nghe nói thế chúng cũng khóc một hồi. Hôm nay trời chưa sáng, chúng nó đã giục tôi vào đây. Đến nơi tôi chẳng quen ai, cũng chẳng biết dò la ở đâu. Tôi đi một mạch tới cửa sau. Thấy tất cả các tượng thần ở cửa đều dán giấy trắng tôi sợ quá. Vào cửa rồi tôi đi tìm chị Chu, tìm không được, vừa gặp một cô, cô ta nói: « Chị Chu có lỗi, bị đuổi ra rồi. » Tôi lại chờ một hồi lâu, gặp một người quen, mới vào được đây. Không ngờ mợ cũng ốm như thế!
Nói xong, bà ta chảy nước mắt ra. Bình Nhi sốt ruột, không chờ bà ta nói xong, liền nắm lấy tay dắt đi và nói:
- Bà nói chuyện một hồi lâu khô cả cổ, chúng ta đi uống chén trà đã.
Rồi chị ta dắt bà Lưu xuống ngồi ở nhà dưới. Còn con Thanh thì ở bên chỗ Xảo Thư. Bà Lưu nói:
- Trà thì không cần, nhờ cô bảo người dẫn tôi sang chào bà lớn và đi khóc cụ bà một chút.
Bình Nhi nói:
- Bà đừng vội. Hôm nay cũng không ra khỏi thành kịp. Vừa rồi tôi sợ bà nói sơ ý làm mợ tôi khóc, nên mới giục bà ra. Bà đừng nghĩ gì.
- A di đà Phật! Cô ơi, cô quá lo đấy thôi, tôi cũng biết rồi. Nhưng bệnh mợ thì làm thế nào bây giờ? Bà xem có cần gì không?
- Nói ra thì có tội, chứ tôi xem chừng nguy lắm đấy!
Đang nói thì nghe Phượng Thư gọi. Bình Nhi đến bên giường thì Phượng Thư lại không nói gì cả. Bình Nhi đang hỏi Phong Nhi thì Giả Liễn vào. Hắn nhìn lên giường, cũng không nói gì, đi vào nhà trong hầm hầm ngồi xuống. Chỉ có Thu Đồng theo vào, rót chén trà ân cần thăm hỏi, rồi nhỏ to câu chuyện, chẳng biết là nói những gì. Một chốc, Giả Liễn gọi Bình Nhi tới hỏi:
- Mợ không uống thuốc à?
- Không uống. Biết làm thế nào bây giờ?
- Ta biết sao được? Chị đưa cái chìa khóa tủ lại đây.
Bình Nhi thấy Giả Liễn có vẻ tức giận, cũng không dám hỏi, đành phải đi ra, ghé bên tai Phượng Thư nói nhỏ mấy câu. Phượng Thư im lặng, Bình Nhi liền đưa một cái hộp nhỏ để bên mình Giả Liễn rồi đi ngay.
Giả Liễn nói:
- Ma bắt chị rồi à? Chị để đấy bảo ai mở?
Bình Nhi nén giận, mở hộp lấy chìa khóa ra mở tủ rồi hỏi:
- Cậu lấy cái gì?
- Chúng mình còn cái gì nữa.
Bình Nhi tức phát khóc lên, bèn nói:
- Có việc gì cậu cứ nói cho rõ ràng, tôi có chết cũng cam lòng!
Giả Liễn nói:
- Còn phải nói nữa? Việc trước kia do các người gây ra, giờ đây việc của cụ còn thiếu mất bốn năm ngàn bạc. Chú bảo đem sổ sách công để xoay tiền. Chị xem còn có nữa không? Nợ nần bên ngoài còn không biết lấy gì mà trang trải đây. Ai bảo tôi nhận lấy cái danh hão này! Đành phải đem những vật dụng mà bán đi để bù vào thôi? Chị không bằng lòng hay sao?
Bình Nhi nghe xong, không nói một câu nào, liền khuân hết đồ vật trong tủ ra. Bỗng thấy Tiểu Hồng chạy sang nói:
- Chị Bình đến mau! Mợ nguy lắm rồi.
Bình Nhi cũng không kể gì Giả Liễn nữa, vội vàng chạy sang, thì thấy Phượng Thư giơ tay bắt chuồn chuồn giữa không, Bình Nhi nắm lấy tay, vừa khóc vừa gọi. Giả Liễn cũng chạy sang nhìn rồi dậm chân, và nói:
- Cứ thế này là định giết tôi đấy?
Nói xong, hắn chảy nước mắt.
Phong Nhi vào nói:
- Ngoài kia đang tìm cậu Hai đấy.
Giả Liễn đành phải đi ra.
Ở trong này Phượng Thư càng nguy cấp. Bọn Phong Nhi khóc ầm lên. Xảo thư nghe tiếng chạy lại. Bà cụ Lưu cũng vội vàng chạy đến trước giường. Miệng niệm Phật, phù phép gì một lát; quả nhiên Phượng Thư hơi đỡ hơn. Một lúc Vương phu nhân nghe a hoàn nói, cũng qua thăm, thấy Phượng Thư có phần yên tĩnh, cũng tạm yên lòng. Bà ta thấy bà Lưu liền hỏi:
- Bà cụ có khỏe không? Đến đây từ bao giờ?
- Xin hỏi thăm sức khỏe của bà lớn.
Rồi hai người cũng không kịp nói chuyện gì, chỉ bàn tán về bệnh Phượng Thư. Trò chuyện một hồi lâu. Thái Vân vào nói:
- Ông lớn mời bà lớn.
Vương phu nhân dặn dò Bình Nhi mấy câu rồi ra về. Sau một hồi nguy cấp, Phượng Thư lại hơi tỉnh táo. Thấy bà Lưu ngồi đấy trong bụng chị ta tin việc bà ấy nói chuyện cầu thần cầu thánh, liền tìm cách bảo bọn Phong Nhi ra ngoài, rồi gọi
bà Lưu lại nói cho bà ta biết tâm thần mình không yên, hình như trông thấy ma quỷ. Bà Lưu bèn kể lại ở trang trại có vị bồ tát nào thiêng liêng ngôi đền nào linh ứng. Phượng Thư nói:
- Nhờ bà cầu hộ cho tôi, cần tiền cúng lễ thì có đây, chị ta liền rút một chiếc vòng vàng trong cổ tay ra trao cho bà cụ.
- Mợ ạ. Không cần cái ấy đâu. Người ở trang trại chúng tôi hứa nguyện rồi mà bệnh khỏi thì chỉ tiêu mấy trăm đồng tiền là được làm gì cần đến như thế? Ngay cả tôi cầu hộ cho mợ đây. cũng là khấn trước đấy thôi, chờ mợ khỏe rồi, muốn cúng bao nhiêu thì mợ tự đi cúng lấy thôi.
Phượng Thư biết rõ lòng tốt của bà ta, nài ép không tiện, đành phải để lại, và nói:
- Bà ạ..Tính mạng của tôi xin giao phó cho bà. Con Xảo nhà tôi, trăm chứng ngàn tật, nay cũng giao phó cho bà luôn?
Bà Lưu thuận miệng vâng lời, và nói:
- Đã vậy tôi xem trời còn sớm, có thể ra thành kịp, để tôi đi ngay. Sau này mợ khỏi rồi, sẽ mời đi lễ tạ.
Phượng Thư bị mấy hồn oan quấn quít, đâm ra sợ hãi, chỉ trông mong bà ta đi cầu ngay cho, liền nói:
- Nếu bà chịu hết lòng hộ tôi, tôi ngủ được một giấc yên ổn, thì tôi rất cảm ơn bà. Còn cháu ngoại bà thì bảo nó ở lại đây với tôi.
- Con cái nhà trang trại, không biết gì. Ở đây chỉ thêm sinh chuyện người ta chê cười, tôi đưa nó về là hơn.
- Bà quá lo. Đã là bà con thì sợ gì điều ấy. Nhà chúng tôi đây hiện nay túng thiếu nhưng thêm một người ăn. Có đáng là bao.
Bà Lưu thấy Phượng Thư thật tình. Bảo con Thanh ở đây mấy hôm, trong nhà đỡ tốn miệng ăn thì cũng thích. Nhưng sợ nó không chịu ở. Chi bằng gọi nó tới hỏi, nếu bằng lòng thì để ở lại. Rồi bà ta nói với con Thanh mấy câu. Con Thanh chơi với Xảo Thư đã quen, Xảo Thư lại không bằng lòng cho nó về. Con Thanh cũng muốn ở lại. Bà cụ liền dặn dò mấy câu, rồi từ biệt Bình Nhi, vội vàng ra thành.
Am Lũng Thúy nguyên là đất của phủ Giả. Khi làm vườn tỉnh thân, họ liền bao cả am ấy vào trong vườn. Lâu nay tiền ăn tiêu và hương dầu không hề động đến tiền lương của phủ Giả. Bây giờ Diệu Ngọc bị cướp. Bọn ni cô trình báo đến cửa quan.
Một là phải chờ xem quan trên tầm nã trộm cướp ra sao ; hai là cơ nghiệp của Diệu Ngọc không tiện bỏ đi, nên vẫn để lại như cũ. Họ chỉ trình cho phủ Giả biết tình hình mà thôi. Lúc bấy giờ người trong phủ Giả tuy ai cũng biết. Nhưng vì Giả Chính mới có tang, vả lại trong bụng lo lắng không yên, nên không ai dám đem
việc không quan trọng ấy trình với ông ta. Chỉ có Tích Xuân biết rõ việc này, thì ngày đêm áy náy. Việc Diệu Ngọc bị kẻ gian bắt cóc dần dần đồn đến tai Bảo Ngọc. Có người nói: “Diệu Ngọc động lòng tình dục, bỏ đi theo người.” Bảo Ngọc nghe tin rất là buồn bực nghĩ bụng: « Chắc cô ta bị bọn cướp bắt đi. Con người ấy nhất định không chịu, thế nào cũng chết chứ không chịu nhục? » Nhưng không thấy rõ kết quả ra sao, trong lòng anh ta rất là áy náy, ngày nào cũng thở vắn than dài. Anh ta lại nói:
- Con người như thế, thường tự xưng là «Người ngoài cửa », sao mà kết cục lại như thế?
Rồi anh ta lại nghĩ: « Trước kia trong vườn vui vẻ biết bao! Từ khi chị Hai về nhà chồng tới nay, người thì chết, người thì đi lấy chồng, mình tưởng Diệu Ngọc là người không vướng chút bụi trần, thế nào cũng giữ được lâu dài. Ngờ đâu sóng gió
bất thường, so với em Lâm chết càng kỳ quái! Do đó một nghĩ đến hai, hai nghĩ đến ba, anh ta nghĩ lại việc xưa rồi nhớ đến câu nói của Trang tử cuộc đời hư vô mịt mùng. Người ta sinh ra ở đời khó lòng tránh khỏi cảnh mây tan gió cuốn”. Bảo Ngọc nghĩ như thế, bất giác khóc to lên. Bọn Tập Nhân cho là bệnh điên anh ta lại phát, nên tìm mọi cách ôn tồn khuyên giải. Ban đầu Bảo Thoa không biết là duyên cớ vì đâu, cũng dùng lời khuyên răn. Khốn nỗi Bảo Ngọc cứ uất ức không cởi mở ra được, nên tinh thần đâm ra hoảng hốt. Bảo Thoa nghĩ không hiểu vì lý do gì sao dò la mãi, mới biết là vì Diệu Ngọc bị bọn cướp bắt, không biết đi đâu. Bảo Thoa cũng thương cảm, nhưng thấy Bảo Ngọc buồn phiền, phải dùng lời ngay lẽ thẳng khuyên giải. Chị ta nói:
- Cháu Lan từ khi đi đưa đám tang về. Tuy không đi học, nhưng ngày đêm vẫn mải miết học hành. Nó là chắt đầu của bà. Bà xưa nay trông mong cho cậu nên người. Cha ngày đêm lo lắng cho cậu. Thế mà cậu cứ ngây ngây, dại dại, làm hư hỏng mình. Chúng tôi đây làm bạn với cậu sau này sẽ ra sao đây?
Câu nói ấy làm cho Bảo Ngọc không biết trả lời ra sao. Hồi lâu mới nói:
- Tôi có để ý gì đến việc người ta đâu. Tôi chỉ buồn vì vận nhà mình suy sụp!
Bảo Thoa nói:
- Lại còn phải nói! Cha và mẹ vốn muốn cho cậu nên người để nối nghiệp ông cha. Thế mà cậu cứ mê man không tỉnh, thì làm thế nào?
Bảo Ngọc nghe chừng nói không vừa ý mình, liền dựa lên bàn mà ngủ. Bảo Thoa cứ để mặc, bảo bọn Xạ Nguyệt hầu, rồi đi vào đi ngủ.
Bảo Ngọc thấy lúc đó trong nhà vắng người, nghĩ bụng: “Từ khi Tử Quyên đến đây, mình chưa hề cùng chị ta nói chuyện tâm tình. Bộ chị ta lạnh nhạt như thế, mình rất lấy làm băn khoăn. Chị ta lại không phải như bọn Xạ Nguyệt, Thu Văn mà mình có thể bảo ban gì cũng được. Nhớ lại năm nọ khi mình ốm, chị ta ở với mình một độ lâu, có một cái gương nhỏ của chị ta hiện nay còn ở trong người mình. Chị ta cũng không phải là người vô tình. Bây giờ không biết vì sao, chị ta thấy mình cứ tỏ vẻ lạnh lùng, nhạt nhẽo. Nếu nói là vì vợ mình rất thân với em Lâm, và xem ra đối với Tử Quyên cũng khá. Lúc mình đi vắng, Tứ Quyên với nó cũng cười cũng nói không có chuyện gì ; chỉ khi mình đến là Tử Quyên chạy đi nơi khác. Chắc là Tử Quyên giận về chỗ em Lâm mới chết, mình đã cưới vợ. Chao ôi! Tử Quyên! Tử Quyên! Chị là người con gái thông minh như thế, mà không nghĩ cho nỗi khổ tâm của tôi. Rồi anh ta lại nghĩ - Đêm nay người thì ngủ, người thì làm việc, chi bằng nhân dịp này mình đi tìm Tử Quyên, xem chị ta có nói gì không. Nếu mình còn có điều gì không phải thì cứ xin lỗi chị ta cũng được.”
Bảo Ngọc nghĩ thế rồi bước nhẹ ra cửa phòng, đi tìm Tử Quyên. Phần Tử Quyên ở gian trong nhà phía tây. Bảo Ngọc nhè nhẹ đi đến dưới cửa sổ, thấy bên trong còn có bóng đèn, liền dùng lưỡi liếm cho rách giấy cửa sổ nhìn vào trong, thấy Tử
Quyên một mình khêu đèn ngồi ngơ ngẩn, chẳng làm gì cả.
Bảo Ngọc bèn gọi nhỏ:
- Chị Tử Quyên ơi! Chị chưa ngủ à?
Tử Quyên nghe gọi, giật nẩy mình, ngơ ngác một hồi lâu, rồi mới hỏi:
- Ai đấy?
- Tôi đây.
Tử Quyên nghe giống như tiếng Bảo Ngọc, liền hỏi:
- Cậu Bảo đấy à?
Bảo Ngọc ở ngoài ừ một tiếng nhỏ. Tử Quyên hỏi:
- Cậu đến có việc gì?
- Chị yên tâm, tôi muốn nói chuyện với chị. Chị mở cửa ra, tôi vào phòng chị ngồi một chút.
Tử Quyên im lặng một chốc, rồi nói:
- Trời khuya rồi, mời cậu về đi, có chuyện gì ngày mai hãy nói. Bảo Ngọc nghe nói, lạnh ngắt nửa con người, muốn vào thì sợ Tử Quyên chưa chắc đã chịu mở cửa, muốn trở về thì mối tình thầm kín trong lòng càng bị lời nói của Tử Quyên khêu gợi. Bất đắc dĩ, anh ta phải nói:
- Tôi cũng chẳng nói gì nhiều, chỉ hỏi chị một câu.
- Đã là một câu thì xin cứ nói ngay đi.
Bảo Ngọc đứng hồi lâu không nói gì cả..
Tử Quyên ở trong nhà, không nghe Bảo Ngọc nói, biết anh ta vốn có bệnh ngây, sợ trách móc nặng lời sẽ gợi bệnh của anh ta lên, thì lại không hay, liền đứng dậy lắng nghe một lát rồi lại hỏi:
- Cậu đi rồi hay còn đứng ngây người ra đấy? Có chuyện gì không nói đi, cứ đứng ì ra đó mà trêu tức người ta? Đã trêu chết một người rồi, không lẽ lại định trêu chết một người nữa hay sao? Tội tình gì mà như thế?
Nói xong, chị ta cũng ghé vào lỗ giấy Bảo Ngọc liếm rách mà trông ra ngoài. Thấy Bảo Ngọc vẫn ngơ ngác đứng nghe ở đấy. Tử Quyên không tiện nói thêm nữa, quay lại cắt hoa đèn.
Bỗng nghe Bảo Ngọc thở dài một tiếng và nói:
- Chị Tử Quyên ơi! Xưa nay chị vốn không phải là người ruột gan sắt đá như thế, sao mà gần đây chẳng hề nói một câu tử tế nào? Tôi cố nhiên là đồ dơ-đục, không đáng cho các chị nhìn tới, nhưng nếu tôi có điều gì không phải, mong chị cứ nói rõ ra, thì dẫu suốt đời chị không nhìn tôi, tôi chết đi cũng thỏa lòng?
Tử Quyên nghe xong, cười nhạt và nói:
- Cậu Hai chỉ có câu chuyện ấy thôi à? Hay còn có gì nữa? Nếu chỉ có câu chuyện ấy, thì lúc cô tôi còn sống. Tôi nghe đã nhàm tai rồi ; nếu chúng tôi có chỗ nào sai lầm thì tôi là người bà lớn sai đến, cậu Hai cứ trình lại với bà lớn. Đằng nào chúng
tôi cũng là bọn con hầu, có đáng kể gì?
Tử Quyên nói đến đó, giọng đã nghẹn ngào, vừa nói vừa sụt sùi. Bảo Ngọc ở ngoài biết chị ta đau lòng mà khóc, liền hoảng lên dậm chân và nói:
- Nói cái gì thế? Sự việc của tôi, chị ở đây đã mấy tháng trời, còn có gì chưa biết rõ hay sao? Dầu người khác không chịu nói hộ với chị cho tôi, không lẽ chị còn không để cho tôi nói, định bắt tôi chết đi à?
Nói xong, anh ta cũng khóc nức nở.
Bảo Ngọc đang đứng khóc ở đấy, bỗng nghe sau lưng có một người nói tiếp:
- Cậu bảo ai nói hộ cho cậu? Mình mang lỗi với người ta thì mình phải nài xin lấy chứ? Người ta có nể mặt hay không thì mặc người ta, tại sao lại lôi cả bọn người vô can như chúng tôi vào đấy?
Câu nói ấy làm cho cả hai đều giật mình. Các bạn thử nghĩ người đó là ai? Đó là Xạ Nguyệt. Bảo Ngọc cảm thấy khó coi. Chợt nghe Xạ Nguyệt nói tiếp:
- Rút cục lại làm sao thế? Một người xin lỗi. Một người cứ để mặc. Cậu phải mau mau van xin đi chứ! Chà? Chị Tử Quyên nhà mình cũng độc ác quá! Ngoài này trời lạnh như thế, người ta van xin mãi cũng không lay chuyển gì cả!
Rồi chị ta lại nói với Bảo Ngọc:
- Vừa rồi mợ Hai nói trời khuya lắm rồi, tường là cậu đi đâu, té ra cậu lại một mình đứng dưới thềm cái phòng này làm gì?
Tử Quyên ở trong nhà nói tiếp:
- Thế này là nghĩa lý gì? Mời cậu Hai đi về, có điều gì ngày mai hãy nói. Tội tình gì thế?
Bảo Ngọc còn muốn nói nữa, nhưng thấy Xạ Nguyệt ở đấy, nói không tiện, đành phải cùng Xạ Nguyệt đi về, và nói:
- Thôi! Thôi! Đời này kiếp này tôi cũng khó mà giải tỏ nỗi lòng! Chỉ có trời già biết cho mà thôi!
Anh ta nói đến đó, chẳng biết nước mắt từ đâu tuôn ra như suối. Xạ Nguyệt nói:
- Cậu Hai ạ, cậu nghe tôi khuyên mà dập tắt tấm lòng ấy đi thôi. Cứ nhỏ nước mắt suông như thế, cũng đáng tiếc đấy.
Bảo Ngọc cũng không nói lại, đi vào trong nhà, thấy BảoThoa đã ngủ rồi. Bảo Ngọc cũng biết là Bảo Thoa giả vờ ngủ. Chỉ có Tập Nhân nói một câu:
- Có chuyện gì ngày mai cậu nói không được hay sao? Lại cứ chạy đến đấy mà quấy rầy, sinh ra...
Chị ta thôi không nói nữa, dừng một lát, mới nói tiếp:
- Trong người cậu không thấy làm sao chứ?
Bảo Ngọc chỉ lắc đầu không nói gì. Tập Nhân liền dọn giúp cho Bảo Ngọc nằm xuống. Suốt đêm anh ta không ngủ, điều đó không cần phải nói.
Tử Quyên bị Bảo Ngọc gợi chuyện ra, trong lòng lại càng khó chịu, khóc suốt một đêm, nghĩ bụng: « Bảo Ngọc rõ ràng là vì ốm mê man, bị họ bày mưu lập kế mà sinh việc ấy. Sau đó anh ta rõ chuyện, bệnh cũ lại phát, thường thường nhớ nhung khóc lóc, không phải là hạng người quên tình phụ nghĩa. Hôm nay anh ta tỏ rõ mối tình âu yếm như th, lại càng làm cho mình khó chịu. Chỉ đáng thương cô Lâm nhà mình thật là kém phúc. Xem như thế thì duyên phận con người đều đã định từ trước. Khi duyên phận chưa đến thì ai nấy đều ngây ngất mơ tưởng, đến lúc khôn làm sao được thì người hồ đồ sẽ không nghĩ gì nữa, còn người tình sâu nghĩa nặng rút cục cũng chỉ trông trăng đón gió, khóc lóc than phiền mà thôi. Đáng thương người chết chưa chắc đã biết gì, mà người sống thật là đau lòng xót ruột, không bao giờ nguôi. Kể ra thì con người không bằng cỏ, cây, hòn đá, không hay biết gì, thế mà lại được rãnh rỗi.” Chị ta nghĩ đến đó, tấm lòng chua xót, chốc lát trở nên nguội lạnh. Tử Quyên vừa định thu xếp đi ngủ, thì nghe bên nhà phía đông có tiếng ồn ào.

Truyện Hồng Lâu Mộng Lời giới thiệu Hồi thứ nhất Hồi thứ hai Hồi thứ ba Hồi thứ tư Hồi thứ năm(1) Hồi thứ sáu Hồi thứ bảy Hồi thứ tám Hồi thứ chín Hồi thứ mười Hồi thứ mười một Hồi thứ mười hai Hồi thứ mười ba Hồi thứ mười bốn Hồi thứ mười lăm Hồi thứ mười sáu Hồi thứ mười bảy và mười tám Hồi thứ mười chín Hồi thứ hai mươi Hồi thứ hai mươi mốt Hồi thứ hai mươi hai Hồi thứ hai mươi ba Hồi thứ hai mươi bốn Hồi thứ hai mươi lăm Hồi thứ hai mươi sáu Hồi thứ hai mươi bảy Hồi thứ hai mươi tám Hồi thứ hai mươi chín Hồi thứ ba mươi Hồi thứ ba mươi mốt Hồi thứ ba mươi hai Hồi thứ ba mươi ba Hồi thứ ba mươi bốn Hồi thứ ba mươi lăm Hồi thứ ba mươi sáu Hồi thứ ba mươi bảy Hồi thứ ba mươi tám Hồi thứ ba mươi chín Hồi thứ bốn mươi Hồi thứ bốn mươi mốt Hồi thứ bốn mươi hai Hồi thứ bốn mươi ba Hồi thứ bốn mươi bốn Hồi thứ bốn mươi lăm Hồi thứ bốn mươi sáu Hồi thứ bốn mươi bảy Hồi thứ bốn mươi tám Hồi bốn mươi chín Hồi thứ năm mươi Hồi thứ năm mươi mốt Hồi thứ năm mươi hai Hồi thứ năm mươi ba Hồi thứ năm mươi bốn Hồi thứ năm mươi lăm Hồi thứ năm mươi sáu Hồi thứ năm mươi bảy Hồi thứ năm mươi tám Hồi thứ năm mươi chín Hồi thứ sáu mươi Hồi thứ sáu mươi mốt Hồi thứ sáu mươi hai Hồi thứ sáu mươi ba Hồi thứ sáu mươi tư Hồi thứ sáu mươi lăm Hồi thứ sáu mươi sáu Hồi thứ sáu mươi bảy Hồi thứ sáu mươi tám Hồi thứ sáu mươi chín Hồi thứ bảy mươi Hồi thứ bảy mươi mốt Hồi thứ bảy mươi hai Hồi thứ bảy mươi ba Hồi thứ bảy mươi tư Hồi thứ bảy mươi lăm Hồi thứ bảy mươi sáu Hồi thứ bảy mươi bảy Hồi thứ bảy mươi tám Hồi thứ bảy mươi chín Hồi thứ tám mươi Hồi thứ tám mươi mốt Hồi thứ tám mươi hai Hồi thứ tám mươi ba Hồi thứ tám mươi tư Hồi thứ tám mươi lăm Hồi thứ tám mươi sáu Hồi thứ tám mươi bảy Hồi thứ tám mươi tám Hồi thứ tám mươi chín Hồi thứ chín mươi Hồi thứ chín mươi mốt Hồi thứ chín mươi hai Hồi thứ chín mươi ba Hồi thứ chín mươi bốn Hồi thứ chín mươi lăm Hồi thứ chín mươi sáu Hồi thứ chín mươi bảy Hồi thứ chín mươi tám Hồi thứ chín mươi chín Hồi thứ một trăm Hồi thứ một trăm lẻ một Hồi thứ một trăm lẻ hai Hồi thứ một trăm lẻ ba Hồi thứ một trăm lẻ bốn Hồi thứ một trăm lẻ năm Hồi thứ một trăm lẻ sáu Hồi thứ một trăm lẻ bảy Hồi thứ một trăm lẻ tám Hồi thứ một trăm lẻ chín Hồi thứ một trăm mười Hồi thứ một trăm mười một Hồi thứ một trăm mười hai Hồi thứ một trăm mười ba Hồi thứ một trăm mười bốn Hồi thứ một trăm mười lăm Hồi thứ một trăm mười sáu Hồi thứ một trăm mười bảy Hồi thứ một trăm mười tám Hồi thứ một trăm mười chín Hồi thứ một trăm hai mươi